Đánh giá kết quả điều trị gãy đầu dưới xương chày bằng đinh metaizeau

Hiện nay, những trường hợp gãy đầu

dưới xương chày thường được mổ mở,

KHX nẹp vít. Kỹ thuật này đem tới sự nắn

chỉnh tốt, tuy nhiên cũng có không ít nguy

cơ nhiễm trùng [1]. Một số báo cáo cho

thấy, tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ rất cao [2].

Olerud và Karlstrom [3] báo cáo: KHX nẹp

vít có hiện tượng chậm liền xương, nhiễm

trùng và gãy nẹp. Để giảm những nguy

cơ này, một số phương pháp được áp

dụng gồm: KHX bằng cố định ngoài ở giai

đoạn đầu, sau đó KHX xâm lấn tối thiểu ở

thì sau. KHX bằng đinh nội tủy được coi

là phương pháp lý tưởng cho gãy thân

xương [4] và dần được mở rộng cho gãy

đầu dưới xương chày. Phương pháp này

có ưu điểm không phải mở ổ gãy, độ

vững cao với nhiều điểm có thể cố định.

Tuy nhiên, đầu dưới xương chày loe

rộng, ngắn, một số trường hợp phạm

khớp có thể dẫn tới những biến chứng

như không liền xương, liền lệch và gãy

đinh là những khó khăn khi áp dụng

phương pháp này.

Để khắc phục những vấn đề trên,

chúng tôi áp dụng KHX bằng đinh

Metaizeau - một chùm đinh có đường

kính nhỏ, đàn hồi với đầu được uốn cong [5].

Những đinh này được đóng vào ống tuỷ

và những đầu cong được toả ra các hướng,

neo vào vùng hành xương. Tuy nhiên,

liệu với hai đinh như thông thường có đủ

độ vững không hay phải đóng thêm một

hoặc hai đinh nữa?

pdf 6 trang kimcuc 2400
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả điều trị gãy đầu dưới xương chày bằng đinh metaizeau", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả điều trị gãy đầu dưới xương chày bằng đinh metaizeau

