Đánh giá tiềm năng và hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Việt Nam

Trong bài nghiên cứu này chúng tôi sử dụng mô hình lực hấp dẫn biên ngẫu

nhiên để đánh giá các nhân tố tác động đến tiềm năng hoạt động xuất khẩu của Việt

Nam sang các nước đối tác, trong giai đoạn 1995-2014. Kết quả của nghiên cứu

cho thấy: (i) Mức hiệu quả trong khai thác tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam có xu

hướng tăng dần tuy nhiên với tốc độ khá chậm khoảng 0,14% mỗi năm trong toàn

giai đoạn; (ii) Việc phân tách trước và sau khi tham gia vào WTO cho thấy mức độ

ảnh hưởng của các nhân tố đến tiềm năng xuất khẩu giai đoạn hậu WTO có xu

hướng suy giảm. Điều này phù hợp với sự thay đổi cơ cấu xuất khẩu của hàng hóa

Việt Nam; (iii) Hiệu quả khai thác xuất khẩu giai đoạn trước WTO có xu hướng

giảm dần. Ngược lại giai đoạn hậu WTO có xu hướng tăng dần.

pdf 18 trang kimcuc 18880
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá tiềm năng và hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá tiềm năng và hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Việt Nam

Đánh giá tiềm năng và hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
1 
Mã số: 362 
Ngày nhận: 20/3/2017 
Ngày gửi phản biện lần 1: 
20/3/2017 
Ngày gửi phản biện lần 2: 
Ngày hoàn thành biên tập: 
28/3/2017 
Ngày duyệt đăng: 28/3/2017 
Đánh giá tiềm năng và hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Việt Nam 
Phạm Vĩnh Thái
1
Phạm Văn Minh
2
Tóm tắt 
Trong bài nghiên cứu này chúng tôi sử dụng mô hình lực hấp dẫn biên ngẫu 
nhiên để đánh giá các nhân tố tác động đến tiềm năng hoạt động xuất khẩu của Việt 
Nam sang các nước đối tác, trong giai đoạn 1995-2014. Kết quả của nghiên cứu 
cho thấy: (i) Mức hiệu quả trong khai thác tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam có xu 
hướng tăng dần tuy nhiên với tốc độ khá chậm khoảng 0,14% mỗi năm trong toàn 
giai đoạn; (ii) Việc phân tách trước và sau khi tham gia vào WTO cho thấy mức độ 
ảnh hưởng của các nhân tố đến tiềm năng xuất khẩu giai đoạn hậu WTO có xu 
hướng suy giảm. Điều này phù hợp với sự thay đổi cơ cấu xuất khẩu của hàng hóa 
Việt Nam; (iii) Hiệu quả khai thác xuất khẩu giai đoạn trước WTO có xu hướng 
giảm dần. Ngược lại giai đoạn hậu WTO có xu hướng tăng dần. Điều này cho thấy 
tác động tích cực của hội nhập; (iv) Mức độ cải thiện hiệu quả xuất khẩu sang các 
1
 Nghiên cứu sinh, Khoa Kinh tế học, Trường đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Email: thai71qn@gmail.com 
2 Giảng viên, Khoa Kinh tế học, Trường đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Email: minhpv@neu.edu.vn 
2 
thị trường phát triển là mạnh mẽ hơn so với các thị trường đang phát triển như 
ASEAN. 
Từ khóa: Tiềm năng xuất khẩu, Hiệu quả xuất khẩu, Mô hình lực hấp dẫn biên 
ngẫu nhiên, Ước lượng hợp lý cực đại 
Abstract 
The study used the Stochastic Gravity Frontier Model to estimate factors 
influencing Vietnam's export potential to its partners and evaluate its export 
efficiency in the 1995-2014. The estimated results show that: (i) the export 
efficiency scores increased slowly by 0.14% annually in the period; (ii) a break 
before and after the WTO participation in the models indicated the impact of 
explored factors on post-WTO export potential tended to decline. This finding is 
consistent with changes in the export structure of Vietnamese goods; (iii) the 
efficiency of export before the WTO participation tended to decrease gradually. 
While the post-WTO period showed an upward trend. This implies benefits of 
integration; (iv) the efficiency of exports to developed markets shows stronger 
improvements in comparing with developing markets like ASEAN members. 
Keywords: Export Potential, Export Efficiency, Stochastic Gravity Frontier, 
Maximum Likelihood Estimation 
1. Giới thiệu 
Quá trình hội nhập kinh tế mạnh mẽ, sâu rộng của Việt Nam vào nền kinh tế 
thế giới trong giai đoạn sắp tới thông qua hàng loạt các hiệp định quan trọng, bên 
cạnh các cơ hội tạo ra, quá trình hội nhập cũng đặt ra rất nhiều thách thức cho nền 
kinh tế và khu vực doanh nghiệp Việt Nam. Một thực tiễn rõ ràng trong cán cân 
thương mại 2 chiều của Việt Nam với các nước trong giai đoạn này là tình trạng 
nhập siêu nghiêm trọng, kéo dài và có xu hướng gia tăng. Một phần nguyên nhân là 
do sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam. 
