Đánh giá vai trò dect trong bệnh gout và khảo sát mối liên quan với các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng

Nhận diện tinh thể Urate từ dịch khớp dưới kính hiển vi phân cực được coi là tiêu chuẩn vàng

trong chẩn đoán bệnh Gout. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng chọc hút được đủ lượng dịch khớp hoặc

trong trường hợp bị đau không thể chọc hút dịch được. Chụp cắt lớp điện toán năng lựợng kép (DECT) là công

cụ mới để chẩn đoán bệnh Goute. DECT cho thấy hình ảnh lắng đọng các tinh thể urate và những hình ảnh

cấu trúc xương nhờ sử dụng màu hiển thị khác nhau. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự thống nhất từ những kết quả

nghiên cứu trên thế giới. Tại Việt Nam, chưa thấy có một nghiên cứu gốc nào được công bố. Mục tiêu: Đánh

giá vai trò DECT trong bệnh Gout và khảo sát mối liên quan với các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng. Phương

pháp: Một nghiên cứu cắt ngang phân tích được thực hiện ở những bệnh nhân tới khám tại Phòng khám đa

khoa Hòa Hảo - Medic thành phố Hồ Chí Minh. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh gút dựa theo ACR/EULAR 2015;

và có kết quả DECT. Các ca bệnh được chọn liên tục, không có trường hợp mất mẫu. Phân tích đa biến hồi qui

logistic được sử dụng để xác định mối liên quan độc lập giữa các biến số lâm sàng và cận lâm sàng với hình

ảnh DECT. Kết quả: 61 trong số 80 bệnh nhân Gout có DECT dương tính chiếm 77,25%, có mối liên quan giữa

DECT và số cơn gout (> 3 lần), thời gian bị bệnh (> 36 tháng), hạt tô phi. Không tìm thấy mối liên quan giữa các

biến số lâm sàng và các đặc tính nền trong nghiên cứu. Về cận lâm sàng, hình ảnh lắng đọng tinh thể urate

thể hiện dấu ấn rõ ràng về bệnh Gout, còn các biến số khác không tìm thấy thể hiện. Kết luận: DECT có liên

quan mật thiết với tần số xuất hiện cơn Gout, thời gian bị bệnh và hạt tô phi. Bệnh Gout là hệ quả của hành

vi lối sống, thói quen ăn uống sinh hoạt chưa hợp lí, tiếp xúc nhiều với các yếu tố nguy cơ trong cuộc sống.

pdf 6 trang kimcuc 4600
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá vai trò dect trong bệnh gout và khảo sát mối liên quan với các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá vai trò dect trong bệnh gout và khảo sát mối liên quan với các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng

Đánh giá vai trò dect trong bệnh gout và khảo sát mối liên quan với các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng
78
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Địa chỉ liên hệ: Trần Văn Nam, email: trannammd@gmail.com 
Ngày nhận bài: 13/3/2019, Ngày đồng ý đăng: 17/4/2019; Ngày xuất bản: 25/4/2019
ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ DECT TRONG BỆNH GOUT VÀ KHẢO SÁT 
MỐI LIÊN QUAN VỚI CÁC YẾU TỐ LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG
Trần Văn Nam1,2, Võ Tam2, Nguyễn chí cường1,
 Võ Nguyễn Thành Nhân1, Phan Thanh Hải1
(1) Trung tâm Y khoa Hòa Hảo Medic, thành phố Hồ Chí Minh
(2) Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Nhận diện tinh thể Urate từ dịch khớp dưới kính hiển vi phân cực được coi là tiêu chuẩn vàng 
trong chẩn đoán bệnh Gout. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng chọc hút được đủ lượng dịch khớp hoặc 
trong trường hợp bị đau không thể chọc hút dịch được. Chụp cắt lớp điện toán năng lựợng kép (DECT) là công 
cụ mới để chẩn đoán bệnh Goute. DECT cho thấy hình ảnh lắng đọng các tinh thể urate và những hình ảnh 
cấu trúc xương nhờ sử dụng màu hiển thị khác nhau. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự thống nhất từ những kết quả 
nghiên cứu trên thế giới. Tại Việt Nam, chưa thấy có một nghiên cứu gốc nào được công bố. Mục tiêu: Đánh 
giá vai trò DECT trong bệnh Gout và khảo sát mối liên quan với các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng. Phương 
pháp: Một nghiên cứu cắt ngang phân tích được thực hiện ở những bệnh nhân tới khám tại Phòng khám đa 
khoa Hòa Hảo - Medic thành phố Hồ Chí Minh. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh gút dựa theo ACR/EULAR 2015; 
và có kết quả DECT. Các ca bệnh được chọn liên tục, không có trường hợp mất mẫu. Phân tích đa biến hồi qui 
logistic được sử dụng để xác định mối liên quan độc lập giữa các biến số lâm sàng và cận lâm sàng với hình 
ảnh DECT. Kết quả: 61 trong số 80 bệnh nhân Gout có DECT dương tính chiếm 77,25%, có mối liên quan giữa 
DECT và số cơn gout (> 3 lần), thời gian bị bệnh (> 36 tháng), hạt tô phi. Không tìm thấy mối liên quan giữa các 
biến số lâm sàng và các đặc tính nền trong nghiên cứu. Về cận lâm sàng, hình ảnh lắng đọng tinh thể urate 
thể hiện dấu ấn rõ ràng về bệnh Gout, còn các biến số khác không tìm thấy thể hiện. Kết luận: DECT có liên 
quan mật thiết với tần số xuất hiện cơn Gout, thời gian bị bệnh và hạt tô phi. Bệnh Gout là hệ quả của hành 
vi lối sống, thói quen ăn uống sinh hoạt chưa hợp lí, tiếp xúc nhiều với các yếu tố nguy cơ trong cuộc sống.
Từ khóa: DECT (Dual-energy Computed Tomography: Chụp cắt lớp điện toán năng lượng kép), Hòa Hảo-
Medic, Gout
Abstract 
TO EVALUATE DECT’S ROLE IN GOUT AND EXAMINE THE 
RELATIONSHIP WITH CLINICAL AND PARACLINICAL
Tran Van Nam1,2, Vo Tam2, Nguyen Chi Cuong1, Vo Nguyen Thanh Nhan1, Phan Thanh Hai1
(1) Hoa Hao Medic Clinical, Ho Chi Minh city
(2) Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background: To identify Urate crystals from synovial fluid under polarized microscopy is considered 
the gold standard in diagnosing Gout disease. However, it is not always possible to suck up enough fluid 
or in case of pain, it is impossible to suck the fluid. Dual-energy Computed Tomography (DECT) is a new 
tool for diagnosing Gout disease. DECT shows the deposition of urate crystals and bone structure images 
using different display colors. However, there is no agreement from the research results in the world. In 