Đánh giá kết quả điều trị gãy đầu dưới xương chày bằng đinh metaizeau
T¹P CHÝ Y - D¦îc häc qu©n sù sè 4-2020 
 67 
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY ĐẦU DƯỚI XƯƠNG CHÀY 
BẰNG ĐINH METAIZEAU 
 Nguyễn Đức Bình1,2, Nguyễn Hạnh Quang2, Nguyễn Tiến Bình1 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị gãy đầu dưới xương chày bằng đinh Metaizeau. 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả có theo dõi dọc trên 48 bệnh nhân 
(BN) gãy đầu dưới xương chày được kết xương bằng đinh Metaizeau tại Khoa Chấn thương 
Chỉnh hình, Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn. Kết quả: Rất tốt: 9,1%; tốt: 81,8%; trung bình: 
9,1% và kém: 0,0%. Không ghi nhận các biến chứng viêm xương và khớp giả. Kết luận: 
Phương pháp kết hợp xương (KHX) bằng đinh Metaizeau là một chỉ định hợp lý cho gãy đầu 
dưới xương chày. 
* Từ khoá: Gãy đầu dưới xương chày; Đinh Metaizeau. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay, những trường hợp gãy đầu 
dưới xương chày thường được mổ mở, 
KHX nẹp vít. Kỹ thuật này đem tới sự nắn 
chỉnh tốt, tuy nhiên cũng có không ít nguy 
cơ nhiễm trùng [1]. Một số báo cáo cho 
thấy, tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ rất cao [2]. 
Olerud và Karlstrom [3] báo cáo: KHX nẹp 
vít có hiện tượng chậm liền xương, nhiễm 
trùng và gãy nẹp. Để giảm những nguy 
cơ này, một số phương pháp được áp 
dụng gồm: KHX bằng cố định ngoài ở giai 
đoạn đầu, sau đó KHX xâm lấn tối thiểu ở 
thì sau. KHX bằng đinh nội tủy được coi 
là phương pháp lý tưởng cho gãy thân 
xương [4] và dần được mở rộng cho gãy 
đầu dưới xương chày. Phương pháp này 
có ưu điểm không phải mở ổ gãy, độ 
vững cao với nhiều điểm có thể cố định. 
Tuy nhiên, đầu dưới xương chày loe 
rộng, ngắn, một số trường hợp phạm 
khớp có thể dẫn tới những biến chứng 
như không liền xương, liền lệch và gãy 
đinh là những khó khăn khi áp dụng 
phương pháp này. 
Để khắc phục những vấn đề trên, 
chúng tôi áp dụng KHX bằng đinh 
Metaizeau - một chùm đinh có đường 
kính nhỏ, đàn hồi với đầu được uốn cong [5]. 
Những đinh này được đóng vào ống tuỷ 
và những đầu cong được toả ra các hướng, 
neo vào vùng hành xương. Tuy nhiên, 
liệu với hai đinh như thông thường có đủ 
độ vững không hay phải đóng thêm một 
hoặc hai đinh nữa? 
Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu 
với mục đích: Đánh giá kết quả điều trị 
gãy đầu dưới xương chày bằng đinh 
Metaizeau. 
1Bộ môn - Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y 
2Khoa Chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn 
Người phản hồi: Nguyễn Đức Bình (binhstpaul@yahoo.com) 
 Ngày nhận bài: 6/4/2020 
 Ngày bài báo được đăng: 2/6/2020 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2020 
 68 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu 
48 BN gồm 31 nam, 17 nữ, tuổi từ 
30 - 87 (trung bình: 56,1). 
 * Tiêu chuẩn lựa chọn: BN ≥ 18 tuổi; 
gãy kín đầu dưới xương chày loại A 
(phân loại AO/OTA), có tổn thương phần 
mềm ở mức độ 0, 1, 2 (phân loại Tschern) 
và gãy hở độ I, II, IIIA (phân loại Gustilo). 