Tuy nhiên, một nguyên nhân quan trọng khác nữa là việc khai thác tối đa tiềm năng 
thương mại với các nền kinh tế này còn chưa thực sự tương xứng do nhiều nguyên 
nhân khác nhau. Trong đó, những hạn chế về mặt chính sách nhằm khai thác tiềm 
năng thương mại với các đối tác đóng vai trò quyết định. 
3 
Hầu hết các nghiên cứu cho đến nay về quy mô và tiềm năng thương mại của 
Việt Nam với các nền kinh tế khác chủ yếu tập trung vào đánh giá các nhân tố tác 
động đến quy mô xuất, nhập khẩu của Việt Nam từ đó chỉ ra các nguyên nhân của 
nhập siêu mà xem nhẹ vai trò của chính sách. Bên cạnh đó các nghiên cứu này luôn 
giả định rằng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu ở mức tiềm năng do đó những đánh 
giá về phần đóng góp của các nhân tố đến quy mô thương mại thường sẽ thiếu 
chính xác. 
Trên cơ sở những hạn chế đó, bài nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá 
tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam trong mối quan hệ với các nền kinh tế khác với 
việc bỏ đi giả định rằng kim ngạch xuất khẩu luôn ở mức tiềm năng. Tức là thừa 
nhận sự tồn tại của phi hiệu quả trong xuất khẩu hàng hóa thông qua việc sử dụng 
mô hình lực hấp dẫn biên ngẫu nhiên. Từ đó có thể đánh giá một cách chính xác 
hơn sự ảnh hưởng của các nhân tố đến tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam cũng như 
vai trò của các hiệp định thương mại tự do. 
Bài nghiên cứu ngoài phần giới thiệu được kết cấu gồm 4 phần: (i) Tổng 
quan về các nghiên cứu có liên quan; (ii) Giới thiệu mô hình lý thuyết đối với 
phương pháp ước lượng biên ngẫu nhiên; (iii) Kết quả ước lượng thực nghiệm đối 
với các nhân tố tác động đến tiềm năng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam giai đoạn 
1995-2014; và (iv) Kết luận. 
2. Tổng quan các nghiên cứu có liên quan 
Mô hình hóa các luồng thương mại hàng hóa quốc tế được thực hiện khá phổ 
biến trong khoảng 30 năm trở lại đây, đặc biệt trong giai đoạn xu hướng hội nhập 
kinh tế quốc tế trở thành tất yếu trong chiến lược phát triển của các quốc gia. Các 
nỗ lực của cộng đồng nghiên cứu trong lĩnh vực này chủ yếu tập trung vào 2 hướng: 
(i) phát triển các mô hình mô phỏng các hoạt động thương mại quốc tế và các tác 
động của chúng; và (ii) phát triển các mô hình kinh tế lượng từ đó đưa ra các dự 
báo dựa trên số liệu thực nghiệm. Hướng thứ nhất, các mô hình mô phỏng sử dụng 
4 
bảng đầu ra - đầu vào (I/O) và các mô hình cân bằng tổng thể (CGE) để xây dựng 
cấu trúc của các hoạt động thương mại quốc tế. Hướng thứ hai, các phương pháp 
kinh tế lượng để ước lượng hoạt động thương mại quốc tế chủ yếu dựa trên ý tưởng 
về mô hình lực hấp dẫn (Gravity Model). 
Mô hình lực hấp dẫn 
Kể từ những ý tưởng đầu tiên của Tinberger (1962) và Linneman (1966) 
trong các nghiên cứu về các chính sách kinh tế quốc tế, mô hình lực hấp dẫn được 
sử dụng rất rộng rãi nhằm lý giải các hoạt động thương mại quốc tế giữa các quốc 
gia. Mô hình này cho đến nay được phát triển một cách đầy đủ hơn, toàn diện hơn 
nhằm đo lường các yếu tố tác động đến kim ngạch thương mại song phương giữa 
các quốc gia, hay nói một cách khác là xây dựng những nền tảng lý thuyết kinh tế 
cho mô hình này (Nilson, 2000; Anderson và Wincoop, 2003; Baldwin và Taglioni, 
2006). 
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các mô hình lý thuyết, các phương pháp 
ước lượng và đánh giá quy mô thương mại quốc tế giữa các nền kinh tế, cho đến 
nay cũng đã có rất nhiều các nghiên cứu trong nước được thực hiện nhằm ước 
lượng các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô thương mại 2 chiều giữa Việt Nam và các 
nền kinh tế khác mà tiêu biểu có thể kể đến các nghiên cứu của Từ Thúy Anh và 
Đào Nguyên Thắng (2008), Vũ Kim Dũng và Mai Thị Lan Hương (2012), Nguyễn 
Anh Thư (2012), Hoàng Chí Cương và Bùi Thị Thanh Nhàn (2013). Tất cả các 
nghiên cứu này đều thực hiện ước lượng quy mô thương mại cũng như các yếu tố 
ảnh hưởng như các đặc tính của nền kinh tế Việt Nam, các đặc tính của các đối tác 
thương mại, khoảng cách địa lý, đầu tư nước ngoài, tỷ giá hối đoái v.v. 