Vietnam, no original research has been published. Objective: To evaluate DECT’s role in Gout and examine 
the relationship with clinical and paraclinical factors. Methods: A cross-sectional study was conducted in 
patients who visited the Hoa Hao - Medic clinic in Ho Chi Minh City. Gout disease is diagnosed with clinical 
and paraclinical criteria; and have DECT results. The cases were selected continuously, there were no cases of 
losing samples. Multivariate logistic regression analysis was used to determine the independent association 
between clinical and paraclinical variables with DECT images. Results: 61 out of 80 Gout patients with DECT 
positive accounted for 77.25%, There was an association between DECT and number of Gout attacks (> 3 
times), duration of illness (> 36 months), tophi seeds. No correlation was found between clinical variables 
DOI: 10.34071/jmp.2019.2.13
79
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
and background characteristics in the study. In the subclinical, urate crystal deposition images show a clear 
imprint on goute disease, while other variables do not find expression. Conclusion: DECT is closely related 
to the frequency of gout attacks, disease duration and tophi. Gout disease is a consequence of lifestyle 
behaviors, inappropriate eating habits, and exposure to risk factors in life.
Keywords: DECT (Dual-energy Computed Tomography), Hoa Hao-Med, Gout
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh Gout là bệnh không lây nhiễm và là dạng 
viêm khớp thường gặp nhất, với tỉ lệ 3,9% dân số 
ở Mỹ, 0,9% ở Pháp, 1,4 – 2,5% ở Anh, 3,9% ở New 
Zealand và ở Việt Nam là 1,14% [1]. Tỉ lệ mắc bệnh 
vẫn tiếp tục gia tăng, chủ yếu trong nhóm tuổi từ 
30-50 [3]. Gout gây ra cơn đau dữ dội và có mối 
liên quan đến hội chứng chuyển hóa, bệnh tim mạn 
tính và đái tháo đường [5] [3]. Nhận diện tinh thể 
urate từ dịch khớp dưới kính hiển vi phân cực là tiêu 
chuẩn vàng trong chẩn đoán bệnh Gout. Tuy nhiên 
không phải lúc nào cũng lấy đủ lượng dịch để chẩn 
đoán và đây là thủ thuật xâm lấn. Chụp cắt lớp điện 
toán năng lượng kép là công cụ mới để chẩn đoán 
bệnh Gout nhưng vẫn chưa thống nhất nhau từ các 
nghiên cứu trên thế giới [4]. 
Tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào về vấn đề 
này. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm khảo sát 
mối liên quan giữa DECT với các yếu tố lâm sàng và 
cận lâm sàng ở những người bị bệnh Gout đến khám 
tại Hòa Hảo - Medic TP. Hồ Chí Minh.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Môt nghiên cứu cắt ngang phân tích được thực 
hiện ở những bệnh nhân tới khám tại Phòng khám 
đa khoa Hòa Hảo - Medic thành phố Hồ Chí Minh 
từ 03/2018 - 03/2019. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh 
gout dựa theo ACR/EULAR 2015, và có kết quả 
DECT; DECT được thực hiện đúng chỉ định và chống 
chỉ định. Các ca bệnh được chọn liên tục, không 
có trường hợp mất mẫu. Phân tích đa biến hồi qui 
logistic được sử dụng để xác định mối liên quan độc 
lập giữa các biến số lâm sàng và cận lâm sàng với 
hình ảnh DECT để có 80% cơ hội ở mức ý nghĩa 5% 
chứng minh.
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc tính chung
Bảng 3.1. Mối liên quan giữa các đặc tính mẫu với DECT, tần số (%) (n=80)
Biến số PR (KTC 95%) P
Tuổi (năm)
Trung vị (KTPV)** 48,5± 40-55
1,03
(0,98-1,09)†
0,162†
Tần số
(n = 80)
Tỉ lệ %
 (n = 80)
Nhóm tuổi
Dưới 40 tuổi 22 27,50 1
Từ 40 đến 60 tuổi
51 63,75 2,17
(0,68-6,87)
0,185
Trên 60 tuổi
7 8,75 1,17
(0,87-5,25)
0,872
Nghề nghiệp 0,866