* Tiêu chuẩn loại trừ: BN gãy xương 
bệnh lý; dị dạng ống tuỷ và không đồng ý 
tham gia vào nghiên cứu. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
* Thiết kế nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả 
có theo dõi dọc. 
* Nội dung nghiên cứu: 
- Thăm khám lâm sàng và đánh giá 
phim X quang trước mổ. 
- Dụng cụ: Chuẩn bị C-arm, bàn mổ 
chỉnh hình và dụng cụ phẫu thuật. 
- Vô cảm: Gây tê tuỷ sống hoặc gây 
mê nội khí quản. 
- Kỹ thuật mổ: 
+ Đặt BN nằm trên bàn chỉnh hình, kéo 
nắn phục hồi giải phẫu ổ gãy xương chày 
dưới C-arm. 
 Hình 1: Tư thế BN. 
+ Trong trường hợp có gãy xương mác, nếu có chỉ định mổ sẽ tiến hành phẫu thuật 
kết xương mác bằng nẹp vít hoặc đóng đinh Kirschner trước. 
+ Dưới C-arm, đóng các đinh Metaizeau xuôi dòng từ đầu trên xương chày qua ổ 
gãy xuống đầu dưới xương chày. 
+ Kiểm tra dưới C-arm, nếu thấy doãng mộng chày mác, bắt 1 vít vỏ xương cứng 
đường kính 3,5 mm qua 3 hoặc 4 vỏ xương để cố định khớp chày mác dưới. 
T¹P CHÝ Y - D¦îc häc qu©n sù sè 4-2020 
 69 
Hình 2: Chụp C-arm kiểm tra kết quả KHX. 
- Chăm sóc sau phẫu thuật: 
+ Rút dẫn lưu sau mổ 48 giờ. 
+ Hướng dẫn BN tập vận động khớp 
cổ chân và khớp gối sau 48 giờ. 
+ Tập đi: Những BN được KHX bằng 3 
hoặc 4 đinh được tăng cường nẹp bột và 
tập đi chống 2 nạng có tỳ một phần lên 
chân mổ ngay từ những ngày đầu sau mổ 
cho tới hết tuần thứ 6. Những BN được 
KHX 2 đinh phải tăng cường bột cẳng 
bàn chân, đi chống 2 nạng không tỳ lên 
chân mổ trong 6 tuần đầu. 
+ Thời gian hẹn BN đến mổ tháo phương 
tiện kết xương sau tối thiểu 1 năm. 
* Đánh giá kết quả: 
+ Kết quả gần: Diễn biến tại vết mổ, 
kết quả nắn chỉnh phục hồi giải phẫu và 
kết quả kết xương. 
+ Kết quả xa: Sau mổ tối thiểu 12 tháng; 
đánh giá trên các mặt: tình trạng sẹo mổ, 
tình trạng liền xương tại ổ gãy, kết quả 
phục chỉnh trục xương theo tiêu chuẩn 
của Johner-Wrush [6] và kết quả phục hồi 
chức năng của Olerud (1984) [7]. 
* Bảng tiêu chuẩn đánh giá kết quả 
chỉnh trục xương chày theo Johner-Wrush: 
Tiêu chuẩn Rất tốt Tốt Trung bình Kém 
Mức độ xoay 
của cổ chân 0 - 5º 6 - 10º 11 - 20° > 20° 
Trục thẳng 0 - 1° 2 - 5° 6 - 10° > 10° 
Trục nghiêng 0 - 5° 6 - 10° 11 - 20° > 20° 
Ngắn chi Không Không 1 cm 
Kết quả chỉnh trục được coi là rất tốt 
khi tất cả các chỉ số trên đều đạt mức rất 
tốt; các kết quả khác sẽ được lấy tương 
ứng với chỉ số có mức biến dạng lớn nhất 
trong 4 chỉ số trên. 
Đánh giá mức độ xoay bằng cách để 
BN nằm sấp, góc xoay của cổ chân được 
xác định bởi đường nối giữa hai mắt cá 
chân và đường vuông góc với trục dọc 
của đùi và mức độ xoay được so sánh 
với chân lành (thông thường cổ chân 
thường xoay ngoài 12 - 15o). 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
1. Đặc điểm nhóm BN nghiên cứu 
* Đặc điểm chung: 
- 48 BN gồm 31 BN nam (64,6%), 
17 BN nữ (35,4%). 
- Tuổi từ 30 - 87 (trung bình: 56,1 tuổi). 
- Nguyên nhân: Tai nạn giao thông: 
33 BN (68,6%); tai nạn sinh hoạt: 14 BN 
(29,2%); chấn thương thể thao: 1 BN (2,1%). 
* Đặc điểm tổn thương: 
- Gãy kín: 34 BN (70,8%); gãy hở: 14 BN 
(29,2%). 
- Phân loại gãy hở (Gustilo): Độ I: 5 BN; 