Việc sử dụng mô hình cổ điển này trong lượng hóa quy mô thương mại quốc 
tế của Việt Nam như đã đề cập đến ở phần trên có một số nhược điểm cơ bản: (i) 
giả định rằng quy mô thương mại 2 chiều của Việt Nam với các quốc gia khác luôn 
ở mức tiềm năng; (ii) coi khoảng cách địa lý là yếu tố duy nhất cản trở hay hấp dẫn 
5 
hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam, không thực sự chỉ ra được vai trò của 
thể chế, chính sách trong việc phát huy, khai thác tiềm năng thương mại quốc tế của 
Việt Nam; (iii) bỏ qua việc xem xét vai trò đóng góp khác nhau ở các thời kỳ khác 
và với các nền kinh tế đối tác khác nhau của các nhân tố tác động đến quy mô 
thương mại quốc tế của Việt Nam. 
Mô hình lực hấp dẫn ngẫu nhiên 
 Các nghiên cứu tập trung vào việc khai thác khía cạnh ngẫu nhiên của mô 
hình lực hấp dẫn truyền thống hướng đến mục tiêu ước lượng tiềm năng thương mại 
của các nền kinh tế. Bên cạnh đó nó cũng góp phần khắc phục nhược điểm của mô 
hình truyền thống là định dạng sai và ước lượng không phù hợp do phần dư bị hiện 
tượng phương sai sai số thay đổi và không phân phối chuẩn (Kalirajan, 2008). Trên 
cơ sở so sánh giữa quy mô thương mại thực tế và mức tiềm năng các nghiên cứu 
này chỉ ra mức độ hiệu quả trong hoạt động thương mại quốc tế của các quốc gia. 
Theo phương pháp này, kim ngạch thương mại 2 chiều giữa các nền kinh tế 
không bao giờ đạt tới mức tiềm năng (một giả định căn bản được sử dụng trong mô 
hình lực hấp dẫn truyền thống), mà thay vào đó luôn tồn tại một mức phi hiệu quả 
nào đó trong hoạt động thương mại giữa các nền kinh tế. Điều này có nghĩa là thực 
tiễn kim ngạch thương mại giữa các nền kinh tế luôn dưới mức tiềm năng 
(Kalirajan, 2008). 
Mô hình này được thể hiện như sau: 
 ( ) ( ) 
Trong đó: Xij là giá trị xuất khẩu của quốc gia i sang quốc gia j 
 ( ) là một hàm các yếu tố ảnh hưởng đến tiềm năng thương mại 
hai chiều (Zi) và là véc tơ các tham số ước lượng. 
Sai số 1 phía (không âm) ui là tác động tổng hợp của những chênh lệch về 
kinh tế bắt nguồn từ các yếu tố thể chế, chính trị và xã hội. Chính ảnh hưởng này 
6 
tạo ra sự khác biệt giữa mức thực tế và mức tiềm năng trong thương mại hàng hóa. 
Sai số này được giả định là phân phối bán chuẩn hoặc phân phối chuẩn cụt. 
Sai số 2 phía ngẫu nhiên vi đo lường ảnh hưởng của các biến số khác bị bỏ 
qua và thường được giả định là phân phối chuẩn. 
Như vậy, khác với mô hình truyền thống, mô hình ngẫu nhiên bỏ qua tác 
động của các yếu tố chênh lệch về kinh tế giữa các quốc gia hay các yếu tố thể chế, 
chính trị và xã hội đến quy mô thương mại giữa các quốc gia. Thay vào đó, mô hình 
này cho rằng sai số ui chính là hàm số của các yếu tố này (Kalirajan, 2007). Tức là 
những khác biệt về thể chế, chính trị và xã hội sẽ quyết định hiệu quả khai thác tiềm 
năng thương mại quốc tế của các quốc gia. 
 Kể từ khi mô hình hấp dẫn biên ngẫu nhiên được xây dựng (Kalirajan, 1999; 
Kalirajan, 2008), đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về tiềm năng thương 
mại hai chiều giữa các nền kinh tế được thực hiện như Nasir và Kalirajan (2013), 
Yuventus (2014), Armstrong (2014). Các công trình thực nghiệm này chủ yếu 
hướng đến việc áp dụng mô hình lực hấp dẫn biên ngẫu nhiên vào đánh giá tiềm 
năng thương mại của một số nền kinh tế cụ thể như Tây Âu, Đông Nam Á, Brunei, 
Lào, Trung Quốc, Nhật Bản so với các nền kinh tế khác trên thế giới đồng thời ước 
lượng mức hiệu quả trong các hoạt động thương mại song phương này trên cở sở sử 
dụng phương pháp ước lượng hợp lý cực đại (MLE) tương tự như trong ước lượng 
hàm sản xuất biên ngẫu nhiên bằng phương pháp do Battese và Coeli (1995) phát 
triển. 
