Đánh giá kết quả điều trị gãy đầu dưới xương chày bằng đinh metaizeau
Hiện nay, những trường hợp gãy đầu
dưới xương chày thường được mổ mở,
KHX nẹp vít. Kỹ thuật này đem tới sự nắn
chỉnh tốt, tuy nhiên cũng có không ít nguy
cơ nhiễm trùng [1]. Một số báo cáo cho
thấy, tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ rất cao [2].
Olerud và Karlstrom [3] báo cáo: KHX nẹp
vít có hiện tượng chậm liền xương, nhiễm
trùng và gãy nẹp. Để giảm những nguy
cơ này, một số phương pháp được áp
dụng gồm: KHX bằng cố định ngoài ở giai
đoạn đầu, sau đó KHX xâm lấn tối thiểu ở
thì sau. KHX bằng đinh nội tủy được coi
là phương pháp lý tưởng cho gãy thân
xương [4] và dần được mở rộng cho gãy
đầu dưới xương chày. Phương pháp này
có ưu điểm không phải mở ổ gãy, độ
vững cao với nhiều điểm có thể cố định.
Tuy nhiên, đầu dưới xương chày loe
rộng, ngắn, một số trường hợp phạm
khớp có thể dẫn tới những biến chứng
như không liền xương, liền lệch và gãy
đinh là những khó khăn khi áp dụng
phương pháp này.
Để khắc phục những vấn đề trên,
chúng tôi áp dụng KHX bằng đinh
Metaizeau - một chùm đinh có đường
kính nhỏ, đàn hồi với đầu được uốn cong [5].
Những đinh này được đóng vào ống tuỷ
và những đầu cong được toả ra các hướng,
neo vào vùng hành xương. Tuy nhiên,
liệu với hai đinh như thông thường có đủ
độ vững không hay phải đóng thêm một
hoặc hai đinh nữa?
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả điều trị gãy đầu dưới xương chày bằng đinh metaizeau
T¹P CHÝ Y - D¦îc häc qu©n sù sè 4-2020 67 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY ĐẦU DƯỚI XƯƠNG CHÀY BẰNG ĐINH METAIZEAU Nguyễn Đức Bình1,2, Nguyễn Hạnh Quang2, Nguyễn Tiến Bình1 TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị gãy đầu dưới xương chày bằng đinh Metaizeau. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả có theo dõi dọc trên 48 bệnh nhân (BN) gãy đầu dưới xương chày được kết xương bằng đinh Metaizeau tại Khoa Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn. Kết quả: Rất tốt: 9,1%; tốt: 81,8%; trung bình: 9,1% và kém: 0,0%. Không ghi nhận các biến chứng viêm xương và khớp giả. Kết luận: Phương pháp kết hợp xương (KHX) bằng đinh Metaizeau là một chỉ định hợp lý cho gãy đầu dưới xương chày. * Từ khoá: Gãy đầu dưới xương chày; Đinh Metaizeau. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, những trường hợp gãy đầu dưới xương chày thường được mổ mở, KHX nẹp vít. Kỹ thuật này đem tới sự nắn chỉnh tốt, tuy nhiên cũng có không ít nguy cơ nhiễm trùng [1]. Một số báo cáo cho thấy, tỷ lệ nhiễm trùng vết mổ rất cao [2]. Olerud và Karlstrom [3] báo cáo: KHX nẹp vít có hiện tượng chậm liền xương, nhiễm trùng và gãy nẹp. Để giảm những nguy cơ này, một số phương pháp được áp dụng gồm: KHX bằng cố định ngoài ở giai đoạn đầu, sau đó KHX xâm lấn tối thiểu ở thì sau. KHX bằng đinh nội tủy được coi là phương pháp lý tưởng cho gãy thân xương [4] và dần được mở rộng cho gãy đầu dưới xương chày. Phương pháp này có ưu điểm không phải mở ổ gãy, độ vững cao với nhiều điểm có thể cố định. Tuy nhiên, đầu dưới xương chày loe rộng, ngắn, một số trường hợp phạm khớp có thể dẫn tới những biến chứng như không liền xương, liền lệch và gãy đinh là những khó khăn khi áp dụng phương pháp này. Để khắc phục những vấn đề trên, chúng tôi áp dụng KHX bằng đinh Metaizeau - một chùm đinh có đường kính nhỏ, đàn hồi với đầu được uốn cong [5]. Những đinh này được đóng vào ống tuỷ và những đầu cong được toả ra các hướng, neo vào vùng hành xương. Tuy nhiên, liệu với hai đinh như thông thường có đủ độ vững không hay phải đóng thêm một hoặc hai đinh nữa? Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục đích: Đánh giá kết quả điều trị gãy đầu dưới xương chày bằng đinh Metaizeau. 1Bộ môn - Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y 2Khoa Chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn Người phản hồi: Nguyễn Đức Bình (binhstpaul@yahoo.com) Ngày nhận bài: 6/4/2020 Ngày bài báo được đăng: 2/6/2020 T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2020 68 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu 48 BN gồm 31 nam, 17 nữ, tuổi từ 30 - 87 (trung bình: 56,1). * Tiêu chuẩn lựa chọn: BN ≥ 18 tuổi; gãy kín đầu dưới xương chày loại A (phân loại AO/OTA), có tổn thương phần mềm ở mức độ 0, 1, 2 (phân loại Tschern) và gãy hở độ I, II, IIIA (phân loại Gustilo). * Tiêu chuẩn loại trừ: BN gãy xương bệnh lý; dị dạng ống tuỷ và không đồng ý tham gia vào nghiên cứu. 2. Phương pháp nghiên cứu * Thiết kế nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả có theo dõi dọc. * Nội dung nghiên cứu: - Thăm khám lâm sàng và đánh giá phim X quang trước mổ. - Dụng cụ: Chuẩn bị C-arm, bàn mổ chỉnh hình và dụng cụ phẫu thuật. - Vô cảm: Gây tê tuỷ sống hoặc gây mê nội khí quản. - Kỹ thuật mổ: + Đặt BN nằm trên bàn chỉnh hình, kéo nắn phục hồi giải phẫu ổ gãy xương chày dưới C-arm. Hình 1: Tư thế BN. + Trong trường hợp có gãy xương mác, nếu có chỉ định mổ sẽ tiến hành phẫu thuật kết xương mác bằng nẹp vít hoặc đóng đinh Kirschner trước. + Dưới C-arm, đóng các đinh Metaizeau xuôi dòng từ đầu trên xương chày qua ổ gãy xuống đầu dưới xương chày. + Kiểm tra dưới C-arm, nếu thấy doãng mộng chày mác, bắt 1 vít vỏ xương cứng đường kính 3,5 mm qua 3 hoặc 4 vỏ xương để cố định khớp chày mác dưới. T¹P CHÝ Y - D¦îc häc qu©n sù sè 4-2020 69 Hình 2: Chụp C-arm kiểm tra kết quả KHX. - Chăm sóc sau phẫu thuật: + Rút dẫn lưu sau mổ 48 giờ. + Hướng dẫn BN tập vận động khớp cổ chân và khớp gối sau 48 giờ. + Tập đi: Những BN được KHX bằng 3 hoặc 4 đinh được tăng cường nẹp bột và tập đi chống 2 nạng có tỳ một phần lên chân mổ ngay từ những ngày đầu sau mổ cho tới hết tuần thứ 6. Những BN được KHX 2 đinh phải tăng cường bột cẳng bàn chân, đi chống 2 nạng không tỳ lên chân mổ trong 6 tuần đầu. + Thời gian hẹn BN đến mổ tháo phương tiện kết xương sau tối thiểu 1 năm. * Đánh giá kết quả: + Kết quả gần: Diễn biến tại vết mổ, kết quả nắn chỉnh phục hồi giải phẫu và kết quả kết xương. + Kết quả xa: Sau mổ tối thiểu 12 tháng; đánh giá trên các mặt: tình trạng sẹo mổ, tình trạng liền xương tại ổ gãy, kết quả phục chỉnh trục xương theo tiêu chuẩn của Johner-Wrush [6] và kết quả phục hồi chức năng của Olerud (1984) [7]. * Bảng tiêu chuẩn đánh giá kết quả chỉnh trục xương chày theo Johner-Wrush: Tiêu chuẩn Rất tốt Tốt Trung bình Kém Mức độ xoay của cổ chân 0 - 5º 6 - 10º 11 - 20° > 20° Trục thẳng 0 - 1° 2 - 5° 6 - 10° > 10° Trục nghiêng 0 - 5° 6 - 10° 11 - 20° > 20° Ngắn chi Không Không 1 cm Kết quả chỉnh trục được coi là rất tốt khi tất cả các