độ II: 7 BN; độ IIIa: 2 BN. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2020 
 70 
- Phân loại tổn thương phần mềm 
trong gãy kín: Độ 0: 15 BN (44,1%); độ 1: 
14 BN (41,2%); độ II: 5 BN (14,7%). 
- Phân loại gãy (Muller-AO): A1: 16 BN 
(33,3%); A2: 23 BN (47,9%); A3: 9 BN 
(18,8%). 
- Khoảng cách từ khe khớp chày-sên 
tới đường gãy: < 3 cm: 29 BN (60,4%); 
3 - 5 cm: 19 BN (39,6%). 
- Gãy xương mác: 41 BN (85,4%). 
- Tổn thương khớp chày-mác dưới: 
6 BN (12,5%). 
- Kết hợp xương mác: Nẹp: 32 BN 
(78%); đinh Kirschnner: 2 BN (4,9%); 
không KHX: 7 BN (17,1%). 
- Số đinh Metaizeau sử dụng kết xương: 
2 đinh: 5 BN (10,4%); 3 đinh: 28 BN (58,3%); 
4 đinh: 15 BN (31,3%). 
2. Kết quả điều trị 
* Kết quả gần: 
- Vết mổ: liền sẹo kỳ đầu: 45 BN (93,8%); 
nhiễm khuẩn nông: 3 BN (6,2%). 
- Kết quả chỉnh trục xương chày sau mổ: 
Rất tốt: 10 BN (20,8%); tốt: 35 BN (72,9%); 
trung bình: 3 BN (6,3%); kém: 0,0%. 
* Kết quả thời điểm 3 và 6 tháng: 
- Kết quả chỉnh trục xương chày: 
Bảng 1: 
3 tháng 6 tháng Tỷ lệ (%) 
Kết quả 
n 
Rất tốt 10 10 20,8 
Tốt 33 33 68,8 
Trung bình 4 4 8,3 
Kém 1 1 2,1 
Tổng 48 48 100,0 
- Thời gian liền xương: < 12 tuần: 
25 BN (52,1%); 12 - 24 tuần: 23 BN (47,9%). 
- Kết quả PHCN thời điểm 6 tháng: 
Rất tốt: 6 BN (12,5%); tốt: 37 BN (77,1%); 
trung bình: 5 BN (10,4%); kém: 0,0%. 
* Kết quả xa: 
- Kiểm tra 33 BN với thời gian theo dõi 
trung bình 28,6 tháng (tối thiểu: 12 tháng 
và xa nhất: 59 tháng). 
- Tình trạng sẹo mổ: sẹo mềm mại không 
viêm rò: 100%. 
- Kết quả liền xương đạt 100% . 
- Kết quả trục xương chày: Rất tốt: 
5 BN (15,2%); tốt: 26 BN (78,8%); trung 
bình: 2 BN (6,0%); kém: 0,0%. 
- Kết quả PHCN: Rất tốt: 5 BN (15,2%); 
tốt: 25 BN (75,8%); trung bình: 3 BN (8,0%); 
kém: 0,0%. 
- Kết quả xa: Rất tốt: 3 BN (9,1%); tốt: 
27 BN (81,8%); trung bình: 3 BN (9,1%); 
kém: 0,0%. 
BÀN LUẬN 
1. Về liền vết thương 
Theo các nghiên cứu của Mcnab [8], 
Rhinelander [9], đoạn 1/3 dưới và đầu 
dưới xương chày là nơi được cấp máu ít 
nhất ở cẳng chân. Hơn nữa, phần mềm 
xung quanh chỉ có da và gân nên khi gãy 
đầu dưới xương chày nếu mổ kết xương 
nẹp vít thì nguy cơ nhiễm khuẩn toác vết 
mổ lộ xương và nẹp vít rất cao. Nghiên 
cứu của chúng tôi ghi nhận tỷ lệ nhiễm 
khuẩn là 6,2%, tương đồng với kết quả 
nghiên cứu của Kruppa (7,1%), Nork (6,4%) 
và thấp hơn so với nghiên cứu của 
Mustaq (9,5%), Palvuvadi (10%). 
T¹P CHÝ Y - D¦îc häc qu©n sù sè 4-2020 
 71 
2. Về trục xương chày 
Chỉ định KHX đinh nội tuỷ có chốt điều 
trị gãy đầu dưới xương chày không được 
khuyến khích cho ổ gãy ở gần khớp, 
do đầu ngoại vi còn quá ngắn, không đủ để 
bắt các vít chốt chống xoay. Đinh Metaizeau 
với đầu cong phía xa trở nên ưu việt đối 
với ổ gãy vùng này với kiểu chốt khoá 
bên trong. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tại 
thời điểm ngay sau mổ có 3 BN lệch trục 
ở mức trung bình, trong đó 2 BN vẹo 
ngoài 7o và 1 BN vẹo trong 8o. Tỷ lệ BN 
đạt kết quả tốt và rất tốt là 93,7%. Tại thời 
điểm 6 tuần sau mổ, số BN lệch trục so 
với thời điểm ngay sau mổ không thay đổi 