3. Mô hình lý thuyết 
Bài nghiên cứu này thực hiện ước lượng các nhân tố ảnh hưởng đến tiềm 
năng thương mại của Việt Nam dựa trên nền tảng của mô hình lực hấp dẫn. Tuy 
nhiên để có được các ước lượng vững hơn so với ước lượng OLS mà các nghiên cứu 
trước đây đã thực hiện. Các tác giả sử dụng phương pháp ước lượng biên ngẫu 
nhiên dựa trên nền tảng của ước lượng hợp lý cực đại (MLE). Hơn nữa ước lượng 
7 
biên ngẫu nhiên cho phép chúng ta ước lượng được mức độ phi hiệu quả trong khai 
thác tiềm năng thương mại của Việt Nam với các đối tác mà từ đó làm cơ sở cho 
các nghiên cứu sau trong đánh giá tác động của các biến chính sách đến mức độ phi 
hiệu quả này. 
Mô hình ước lượng được mô tả như sau: 
ititjjtjtjtVNtjtjt uvDISTANCEEXRFDIGDPGDPIMEX lnlnlnlnlnln/ln 543210 
Trong đó:
jtjt IMEX / : quy mô xuất khẩu/nhập nhẩu của Việt Nam so với nền kinh tế j 
VNtGDP : Tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam 
jtGDP : Tổng sản phẩm quốc nội của nền kinh tế j 
jtFDI : Đầu tư trực tiếp của nền kinh tế j vào Việt Nam 
jtEXR : Tỷ giá hối đoái của nền kinh tế j và Việt Nam 
jDISTANCE : Khoảng cách địa lý giữa nền kinh tế j và Việt Nam 
itv : Sai số ngẫu nhiên phân phối chuẩn 
itu : Sai số không âm, phản ảnh mức phi hiệu quả khai thác tiềm năng 
thương mại 2 chiều giữa Việt Nam và nền kinh tế j. 
Trong nghiên cứu này, các tác giả chỉ tập trung vào hoạt động xuất khẩu của 
Việt Nam sang tất cả các đối tác cũng như từng nhóm đối tác được phân chia theo 
các liên kết kinh tế để từ đó so sánh mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến tiềm 
năng xuất khẩu Việt Nam trong mô hình lực hấp dẫn biên ngẫu nhiên. 
Nguồn số liệu 
 Trong nghiên cứu này các tác giả thực hiện ước lượng theo mô hình nói trên 
cho khoảng số liệu xuất khẩu của Việt Nam sang các nước đối tác trong giai đoạn 
1995-2014. Các số liệu được thu thập từ các nguồn sau: 
- Giá trị xuất khẩu/nhập khẩu: được thu thập từ Website của Quỹ tiền tệ Quốc 
tế (IMF). 
8 
 - Các số liệu về GDP của Việt Nam, GDP của các nước đối tác, quy mô dân 
số của các nước đối tác, tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của Việt Nam so với các 
quốc gia khác: thu thập và tính toán dựa trên bộ chỉ tiêu WDI của Ngân hàng thế 
giới (WB). 
 - Khoảng cách giữa các quốc gia: thu thập từ Website google distance. 
4. Kết quả ước lượng các nhân tố ảnh hưởng đến tiềm năng xuất khẩu Việt 
Nam 
4.1. Tổng quan về tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam 
Sau gần 30 đổi mới, quy mô thương mại 2 chiều của Việt Nam gia tăng mạnh 
mẽ, đặc biệt là kể từ sau khi gia nhập vào WTO. Giai đoạn 1995-2015, tổng giá trị 
xuất khẩu hàng hóa tăng từ 5,5 tỷ lên đến 162,11 tỷ USD. Tổng giá trị nhập khẩu từ 
8,2 tỷ lên đến 165,65 tỷ USD (Tổng cục Hải quan, 2016). Năm 2009-2010 chứng 
kiến 1 sự sụt giảm đáng kể trong quy mô xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam do 
tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, dấu hiệu của 
sự phục hồi là rất rõ ràng trong những năm sau đó. Số lượng các đối tác thương 
mại, thị trường cũng như chủng loại hàng hóa gia tăng nhanh chóng trong cùng giai 
đoạn 1995-2015. Nhưng tình trạng thâm hụt thương mại vẫn là trạng thái căn bản 
của Việt Nam trong thời gian qua. Ba năm (2012, 2013, 2014) có tồn tại trạng thái 
thặng dư nhưng về cơ bản là do sự sụp giảm mạnh của cầu nhập khẩu bắt nguồn từ 
sự suy yếu của kinh tế trong nước. Đến năm 2015 và những tháng đầu năm 2016, 
trạng thái nhập siêu tiếp tục tái diễn trở lại khi mà nền kinh tế Việt Nam có những 
dấu hiệu phục hồi mà trong đó thâm hụt thương mại so với thị trường Trung Quốc 
chiếm một tỷ trọng rất lớn. 
Tham gia vào thành tựu trong tăng trưởng mạnh mẽ của quy mô xuất nhập 
khẩu hàng hóa của Việt Nam các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) 
đóng vai trò chủ đạo. Nếu năm 1995, khối FDI chỉ chiếm 10,8% giá trị kim ngạch 
xuất khẩu (trong tổng số 5,2 tỷ USD) thì đến năm 2014 khối này xuất khẩu đến 
9 
62,5% giá trị (trong tổng số 150,22 tỷ USD). Ngược lại đây cũng là khối nhập khẩu 
chủ yếu với 18,3% năm 1995 (trong tổng số 8,2 tỷ USD ) và 57% năm 2014 (trong 
tổng số 147,85 tỷ USD). 