(0,798 - 1,3)
1,02˨
Nông dân 28 35
Công nhân 20 25
Buôn bán 17 21,25
Viên chức 15 18,75
Không tìm thấy mối liên quan giữa các biến số đặc tính nền trong nghiên cứu. 
80
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Bảng 3.2. Mối liên quan giữa tiền sử gia đình với DECT, tần số (%) (n=80)
Tiền sử gia đình PR (KTC 95%) P
 Không 80 100
Có 0 0
Không tìm thấy mối liên quan giữa các biến số tiền sử gia đình trong nghiên cứu. 
Bảng 3.3. Mối liên quan giữa tiền sử bản thân với DECT, tần số (%) (n = 80)
Đái tháo đường 1,004
(0,69-1,45)
0,983†
Không 71 88,75
Có 9 11,25
Cao huyết áp 1,13
(0,88-1,46)
0,343†
 Không 66 82,50
Có 14 17,50
Rối loạn Lipid máu 0,94
(0,73-1,19)
0,616*
 Không 26 32,50
Có 54 67,50
Ung thư
 Không 80 100
Có 0 0
Uống rượu, bia 1,87
(0,87-3,86)
0,109†
 Không 9 11,25
Có 71 88,75
Hút thuốc lá 1,17
(0,93-1,47)
0,173
 Không 47 58,75
Có 33 41,25
Không tìm thấy mối liên quan giữa các biến số tiền sử bản thân trong nghiên cứu. 
3.2. Triệu chứng lâm sàng
Bảng 3.4. Mối liên quan giữa triệu chứng lâm sàng với DECT, tần số (%) (n=80)
Biến số PR (KTC 95%) P
Sưng đau khớp
Không
Có 80 100
Khớp sưng cổ chân 0,875
(0,64-1,2)
0,407
Không 20 25
Có 60 75
Khớp sưng bàn ngón cái 0,936
(0,69-1,24)
0,936*
Không 19 23,75
Có 61 76,25
Tính chất sưng đỏ 0,855
(0,38-1,93)
0,707†
Không 3 3,75
Có 77 96,25
81
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Đau khi sờ nén 0,627
(0,28-1,41)
0,261†
Không 6 7,50
Có 74 92,50
Khó khăn khi đi lại 0,639
(0,16-2,60)
0,531˨
Không 2 2,50
Có 78 97,50
Đau lần thứ mấy? 3,33
(1,08-10,24)
0,036¥
≤3,5 20 25
>3,5 60 75
Thời gian mắc bệnh 5,05
(1,07-23,95)
0,041¥
≤36 (tháng) 54 67,50
>36 (tháng) 36 32,50
Tô phi 1,375
(1,19-1,6)
0,0001*
Không 66 82,50
Có 14 17,50
BMI 1
1,3
(1,03-1,67)
1,01
(0,77-1,34)
0,27˨
0,927*
Bình thường 21 26,25
Gầy 2 2,5
Tiền béo phì và béo phì 57 71,25
Về lâm sàng, có mối liên quan giữa DECT và số cơn đau (>3,5 lần) với p = 0,036 (KTC 1,08 - 10,24), thời gian 
bị bệnh (> 36 tháng) với p 0,041 (KTC 1,07 - 23,95), hạt tô phi với p 0,0001 (KTC 1,19 - 1,6); cụ thể là số cơn 
đau lớn hơn 3,5 lần thì khả năng bị gout cao gấp 3,33 lần so với số cơn đau nhỏ hơn 3,5 lần; thời gian mắc 
bệnh trên 36 tháng thì khả năng bị gout cao gấp 5,05 lần so với thời gian mắc bệnh dưới 36 tháng; có tô phi 
thì nguy cơ bị gout cao gấp 1,375 lần so với không tô phi.
3.3. Cận lâm sàng
Bảng 3.5. Mối liên quan giữa cận lâm sàng với DECT, tần số (%) (n=80)
Acid Uric máu
0,24
0,029-2,02
0,192¥Bình thường 13 16,25
Vượt ngưỡng bình thường 67 82,75
Creatinine
1,82
(0,2-16)
0,6¥Bình thường 73 91,25
Vượt ngưỡng bình thường 7 8,75
Urê huyết
1,17
(0,122-11,2)
0,89¥Bình thường 75 93,75
Vượt ngưỡng bình thường 5 6,25
hsCRP
1,184
(0,41-3,41)
0,755¥Bình thường 33 41,25
Vượt ngưỡng bình thường 47 58,75
Cholesterol 
0,489
(0,16-1,57)
0,234¥Bình thường 32 40
Vượt ngưỡng bình thường 48 60
82
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Triglyceride 
0,569
(0,18-1,79)
0,337¥Bình thường 30 37,50
Vượt ngưỡng bình thường 50 62,50
DECT
Âm tính 19 23,75
Dương tính 61 77,25
Hình ảnh lắng đọng urate 
19
(2,8-129,5)
0,003*Không 19 23,75
Có 61 77,25
Hình ảnh khuyết xương
1,375
(1,18-1,59)
0,0001*Không 66 82,50
Có 14 17,50
Viêm mô mềm quanh khớp
1,15
(0,87-1,52)
0,317*Không 27 33,75
Có 53 66,25
Về cận lâm sàng, không có mối liên quan giữa 
DECT với các biến số Acid uric, Creatinine, Ure huyết, 
hs CRP, Cholesterol và Triglyceride. Nếu có hình ảnh 
khuyết xương thì khả năng bị gout cao gấp 1,375 với 
p = 0,0001 (KTC 1,18-1,59).
4. BÀN LUẬN