(3 BN), nhưng có 1 BN ổ gãy di lệch thêm 
từ mức trung bình (vẹo ngoài 7o) xuống 
mức kém (vẹo ngoài 18o). Tại thời điểm 
3 tháng, số BN lệch trục là 5 vì xuất hiện 
thêm 2 BN di lệch thứ phát. Tại thời điểm 
trước, cả 2 BN đều có kết quả chỉnh trục 
tốt, nhưng sau đó 1 BN vẹo trong 9o và 1 BN 
vẹo ngoài 8o. Tỷ lệ tốt và rất tốt là 89,6%. 
Tại thời điểm 6 tháng, kết quả chỉnh trục 
trên X quang và lâm sàng không thay đổi 
so với thời điểm 3 tháng. Điều này có thể 
được lý giải bởi ở thời điểm 3 tháng, một 
số BN chưa liền xương hoàn toàn nhưng 
hầu hết có can cầu đã hình thành, góp 
phần không nhỏ vào độ vững của ổ KHX. 
Ở kết quả xa, kết quả tốt và rất tốt là 94%. 
Tỷ lệ lệch trục khi KHX bằng đinh nội tuỷ 
trong nghiên cứu của Prasad là 20%, 
của Egol là 14%. 
3. Về thời gian liền xương 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, 
KHX bằng đinh đàn hồi đã kích thích hình 
thành sớm can xương ngoại vi, góp phần 
duy trì độ vững của ổ kết xương, sớm 
giúp BN giải phóng khỏi sự hỗ trợ của 
nạng, nhanh chóng hoà nhập với sinh 
hoạt hàng ngày. Đây là một trong những 
ưu điểm lớn nhất của phương pháp KHX 
bằng đinh đàn hồi. 
Tại thời điểm 1,5 tháng, kết quả phim 
X quang cho thấy, có hình ảnh của can 
xương ngoại vi ở tất cả BN ở các mức 
độ, các lứa tuổi và các dạng gãy khác 
nhau. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự xuất 
hiện của can xương ở 2 mặt ổ gãy. Tất cả 
BN được KHX bằng 3 hoặc 4 đinh (40 BN) 
đều có thể tỳ hoàn toàn chân bên gãy mà 
không có cảm giác đau. 
Tại thời điểm 3 tháng, có 25 BN (52,1%) 
xuất hiện can xương ở 2 mặt ổ gãy, tuy 
nhiên gần một nửa số BN (23 BN) vẫn 
chưa thấy hoặc rất mờ nhạt, đa số là ổ 
gãy ngang và ổ gãy chéo. Tất cả BN 
được bỏ nạng và tỳ chân hoàn toàn. 
Tại thời điểm 6 tháng, hầu hết BN đều 
liền xương vững, bắt đầu có sự sửa chữa 
can xương; còn 1 BN 65 tuổi, gãy hở 
độ IIIA, mất 1 phần xương có ổ gãy vẫn 
chưa liền hoàn toàn, sau 12 tháng ổ gãy 
liền xương chắc. Thời gian liền xương 
trung bình trong nghiên cứu của Collinge 
là 21 tuần, của Redfern là 3 tháng. 
Đối với xương mác, tất cả đều liền 
xương, thời gian liền xương trung bình là 
3,5 tháng. 
4. Về phục hồi chức năng 
Chúng tôi chọn thời điểm PHCN tối 
thiểu 6 tháng vì ở khoảng thời điểm này 
xương đã liền, BN có thể tỳ chân hoàn 
toàn. Ở thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật, 
kết quả đánh giá chức năng cổ chân theo 
thang điểm của Olerud có 5 BN (10,4%) 
đạt kết quả trung bình, không có kết quả 
kém, tỷ lệ đạt kết quả tốt và rất tốt là 
89,6%. Đối với kết quả xa, chúng tôi 
nhận thấy có sự cải thiện, khi 3 BN có 
kết quả PHCN trung bình ở thời điểm sau 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2020 
 72 
6 tháng chuyển lên mức tốt; tỷ lệ tốt và 
rất tốt là 91%. Trước đó 3 BN này đau 
khi đi lại, phù nề, hạn chế vận động khớp 
cổ chân. Kiểm tra lại ở thời điểm 15 và 
18 tháng, các triệu chứng trên không còn, 
BN trở lại với công việc và sinh hoạt 
hàng ngày. 
Kết quả này bắt nguồn từ những ưu 
điểm của KHX bằng đinh đàn hồi, ngoài 