Quan hệ thương mại hàng hóa của Việt Nam tập trung vào một số thị trường 
chủ yếu. Tính đến cuối năm 2014 thì thị trường các nước thuộc TPP chiếm đa số 
trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong đó tập trung vào các mặt 
hàng chủ yếu như điện thoại và linh kiện, hàng dệt may, máy vi tính, sản phẩm điện 
tử, thủy sản, dầu thô, cà phê. EU và Cộng đồng kinh tế ASEAN cũng là nhữn ... ược chiều. Điều này có thể lý giải rằng các nước có dân số càng cao 
thì mức sống càng thấp và do đó ảnh hưởng đến sức mua của người dân nước đó 
đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. 
Bảng 1. Các nhân tố tác động đến tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 
1995-2014 
Biến phụ thuộc: Giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (đo bằng thang 
Ln) 
Biến Hệ số S.E z-ratio 
Hệ số chặn 12.91*** 6.04 2.13 
GDP Việt Nam 0.732*** 0.048 15.2 
GDP của nước đối tác 1.478*** 0.066 22.4 
Quy mô dân số của nước đối tác -1.533*** 0.218 -7.05 
Tỷ giá hối đoái (VND/ngoại tệ) -0.097*** 0.022 -4.47 
Khoảng cách -1.85*** 0.228 -8.12 
Gamma 0.998*** 0.001 1105.5 
Eta 0.0014*** 0.0005 2.523 
Log Likelihood 78.9 
Mức ý nghĩa: *: 10%, **: 5%, ***: 1%. Các biến độc lập đo bằng thang Ln. 
11 
Nguồn: Ước lượng của các tác giả bằng FRONTIER 4.1 
Hệ số gamma lớn (0.998) và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% cho thấy đa số 
trong sai số của mô hình là thành phần phi hiệu quả (gamma bằng tỷ lệ giữa phương 
sai của uit – thành phần phản ánh mức phi hiệu quả so với tổng phương sai của mô 
hình - uit + vit). Điều này phản ánh rằng việc sử dụng mô hình lực hấp dẫn OLS 
truyền thống trong các nghiên cứu trước đây là rất không phù hợp cho ước lượng 
tiềm năng thương mại. Kết quả kiểm định Log Likelihood Ratio đối với sự tồn tại 
của thành phần phi hiệu quả cũng cho cùng kết luận – có bằng chứng thống kê để 
kết luận rằng tồn tại phi hiệu quả trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam 
sang các nước đối tác. 
 Hệ số eta bằng 0,0014 và có ý nghĩa thống kê ở mức cao (kiểm định Log 
Likelihood Ratio cũng cho cùng kết luận) phản ánh rằng mức hiệu quả trong khai 
thác tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng tăng dần tuy nhiên với tốc độ 
khá chậm khoảng 0,14% mỗi năm trong giai đoạn nghiên cứu (1995-2014). 
 Để kết quả kiểm định của mô hình chính xác hơn và các ước lượng đối với 
mức phi hiệu quả trong khai thác tiềm năng xuất khẩu vững hơn, chúng tôi thực 
hiện ước lượng mô hình với 2 dạng phân phối của thành phần phi hiệu quả (µ) bằng 
Log Likelihood Ratio và kết quả cho thấy phân phối chuẩn cụt là phù hợp hơn (µ = 
0) so với phân phối bán chuẩn (µ ≠ 0). 
Để phần nào thấy được tác động của xu hướng tự do hóa thương mại đến tác 
động của các nhân tố nói trên cũng như sự thay đổi của hiệu quả trong xuất khẩu 
hàng hóa Việt Nam, chúng tôi chia số liệu làm 2 giai đoạn trước (1995-2006) và sau 
khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO (2007-2014). 
Bảng 2: Các nhân tố tác động đến xuất khẩu Việt Nam trước và sau khi gia 
nhập WTO 
Biến phụ thuộc: Giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (đo bằng thang 
Ln) 
12 
Biến độc lập Trước WTO Sau WTO 
Hệ số z-ratio Hệ số z-ratio 
Hệ số chặn -13.6*** -8.94 -10.2*** -10.2 
GDP Việt Nam 0.679*** 11.32 0.567*** 8.19 
GDP của nước đối tác 1.355*** 23.5 0.96*** 8.53 
Quy mô dân số của nước đối tác -
0.468*** 
-7.889 -0.095 -0.665 
Tỷ giá hối đoái (VND/ngoại tệ) -
0.041*** 
2.51 -0.051 -1.09 
Khoảng cách -
0.594*** 
10.3 -0.094 -0.855 
Gamma 0.98*** 60.8 0.973*** 244.7 
Eta -
0.007*** 
-2.18 0.003 0.627 
Log Likelihood 88.5 94.2 
Mức ý nghĩa: *: 10%, **: 5%, ***: 1%. Các biến độc lập đo bằng thang Ln. 