DECT là một công cụ chẩn đoán bệnh Gout rất 
hữu ích [4]. Để biết rõ về mối liên quan giữa DECT 
với các yếu tố nguy cơ, lâm sàng và cận lâm sàng, 
chúng tôi tiến hành một nghiên cứu cho 80 trường 
hợp mắc bệnh Gout. Mô tả một số đặc tính của mẫu 
nghiên cứu như giới tính, tuổi, nghề nghiệp, BMI, 
tiền sử, các dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng.
Đặc điểm nhóm nghiên cứu
Về tuổi và giới tính: Tuổi trung bình là 47,5 và 
giá trị nhỏ nhất là 28 và giá trị lớn nhất là 86. Tuổi 
trung vị là 48, trong đó khoảng tứ phân vị trên là 40 
và khoảng tứ phân vị dưới là 55. Nhóm tuổi 40-60 
chiếm tỷ lệ cao nhất là 63,75%.
Theo nghiên cứu của Roddy, E, Choi, H. K [3]với 
mẫu dân số 4,427 ở Framingham, Massachusetts thì 
nhóm tuổi từ 29 đến 62 chiếm tỉ lệ cao, trong đó 
nam chiếm 44%. Trong khi đó, Hội Sức khỏe nam 
giới theo dõi 12 năm và đánh giá theo tiêu chuẩn 
ARA với 51,529 mẫu toàn bộ là nam giới cho thấy 
rằng độ tuổi trung bình 40-75 [3]. Như vậy, về độ 
tuổi thì trong nghiên cứu này tương đồng với các 
nghiên cứu trên thế giới.
Về nghề nghiệp: trong nhóm chúng tôi nghiên 
cứu chiếm đa số là nông dân (35%), viên chức lại 
chiếm tỷ lệ ít hơn (18,75%). Điều này sẽ gợi ý cho 
những nghiên cứu tiếp theo để lý giải tại sao? Vì 
chúng tôi chưa tìm ra các nghiên cứu mà có biến số 
về nghề nghiệp.
Về tiền sử các bệnh lý và rối loạn đi kèm trong 
nhóm nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có mối 
liên quan tăng lipd máu (67,5%), còn bệnh đái tháo 
đường, cao huyết áp và ung thư chiếm tỷ lệ thấp, 
không thấy có mối liên hệ. Tiền béo phì và béo phì 
chiếm đa số (71,25%), đây là yếu tố nguy cơ của 
bệnh Gout.
Theo nghiên cứu của Roddy, E và cộng sự cho 
thấy rằng rối loại chuyển hóa và những bệnh lý do 
chuyển hóa có mối liên quan đến bệnh Gout, cụ thể 
là tăng urê máu, suy thận mạn, tăng huyết áp và béo 
phì [3]. Theo nghiên cứu của Framingham thì những 
người bị tăng huyết áp có nguy cơ bị gout gấp 1,59 
lần với ktc (1,12 - 2,24) [3]. Những người có BMI hơn 
mức bình thường thì có nguy cơ bị gout cao gấp 1,76 
ktc (1,22 - 2,54) [3]. Bệnh đái tháo đường thì không 
có mối liên quan đến bệnh gout; thậm chí còn giảm 
nguy cơ bệnh gout [3].
Thói quen uống rượu, bia chiếm đa số (88,75%), 
còn hút thuốc lá chiếm tỷ lệ thấp hơn (41,25%). 
Theo nghiên cứu củaFramingham thì những người 
uống nhiều rượu bia có nguy cơ bị bệnh gout cao 
gấp 2,21 lần so với những người không uống rượu 
bia ktc (1,56 - 3,14). Điều này cho thấy rằng uống 
rượu bia là yếu tố nguy cơ bị bệnh gout.
Về lâm sàng: số lần đau và thời gian đau có ý 
nghĩa thống kê với DECT; cụ thể là khi số lần đau trên 
3,5 lần thì khả năng chụp DECT dương tính gấp 3,33 
lần so với số lần đau dưới 3,5 lần với p=0,036. Và 
83
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
thời gian đau từ 36 tháng trở lên thì khả năng chụp 
DECT dương tính gấp 5,05 lần so với thời gian đau 
nhỏ hơn 36 tháng. Theo nghiên cứu của Dalbeth N và 
cộng sự [6] thì cho thấy rằng lắng đọng urate trong 
6/25 (chiếm 24%) người bị tăng acid uric máu không 
triệu chứng, 11/14 (79%) bị bệnh Gout sớm (được 
xác định trước là bệnh thời gian ≤ 3 năm) và 16/19 
(84%) với bệnh Gout muộn (p < 0,001). DECT thấy 
lắng đọng urate trong cả hai khớp và gân trong nhóm 
tăng acid uric không triệu chứng, nhưng ít thường 
xuyên hơn so với nhóm những người có bệnh Gout 
(p ≤ 0,001 cho cả vị trí khớp và gân). Thể tích khối 
lắng đọng urate cũng thấp hơn đáng kể ở những 
người bị tăng acid uric không triệu chứng, so sánh 