chỉ số trên đều đạt mức rất tốt; các kết quả khác sẽ được lấy tương ứng với chỉ số có mức biến dạng lớn nhất trong 4 chỉ số trên. Đánh giá mức độ xoay bằng cách để BN nằm sấp, góc xoay của cổ chân được xác định bởi đường nối giữa hai mắt cá chân và đường vuông góc với trục dọc của đùi và mức độ xoay được so sánh với chân lành (thông thường cổ chân thường xoay ngoài 12 - 15o). KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Đặc điểm nhóm BN nghiên cứu * Đặc điểm chung: - 48 BN gồm 31 BN nam (64,6%), 17 BN nữ (35,4%). - Tuổi từ 30 - 87 (trung bình: 56,1 tuổi). - Nguyên nhân: Tai nạn giao thông: 33 BN (68,6%); tai nạn sinh hoạt: 14 BN (29,2%); chấn thương thể thao: 1 BN (2,1%). * Đặc điểm tổn thương: - Gãy kín: 34 BN (70,8%); gãy hở: 14 BN (29,2%). - Phân loại gãy hở (Gustilo): Độ I: 5 BN; độ II: 7 BN; độ IIIa: 2 BN. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2020 70 - Phân loại tổn thương phần mềm trong gãy kín: Độ 0: 15 BN (44,1%); độ 1: 14 BN (41,2%); độ II: 5 BN (14,7%). - Phân loại gãy (Muller-AO): A1: 16 BN (33,3%); A2: 23 BN (47,9%); A3: 9 BN (18,8%). - Khoảng cách từ khe khớp chày-sên tới đường gãy: < 3 cm: 29 BN (60,4%); 3 - 5 cm: 19 BN (39,6%). - Gãy xương mác: 41 BN (85,4%). - Tổn thương khớp chày-mác dưới: 6 BN (12,5%). - Kết hợp xương mác: Nẹp: 32 BN (78%); đinh Kirschnner: 2 BN (4,9%); không KHX: 7 BN (17,1%). - Số đinh Metaizeau sử dụng kết xương: 2 đinh: 5 BN (10,4%); 3 đinh: 28 BN (58,3%); 4 đinh: 15 BN (31,3%). 2. Kết quả điều trị * Kết quả gần: - Vết mổ: liền sẹo kỳ đầu: 45 BN (93,8%); nhiễm khuẩn nông: 3 BN (6,2%). - Kết quả chỉnh trục xương chày sau mổ: Rất tốt: 10 BN (20,8%); tốt: 35 BN (72,9%); trung bình: 3 BN (6,3%); kém: 0,0%. * Kết quả thời điểm 3 và 6 tháng: - Kết quả chỉnh trục xương chày: Bảng 1: 3 tháng 6 tháng Tỷ lệ (%) Kết quả n Rất tốt 10 10 20,8 Tốt 33 33 68,8 Trung bình 4 4 8,3 Kém 1 1 2,1 Tổng 48 48 100,0 - Thời gian liền xương: < 12 tuần: 25 BN (52,1%); 12 - 24 tuần: 23 BN (47,9%). - Kết quả PHCN thời điểm 6 tháng: Rất tốt: 6 BN (12,5%); tốt: 37 BN (77,1%); trung bình: 5 BN (10,4%); kém: 0,0%. * Kết quả xa: - Kiểm tra 33 BN với thời gian theo dõi trung bình 28,6 tháng (tối thiểu: 12 tháng và xa nhất: 59 tháng). - Tình trạng sẹo mổ: sẹo mềm mại không viêm rò: 100%. - Kết quả liền xương đạt 100% . - Kết quả trục xương chày: Rất tốt: 5 BN (15,2%); tốt: 26 BN (78,8%); trung bình: 2 BN (6,0%); kém: 0,0%. - Kết quả PHCN: Rất tốt: 5 BN (15,2%); tốt: 25 BN (75,8%); trung bình: 3 BN (8,0%); kém: 0,0%. - Kết quả xa: Rất tốt: 3 BN (9,1%); tốt: 27 BN (81,8%); trung bình: 3 BN (9,1%); kém: 0,0%. BÀN LUẬN 1. Về liền vết thương Theo các nghiên cứu của Mcnab [8], Rhinelander [9], đoạn 1/3 dưới và đầu dưới xương chày là nơi được cấp máu ít nhất ở cẳng chân. Hơn nữa, phần mềm xung quanh chỉ có da và gân nên khi gãy đầu dưới xương chày nếu mổ kết xương nẹp vít thì nguy cơ nhiễm khuẩn toác vết mổ lộ xương và nẹp vít rất cao. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỷ lệ nhiễm khuẩn là 6,2%, tương đồng với kết quả nghiên cứu của Kruppa (7,1%), Nork (6,4%) và thấp hơn so với nghiên cứu của Mustaq (9,5%), Palvuvadi (10%). T¹P CHÝ Y - D¦îc häc qu©n sù sè 4-2020 71 2. Về trục xương chày Chỉ định KHX đinh nội tuỷ có chốt điều trị gãy đầu dưới xương chày không được khuyến khích cho ổ gãy ở gần khớp, do đầu ngoại vi còn quá ngắn, không đủ để bắt các vít chốt chống xoay. Đinh Metaizeau với đầu cong phía xa trở nên ưu việt đối với ổ gãy vùng này với kiểu chốt khoá bên trong. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tại thời điểm ngay sau mổ có 3 BN lệch trục ở mức trung bình, trong đó 2 BN vẹo ngoài 7o và 1 BN vẹo trong 8o. Tỷ lệ BN đạt kết quả tốt và rất tốt là 93,7%. Tại thời điểm 6 tuần sau mổ, số BN lệch trục so với thời điểm ngay sau mổ không thay đổi (3 BN), nhưng có 1 BN ổ gãy di lệch thêm từ mức trung bình (vẹo ngoài 7o) xuống mức kém (vẹo ngoài 18o). Tại thời điểm 3 tháng, số BN lệch trục là 5 vì xuất hiện thêm 2 BN di lệch thứ phát. Tại thời điểm trước, cả 2 BN đều có kết quả chỉnh trục tốt, nhưng sau đó 1 BN vẹo trong 9o và 1 BN vẹo ngoài 8o. Tỷ lệ tốt và rất tốt là 89,6%. Tại thời điểm 6 tháng, kết quả chỉnh trục trên X quang và lâm sàng không thay đổi so với thời điểm 3 tháng. Điều này có thể được lý giải bởi ở thời điểm 3 tháng, một số BN chưa liền xương hoàn toàn nhưng hầu hết có can cầu đã hình thành, góp phần không nhỏ vào độ vững của ổ KHX. Ở kết quả xa, kết quả tốt và rất tốt là 94%. Tỷ lệ lệch trục khi KHX bằng đinh nội tuỷ trong nghiên cứu của Prasad là 20%, của Egol là 14%. 3. Về thời gian liền xương Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, KHX bằng đinh đàn hồi đã kích thích hình thành sớm can xương ngoại vi, góp phần duy trì độ vững của ổ kết xương, sớm giúp BN giải phóng khỏi sự hỗ trợ của nạng, nhanh chóng hoà nhập với sinh hoạt hàng ngày. Đây là một trong những ưu điểm lớn nhất của phương pháp KHX bằng đinh đàn hồi. Tại thời điểm 1,5 tháng, kết quả phim X quang cho thấy, có hình ảnh của can xương ngoại vi ở tất cả BN ở các mức độ, các lứa tuổi và các dạng gãy khác nhau. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự xuất hiện của can xương ở 2 mặt ổ gãy. Tất cả BN được KHX bằng 3 hoặc 4 đinh (40 BN) đều có thể tỳ hoàn toàn chân bên gãy mà không có cảm giác đau. Tại thời điểm 3 tháng, có 25 BN (52,1%) xuất hiện can xương ở 2 mặt ổ gãy, tuy nhiên gần một nửa số BN (23 BN) vẫn chưa thấy hoặc rất mờ nhạt, đa số là ổ gãy ngang và ổ gãy chéo. Tất cả BN được bỏ nạng và tỳ chân hoàn toàn. Tại thời điểm 6 tháng, hầu hết BN đều liền xương vững, bắt đầu có sự sửa chữa can xương; còn 1 BN 65 tuổi, gãy hở độ IIIA, mất 1 phần xương có ổ gãy vẫn chưa liền hoàn toàn, sau 12 tháng ổ gãy liền xương chắc. Thời gian liền xương trung bình trong nghiên cứu của Collinge là 21 tuần, của Redfern là 3 tháng. Đối với xương mác, tất cả đều liền xương, thời gian liền xương trung bình là 3,5 tháng. 4. Về phục hồi chức năng Chúng tôi chọn thời điểm PHCN tối thiểu 6 tháng vì ở khoảng thời điểm này xương đã liền, BN có thể tỳ chân hoàn toàn. Ở thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật, kết quả đánh giá chức năng cổ chân theo thang điểm của Olerud có 5 BN (10,4%) đạt kết quả trung bình, không có kết quả kém, tỷ lệ đạt kết quả tốt và rất tốt là 89,6%. Đối với kết quả xa, chúng tôi nhận thấy có sự cải thiện, khi 3 BN có kết quả PHCN trung bình ở thời điểm sau T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 4-2020 72 6 tháng chuyển lên mức tốt; tỷ lệ tốt và rất tốt là 91%. Trước đó 3 