Nguồn: Ước lượng của các tác giả bằng FRONTIER 4.1 
 Kết quả ước lượng độc lập 2 giai đoạn được báo cáo trong bảng 2 cho thấy 
một số điểm khá thú vị. Giai đoạn hậu WTO, các biến như quy mô dân số nước đối 
tác, tỷ giá hối đoái giữa VND và ngoại tệ và khoảng cách trở nên không có ý nghĩa 
trong việc quyết định tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam. Mức độ ảnh hưởng của 
biến GDP của nước đối tác cũng giảm ở giai đoạn này. Điều này cũng phù hợp với 
việc cơ cấu xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam về cơ bản chỉ đáp ứng những nhu cầu 
thiết yếu với hệ số co giãn của cầu theo thu nhập thấp và việc giảm giá đồng nội tệ 
để làm giảm giá hàng Việt Nam xuất khẩu trên thị trường thế giới càng trở nên 
không có tác dụng khi thu nhập ở các nước đối tác gia tăng. 
 Đặc biệt, kết quả ước lượng chỉ ra rằng hệ số eta trước WTO là âm (tức là 
hiệu quả khai thác xuất khẩu trong giai đoạn này đang có xu hướng giảm dần). 
13 
Nhưng hệ số này là dương ở giai đoạn hậu WTO. Điều này hàm ý rằng về cơ bản 
quá trình hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới nói chung có tác động tích cực 
đến việc cải thiện hiệu quả của hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. 
Thương mại tự do thực sự mang lại lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam trong việc cải 
thiện hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế. 
 Để thấy được vai trò, vị trí của các nhóm đối tác khác nhau chúng tôi tiến 
hành ước lượng mô hình lực hấp dẫn biên ngẫu nhiên nói trên cho các nhóm quốc 
gia khác nhau như 11 nước tham gia ký kết Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình 
Dương và các nước ASEAN. 
 Đối với nước trong khuôn khổ Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, 
các kết luận thu được cũng giống như mô hình chung nói trên ngoại trừ việc quy mô 
dân số của nước đối tác và khoảng cách trở nên không có ý nghĩa thống kê để cho 
thấy sự ảnh hưởng. Mức độ tác động của việc đồng Việt Nam mất giá đến xuất 
khẩu cũng không còn lớn như các mô hình trước và chỉ có ý nghĩa ở mức 10%. 
Điều này có thể lý giải được do đặc tính của thị trường các nước này là thu nhập 
cao và cầu ít co giãn so với sự thay đổi của giá. 
 Hệ số gamma và eta trong mô hình đối với các nước này cũng có những hàm 
ý tương tự như trên. Phi hiệu quả trong khai thác xuất khẩu chiếm đến 98,5% sai số 
và hiệu quả khai thác xuất khẩu sang các thị trường này có xu hướng được cải thiện. 
Điều rất đáng lưu ý là mức độ cải thiện hiệu quả xuất khẩu đối với thị trường này 
cao gấp nhiều lần so với mức bình quân chung (1,7% mỗi năm so với mức 0,14% ở 
mô hình ban đầu). Nó cho thấy rằng một hiệp định thương mại tự do tập trung vào 
khối các nước này sẽ mang lại những lợi ích rất lớn. Đặc biệt là đối với một hiệp 
định thương mại thế hệ mới mà bao gồm cả những cam kết trong các lĩnh vực khác. 
 Tương tự, nếu ta phân chia thành 2 giai đoạn trước và sau khi gia nhập WTO 
đối với xuất khẩu của Việt Nam vào các nước thành viên Hiệp định đối tác xuyên 
Thái Bình Dương thì kết quả về cơ bản vẫn tương tự như mô hình ước lượng chung. 
14 
Hiệu quả trong khai thác tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam vào các quốc gia này 
về cơ bản vẫn được cải thiện trong cả 2 giai đoạn trước và sau khi gia nhập WTO. 
Tuy nhiên điều đáng lưu ý và nó đi ngược lại so với kết luận của mô hình ước lượng 
chung cho tất cả các quốc gia là WTO không thực sự thúc đẩy sự cải thiện hiệu quả 
xuất khẩu. Nếu mức cải thiện ở giai đoạn trước WTO khoảng 1,5% thì giai đoạn 
hậu WTO chỉ còn 0,8%. 
Đối với các nước ASEAN, có bằng chứng thống kê cho thấy rằng GDP Việt 
Nam, GDP của nước đối tác, tỷ giá hối đoái giữa Việt Nam đồng và ngoại tệ, 
khoảng cách giữa các quốc gia ảnh hưởng đến tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam 
sang các quốc gia này và chiều ảnh hưởng đúng như kỳ vọng. Quy mô dân số có 
ảnh hưởng khác với kỳ vọng và vẫn có ý nghĩa thống kê. Điều này tương tự như mô 
hình ước lượng chung cho tất cả các quốc gia nói trên. 