với các nhóm bệnh Gout sớm và muộn (p < 0,01 cho 
cả hai so sánh). Trong nhóm Gout sớm và muộn thì 
thể tích khối lắng đọng urate tương đương nhau.
Tô phi cho kết quả dương tính rất mạnh với 
p=0,00001; cụ thể là những người bị tô phi kết quả 
dương tính DECT cao gấp 1,375 lần so với những 
người không bị tô phi. Theo nghiên cứu của Chou H 
và cộng sự cho thấy rằng độ nhạy và độ đặc hiệu của 
DECT để phát hiện tô phi rất cao và rất rõ ràng [4]. 
Theo nghiên cứu của Jia E và cộng sự [2] gợi ý rằng 
độ nhạy của DECT trong lần khởi phát đầu tiên, dưới 
24 tháng và nhóm hơn 24 tháng tương ứng lần lượt 
là 35,71, 61,54 và 92,86%. Giá trị độ nhạy và độ đặc 
hiệu tổng thể là 80,88 và 88,24%.
Về mặt lâm sàng vị trí khớp chủ yếu là cổ chân 
(75%), bàn ngón chân 1 (76,25%), sưng, đỏ, đau, 
đi lại khó khăn thì không có ý nghĩa thống kê. Theo 
nghiên cứu của Chou và cộng sự thì mối liện quan 
với DECT còn hạn chế.
Về cận lâm sàng: Nồng độ acid uric trong máu 
trên ngưỡng bình thường chiếm 82,75%, nhưng 
không có liên quan với kết quả DECT có ý nghĩa 
thống kê. Tăng nồng độ cholesterol và triglyceride 
chiếm tỷ lệ lần lượt 60% và 62,5% cho thấy có mối 
liên quan nguy cơ bệnh Gout, nhưng không cho 
thấy có liên quan với kết quả DECT một cách có ý 
nghĩa. Tăng CRP cũng chiếm tỷ lệ cao (58,75%) trong 
nhóm nghiên cứu nhưng không có liên quan có ý 
nghĩa thống kê với kết quả DECT. Creatinin và Urê 
máu đa số nằm trong giới hạn bình thường lần lượt 
là 91,25% và 93,75%. 
5. KẾT LUẬN
DECT là một công cụ không xâm lấn để xác định 
bệnh Gout có độ chính xác cao. Nó là một công cụ 
mạnh mẽ có thể hỗ trợ giải quyết vấn đề phức tạp 
trong chẩn đoán bệnh Gout khi tình huống lâm sàng 
và cận lâm sàng không điển hình. Nó cũng hữu ích 
như một phương tiện định lượng bệnh trong quá 
trình theo dõi điều trị bệnh nhân mắc bệnh Gout. 
Khi việc sử dụng nó ngày càng trở nên phổ biến và 
có sẵn, các nhà lâm sàng và cận lâm sàng nên làm 
quen với DECT.
6. HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu này không thu thập những biến số về 
hành vi lối sống, chế độ ăn uống và các yếu tố nguy 
cơ từ môi trường tác động đến sức khỏe.
Cỡ mẫu nhỏ, chưa đủ mạnh để thấy sự khác biệt 
và nghiên cứu cắt ngang phân tích không đủ lực để 
tìm thấy nguyên nhân gây bệnh.
7. KHUYẾN NGHỊ
Điều quan trọng đối với các bác sĩ là xác định các 
dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng để sử dụng DECT, 
có kiến thức về các vị trí phổ biến của lắng đọng tinh 
thể urate, cũng như có thể nhận ra khi nào chụp 
DECT và giảm chúng khi có thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Vĩnh Ngọc (2010) Bệnh học Cơ Xương Khớp 
nội khoa, NXB Giáo dục Việt Nam, tr.189-212.
2. Jia E, J. Zhu, W. Huang, X. Chen, J. Li (2018) “Dual-
energy computed tomography has limited diagnostic 
sensitivity for short-term gout”. Clin rheumatol, 37 (3), 
773-777.
3. Roddy E, H. K. Choi (2014) “Epidemiology of gout”. 
rheum Dis Clin North Am, 40 (2), 155-75.
4. Chou H, T. Y. Chin, W. C. Peh (2017) “Dual-energy CT 
in gout - A review of current concepts and applications”. J 
Med radiat Sci, 64 (1), 41-51.
5. Luk A J, P. A. Simkin (2005) “Epidemiology of 
hyperuricemia and gout”. Am J Manag Care, 11 (15 Suppl), 
S435-42; quiz S465-8.
6. Dalbeth N, House ME, et al (2015) “Urate crystal 
deposition in asymptomatic hyperuricaemia and 
symptomatic gout: a dual energy CT study”. Ann rheum 
Dis BMJ, 74 (5), pp.908-911.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_vai_tro_dect_trong_benh_gout_va_khao_sat_moi_lien_q.pdf