BN này đau khi đi lại, phù nề, hạn chế vận động khớp cổ chân. Kiểm tra lại ở thời điểm 15 và 18 tháng, các triệu chứng trên không còn, BN trở lại với công việc và sinh hoạt hàng ngày. Kết quả này bắt nguồn từ những ưu điểm của KHX bằng đinh đàn hồi, ngoài đạt được những tiêu chuẩn chung của KHX bên trong như nắn chỉnh giải phẫu, đảm bảo độ vững, tạo điều kiện cho phục hồi chức năng sớm thì những ưu thế riêng của FIN như KHX kín là không làm tổn thương thêm phần mềm. Chính vì vậy, khả năng phục hồi phần mềm quanh cổ chân thuận lợi hơn, nhất là đối với vùng cổ chân, phần mềm chỉ là da bọc xương. Một ưu thế khác là kết quả phục hồi chức năng của FIN khác hoàn toàn so với kết quả của KHX nẹp vít, đinh nội tủy có chốt là những KHX vững chắc. Đó là sự liền xương mau chóng với sự xuất hiện của can cầu ở giai đoạn sau (tuần thứ 3) và sự liên kết lực giữa các đầu xương gãy với yếu tố phần mềm xung quanh qua đinh đàn hồi ngay sau khi KHX. Trong nghiên cứu của De Caffiniere [5], kết quả PHCN tốt và rất tốt là 85,8%, của Ehlinger [10] kết quả này là 83,2%. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật điều trị gãy đầu dưới xương chày bằng đinh Metaizeau dưới màn tăng sáng cho 48 BN, chúng tôi có kết luận sau: KHX bằng đinh Metaizeau hiệu quả đối với gãy đầu dưới xương chày với ưu điểm phục hồi tốt về giải phẫu, cố định ổ gãy vững chắc và bảo tồn tối đa hệ thống mạch nuôi dưỡng ổ gãy. Kết quả gần liền vết mổ kỳ đầu đạt 100%, kết quả liền xương đạt 100%. Kết quả phục hồi chức năng đạt rất tốt: 9,1%, tốt: 81,8% và trung bình: 9,1%; không có kết quả kém. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Wyrsch B, MM, McAndrew M, et al. Operative treatment of fractures of the tibial plafond. A randomized, prospective study. J Bone Joint Surg Am 1996; 78:1646-1675. 2. McCann PA, JM, Mitchell ST, et al. Complications of definitive open reduction and internal fixation of pilon fractures of the distal tibia. Orthop Rev 2011; 35:413-418. 3. Olerud S, KG. Tibial fractures treated by AO compression osteosynthesis. Experiences from a five year material. Acta Orthop Scand Suppl 1972; 140:1-104. 4. Whittle AP, WG. Fractures of the lower extremity. Campbells’s Operative Orthopaedics 2003:2757-2761. 5. de la Caffiniere JY, R Benzimra, N Chanzy. Treatment of distal metaphyseal fractures of the tibia with the interlocking flexible osteosynthesis system. Rev Chir Orthop Reparatrice Appar Mot 1999; 85(1):42-50. 6. R Johner W. Classification of tibial shaft fractures and correlation with results after rigid internal fixation. Clinical Orthopaedics and Related Research 1983; 178:7-25. 7. Olerud C, H Molander. A scoring scale for symptom evaluation after ankle fracture. Arch Orthop Trauma Surg 1984; 103(3):190-194. 8. Macnab I, WG De Haas. The role of periosteal blood supply in the healing of fractures of the tibia. Clin Orthop Relat Res 1974; 105:27-33. 9. Rhinelander FW. Tibial blood supply in relation to fracture healing. Clin Orthop Relat Res 1974; 105:34-81. 10. Ehlinger M, P Adam, A Gabrion, et al. Distal quarter leg fractures fixation: the intramedullary nailing alone option. Orthop Traumatol Surg Res 2010; 96(6):674-682.
File đính kèm:
- danh_gia_ket_qua_dieu_tri_gay_dau_duoi_xuong_chay_bang_dinh.pdf