Một điểm đáng lưu ý từ kết quả ước lượng đối với các nước ASEAN là hệ số 
co giãn của cầu theo thu nhập đối với hàng xuất khẩu từ Việt Nam của các nước này 
là khá lớn (1.42) so với thị trường các nước trong Hiệp định xuyên Châu Á Thái 
Bình Dương. Nó cũng phản ánh đúng thực trạng về sự khác biệt trong mức sống ở 2 
nhóm thị trường này. 
 Hệ số gamma và eta cũng cho kết luận giống như các mô hình ước lượng 
trước. Phần lớn trong sai số của mô hình là thành phần phi hiệu quả và mức hiệu 
quả có dấu hiệu cải thiện (1,3% toàn giai đoạn) tuy nhiên mức độ cải thiện này tỏ ra 
chậm hơn so với các thị trường trong Hiệp định xuyên Châu Á Thái Bình Dương. 
Việc ngắt 2 giai đoạn trước và sau khi gia nhập WTO cho thấy một điểm hết 
sức đáng lưu ý nhưng cũng thống nhất với kết luận có được từ các thị trường trong 
Hiệp định xuyên Châu Á Thái Bình Dương. Việc gia nhập WTO không thực sự 
mang lại sự cải thiện hiệu quả xuất khẩu cho các thị trường ASEAN. Sau khi gia 
nhập mức hiệu quả giảm khoảng 2,7%. Điều này có thể xuất phát từ 2 lý do: (i) lợi 
ích của hội nhập đối với các thị trường này đã phản ảnh vào tác động của AFTA 
15 
trước đó; (ii) việc gia nhập WTO dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu thị trường sang các 
quốc gia khác. 
 Kết quả ước lượng theo giai đoạn cũng cho thấy hệ số co giãn theo thu nhập 
đối với hàng xuất khẩu từ Việt Nam ở thị trường ASEAN có dấu hiệu giảm dần. 
Tác động của quy mô dân số/thị trường là rất không rõ ràng. Khoảng cách ngày 
càng trở nên không có ý nghĩa đối với hoạt động thương mại với ASEAN. Bên cạnh 
đó, đồng tiền Việt Nam mất giá vẫn có tác động rất mạnh đối với xuất khẩu sang 
các thị trường này hơn là các thị trường trong Hiệp định xuyên Châu Á Thái Bình 
Dương. 
4.3. Kết quả đối với mức hiệu quả khai thác tiềm năng xuất khẩu hàng hóa của 
Việt Nam 
Căn cứ trên kết quả của mô hình ước lượng chung cho tất cả các quốc gia, 
chúng ta có thể ước lượng mức phi hiệu quả trong khai thác hoạt động xuất khẩu 
của Việt Nam sang các thị trường. Giai đoạn 1995-2014 cho thấy sự cải thiện trong 
hiệu quả khai thác xuất khẩu Việt Nam với các đối tác giống như đã kết luận trong 
mô hình ước lượng chung nói trên. Nếu mức điểm hiệu quả xuất khẩu trung bình 
của Việt Nam năm 1995 chỉ là 0,51 thì đến năm 2014 đã là 0,636 (giá trị tối ưu là 
1). Tuy nhiên mức cải thiện hiệu quả xuất khẩu này có xu hướng chững lại trong 
những năm gần đây. Điều này có thể là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính 
toàn cầu cũng như xu hướng quay lại của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch thông qua việc 
tăng cường sử dụng các hàng rào kỹ thuật diễn ra trong những năm gần đây. 
Bên cạnh đó, độ lệch chuẩn trong mức hiệu quả này giữa các quốc gia có xu 
hướng thu hẹp dần. Nếu năm 1995 độ lệch chuẩn là 0,256 thì đến năm 2014 chỉ còn 
là 0,205. Điều này có thể là do: (i) Sự hội nhập mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, sự 
đồng bộ, thống nhất về chính sách thương mại của các quốc gia dẫn đến luồng chu 
chuyển hàng hóa trở nên tự do hơn; (ii) Chính sách thương mại của Việt Nam cũng 
trở nên đồng bộ hơn, thống nhất hơn với các đối tác. 
16 
Mức hiệu quả xuất khẩu đối với một số thị trường mặc dù đã được thu hẹp 
trong giai đoạn 1995-2014 nhưng còn khá chênh lệnh. Mức hiệu quả xuất khẩu đối 
với các thị trường ASEAN là khá cao. Nhưng ngược lại dư địa cho cải thiện hiệu 
quả ở các thị trường TPP như Australia (55% năm 2014), Nhật Bản (33,2% năm 
2014), Mỹ (21,2% năm 2014) hay thậm chí Trung Quốc (20,4% năm 2014) còn rất 
lớn. Điều này tạo ra những cơ hội cho Việt Nam trong quá trình hội nhập đặc biệt là 
trong bối cảnh xuất hiện những hiệp định thương mại thế hệ mới. 
Một điểm đáng lưu ý nữa khi quan sát sự thay đổi của hiệu quả xuất khẩu là 
tiến trình hội nhập mạnh mẽ của Việt Nam vào thị trường quốc tế mà đánh dấu 
bằng bước gia nhập WTO vào năm 2007 mặc dù mang lại sự cải thiện rất lớn về 
quy mô kim ngạch xuất khẩu nhưng không thực sự mang lại sự cải thiện về hiệu 
quả trong khai thác hoạt động này. Mức điểm hiệu quả không thể hiện sự cải thiện 
đột biến gì qua năm 2007. 