đạt được những tiêu chuẩn chung của 
KHX bên trong như nắn chỉnh giải phẫu, 
đảm bảo độ vững, tạo điều kiện cho phục 
hồi chức năng sớm thì những ưu thế 
riêng của FIN như KHX kín là không làm 
tổn thương thêm phần mềm. Chính vì 
vậy, khả năng phục hồi phần mềm quanh 
cổ chân thuận lợi hơn, nhất là đối với 
vùng cổ chân, phần mềm chỉ là da bọc 
xương. Một ưu thế khác là kết quả phục 
hồi chức năng của FIN khác hoàn toàn so 
với kết quả của KHX nẹp vít, đinh nội tủy 
có chốt là những KHX vững chắc. Đó là 
sự liền xương mau chóng với sự xuất 
hiện của can cầu ở giai đoạn sau (tuần 
thứ 3) và sự liên kết lực giữa các đầu 
xương gãy với yếu tố phần mềm xung 
quanh qua đinh đàn hồi ngay sau khi KHX. 
Trong nghiên cứu của De Caffiniere [5], 
kết quả PHCN tốt và rất tốt là 85,8%, của 
Ehlinger [10] kết quả này là 83,2%. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật 
điều trị gãy đầu dưới xương chày bằng 
đinh Metaizeau dưới màn tăng sáng cho 
48 BN, chúng tôi có kết luận sau: KHX 
bằng đinh Metaizeau hiệu quả đối với gãy 
đầu dưới xương chày với ưu điểm phục 
hồi tốt về giải phẫu, cố định ổ gãy vững 
chắc và bảo tồn tối đa hệ thống mạch 
nuôi dưỡng ổ gãy. Kết quả gần liền vết mổ 
kỳ đầu đạt 100%, kết quả liền xương đạt 
100%. Kết quả phục hồi chức năng đạt 
rất tốt: 9,1%, tốt: 81,8% và trung bình: 
9,1%; không có kết quả kém. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Wyrsch B, MM, McAndrew M, et al. 
Operative treatment of fractures of the tibial 
plafond. A randomized, prospective study. 
J Bone Joint Surg Am 1996; 78:1646-1675. 
2. McCann PA, JM, Mitchell ST, et al. 
Complications of definitive open reduction and 
internal fixation of pilon fractures of the distal 
tibia. Orthop Rev 2011; 35:413-418. 
3. Olerud S, KG. Tibial fractures treated by 
AO compression osteosynthesis. Experiences 
from a five year material. Acta Orthop Scand 
Suppl 1972; 140:1-104. 
4. Whittle AP, WG. Fractures of the lower 
extremity. Campbells’s Operative Orthopaedics 
2003:2757-2761. 
5. de la Caffiniere JY, R Benzimra, N 
Chanzy. Treatment of distal metaphyseal 
fractures of the tibia with the interlocking 
flexible osteosynthesis system. Rev Chir Orthop 
Reparatrice Appar Mot 1999; 85(1):42-50. 
6. R Johner W. Classification of tibial shaft 
fractures and correlation with results after rigid 
internal fixation. Clinical Orthopaedics and 
Related Research 1983; 178:7-25. 
7. Olerud C, H Molander. A scoring scale 
for symptom evaluation after ankle fracture. 
Arch Orthop Trauma Surg 1984; 103(3):190-194. 
8. Macnab I, WG De Haas. The role of 
periosteal blood supply in the healing of 
fractures of the tibia. Clin Orthop Relat Res 
1974; 105:27-33. 
9. Rhinelander FW. Tibial blood supply in 
relation to fracture healing. Clin Orthop Relat 
Res 1974; 105:34-81. 
10. Ehlinger M, P Adam, A Gabrion, et al. 
Distal quarter leg fractures fixation: the 
intramedullary nailing alone option. Orthop 
Traumatol Surg Res 2010; 96(6):674-682. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_dieu_tri_gay_dau_duoi_xuong_chay_bang_dinh.pdf