5. Kết luận 
Trong bài nghiên cứu này chúng tôi đã sử dụng mô hình lực hấp dẫn biên 
ngẫu nhiên để ước lượng tiềm năng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang các 
nước đối tác. Mô hình này không những cho chúng ta những ước lượng vững hơn 
đối với các nhân tố tác động đến tiềm năng hoạt động xuất khẩu mà còn cho phép từ 
đó xác định mức hiệu quả trong khai thác tiềm năng này. 
Với số liệu xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 1995-2014, kết quả ước 
lượng cho thấy GDP của Việt Nam và nước đối tác có tác động cùng chiều đến tiềm 
năng xuất khẩu của Việt Nam. Việt Nam đồng mất giá so với đồng tiền của các 
quốc gia đối tác sẽ thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam sang các quốc gia này. 
Khoảng cách có ảnh hưởng ngược chiều đến quy mô xuất khẩu theo đúng như kỳ 
vọng của mô hình lý thuyết. Quy mô dân số của nước đối tác cho thấy ảnh hưởng 
ngược chiều. Mức hiệu quả trong khai thác tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam có 
17 
xu hướng tăng dần tuy nhiên với tốc độ khá chậm khoảng 0,14% mỗi năm trong 
toàn giai đoạn. 
Việc phân tách trước và sau khi tham gia vào WTO cho thấy mức độ ảnh 
hưởng của các nhân tố đến tiềm năng xuất khẩu giai đoạn hậu WTO có xu hướng 
suy giảm. Điều này phù hợp với việc cơ cấu xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam. Ước 
lượng đối với hệ số eta cho thấy hiệu quả khai thác xuất khẩu giai đoạn trước WTO 
có xu hướng giảm dần. Ngược lại giai đoạn hậu WTO có xu hướng tăng dần. Nó 
hàm ý rằng quá trình hội nhập có tác động tích cực. 
Việc ước lượng mô hình theo các nhóm nước đối tác cũng cho cùng kết luận 
như trên. Tuy nhiên, mức độ cải thiện hiệu quả xuất khẩu sang các thị trường phát 
triển là mạnh mẽ hơn so với các thị trường đang phát triển như ASEAN. 
Tài liệu tham khảo 
1. Anderson J. E. và Wincoop E. (2003), “Gravity with Gravitas: a solution to the border puzzle”, 
American Economic Review, 93 (1), pp. 170-192. 
2. Armstrong S. (2014), “Economics still trumps politics between Japan and China”, Kokusai 
Mondai (International Affairs), 634. 
3. Baldwin R. và Taglioni D. (2006), “Gravity for dummies and dummies for gravity equations”, 
NBER Working paper 12516, Cambridge MA. 
4. Battese G. E. và Coelli T. J. (1995), “A model for technical inefficiency effects in a stochastic 
frontier production function for panel data”, Empirical Economics, 20, pp. 325-332. 
5. Hoàng Chí Cương và Bùi Thị Thanh Nhàn (2013), “Tác động của khủng hoảng tài chính – kinh 
tế toàn cầu 2008 tới ngoại thương Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Phát triển, 11 (5), pp. 751-
766. 
6. Kalirajan K. (1999), “Stochastic varying coefficients gravity model: An application in trade 
analysis”, Journal of Applied Statistics, 26 (2), pp. 185-193. 
7. Kalirajan K. (2008), “Gravity model specification and estimation: Revisited”, Applied 
Economic Letter, 15, pp. 1037-1039. 
8. Linneman H. (1966), “An Econometric study of world trade flows”, Amsterdam, North-
Holland Publishing Company. 
9. Nasir S. và Kalirajan K. (2013), “Export performance of South and East Asia in modern 
services”, ASARC Working paper, 7, Australian National University. 
10. Nilson L. (2000), “Trade integration and the EU economic membership criteria”, European 
Journal of Political Economy, 16, pp. 807-827. 
18 
11. Nguyễn Anh Thư (2012), “Assessing the impact of Vietnam’s integration under AFTA and 
VJEPA on Vietnam’s trade flows, Gravity model approach”, Yokohama Journal of Social 
sciences, 17 (2), pp. 137-148. 
12. Tinbergen J. (1962), “Shaping the world economy: suggestions for an international economic 
policy”, Twentieth Century Fund, New York. 
13. Từ Thúy Anh và Đào Nguyên Thắng (2008), Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ tập trung 
thương mại của Việt Nam với ASEAN + 3, Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
14. Yuventus E. (2014), “ASEAN free trade agreement implementation for Indonesian teading 
performance: a gravity model approach”, Bulletin llmiah Litbang Perdagangan, 8 (1), pp. 73-92. 
15. Vũ Kim Dũng và Mai Thị Lan Hương (2012), “Quan hệ thương mại Việt Nam và 19 đối tác 
chính”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển tháng 9/2012, pp. 88-92. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_tiem_nang_va_hieu_qua_hoat_dong_xuat_khau_cua_viet.pdf