Đánh giá chặng đường hội nhập thị trường tài chính Việt Nam - Những nút thắt cần tháo gỡ

Hội nhập tài chính là xu hướng đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu

và thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia. Từ sau khi mở cửa, Việt

Nam ngày càng tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế

nói chung và quá trình hội nhập tài chính nói riêng. Thị trường tài

chính Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Các cam kết trong

các hiệp định song phương, đa phương, khu vực được thực hiện theo

đúng lộ trình trên từng phân khúc thị trường gồm thị trường tiền

tệ-ngân hàng, thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm. Quá

trình hội nhập thị trường tài chính đã mang lại nhiều thay đổi tích

cực cho thị trường tài chính Việt Nam nhưng cũng đặt ra không ít các

vấn đề và thách thức. Để đánh giá quá trình hội nhập thị trường tài

chính Việt Nam, bài viết tập trung 3 phần: (1) Tổng quan khuôn khổ

chung về hội nhập thị trường tài chính mà Việt Nam tham gia; (2)

Tổng quan tiến trình thực hiện cam kết hội nhập tài chính của Việt

Nam, qua đó chỉ ra những thay đổi cơ bản của thị trường tài chính

Việt Nam; (3) Những nút thắt cần tháo gỡ trong bối cảnh hội nhập

của thị trường tài chính Việt Nam.

pdf 15 trang kimcuc 4220
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá chặng đường hội nhập thị trường tài chính Việt Nam - Những nút thắt cần tháo gỡ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá chặng đường hội nhập thị trường tài chính Việt Nam - Những nút thắt cần tháo gỡ

Đánh giá chặng đường hội nhập thị trường tài chính Việt Nam - Những nút thắt cần tháo gỡ
35
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 198- Tháng 11. 2018
Đánh giá chặng đường hội nhập thị trường tài 
chính Việt Nam- những nút thắt cần tháo gỡ
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ 
Trần Thị Xuân Anh
Trần Thị Thu Hương
Ngày nhận: 09/07/2018 Ngày nhận bản sửa: 12/11/2018 Ngày duyệt đăng: 12/11/2018
Hội nhập tài chính là xu hướng đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu 
và thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia. Từ sau khi mở cửa, Việt 
Nam ngày càng tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế 
nói chung và quá trình hội nhập tài chính nói riêng. Thị trường tài 
chính Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Các cam kết trong 
các hiệp định song phương, đa phương, khu vực được thực hiện theo 
đúng lộ trình trên từng phân khúc thị trường gồm thị trường tiền 
tệ-ngân hàng, thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm. Quá 
trình hội nhập thị trường tài chính đã mang lại nhiều thay đổi tích 
cực cho thị trường tài chính Việt Nam nhưng cũng đặt ra không ít các 
vấn đề và thách thức. Để đánh giá quá trình hội nhập thị trường tài 
chính Việt Nam, bài viết tập trung 3 phần: (1) Tổng quan khuôn khổ 
chung về hội nhập thị trường tài chính mà Việt Nam tham gia; (2) 
Tổng quan tiến trình thực hiện cam kết hội nhập tài chính của Việt 
Nam, qua đó chỉ ra những thay đổi cơ bản của thị trường tài chính 
Việt Nam; (3) Những nút thắt cần tháo gỡ trong bối cảnh hội nhập 
của thị trường tài chính Việt Nam.
Từ khoá: hội nhập thị trường tài chính, WTO, Asean, FTA
hiến lược về 
tổng thể hội 
nhập quốc 
tế đến năm 
2020, tầm 
nhìn đến 2030 đã được Thủ 
tướng Chính phủ phê duyệt tại 
Quyết định số 40/TTg ngày 
07/01/2016. Điều này cho thấy 
cùng với xu thế toàn cầu hoá, 
hội nhập kinh tế quốc tế của 
thế giới và khu vực, Việt Nam 
đã không ngừng chủ động thúc 
đẩy quá trình hội nhập kinh tế 
quốc tế nói chung và khu vực 
tài chính cũng như thị trường 
tài chính (TTTC) nói riêng, 
hướng tới tiếp thu những 
nguyên tắc và chuẩn mực 
quốc tế của nền kinh tế và thị 
trường toàn cầu, giúp gắn kết 
nền kinh tế, thị trường trong 
nước với thị trường khu vực và 
thế giới. Đánh giá tổng quan 
về hội nhập TTTC Việt Nam 
trong thời gian qua có thể nhìn 
nhận dưới các khía cạnh sau:
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
36 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 198- Tháng 11. 2018
1. Khuôn khổ chung hội 
nhập thị trường tài chính
Hội nhập TTTC Việt Nam 
không chỉ diễn ra trong phạm 
vi khu vực mà cả quốc tế 
thông qua việc thiết lập các 
mối quan hệ hợp tác song 
phương và tham gia vào các 
thể chế đa phương. Tuy nhiên, 
cũng giống như đặc thù của 
các nước đang phát triển, quá 
trình hội nhập TTTC Việt 
Nam diễn ra mạnh mẽ trong 
phạm vi khu vực, cụ thể là 
trong khuôn khổ các nước 
ASEAN, APEC, ASEM
(1) Trong khuôn khổ WTO
Ngày 01/11/2007, Việt Nam 
chính thức trở thành thành 
viên của WTO và bắt đầu 
quá trình hội nhập sâu rộng 
và toàn diện hơn vào nền 
kinh tế thế giới cũng như 
vào hệ thống thương mại đa 
phương thông qua việc thực 
thi các cam kết gia nhập và 
tuân thủ các quy định chung 
trong WTO. Việc mở cửa thị 
trường tài chính trong hội 
nhập WTO được thực hiện 
theo 3 phương thức: (1) Cung 
ứng qua biên giới; (2) Tiêu 
dùng ngoài lãnh thổ và (3) 
Hiện diện thương mại. Theo 
đó, các công ty bảo hiểm, 
chứng khoán và ngân hàng 
nước ngoài được mở văn 
phòng đại diện, liên doanh từ 
năm 2007. 
Về mở cửa thị trường dịch 
vụ, Việt Nam cam kết đủ 11 
ngành dịch vụ theo phân loại 
trong WTO, với khoảng 110 
phân ngành (Biểu cam kết 
gia nhập WTO của Việt Nam 
trong lĩnh vực thương mại 
dịch vụ). Các cam kết trong 
lĩnh vực dịch vụ tài chính 
được cụ thể hoá theo từng 
phân ngành như: bảo hiểm, 
ngân hàng, chứng khoán với 
hai trọng tâm chính là các 
dịch vụ được cung cấp, hình 
thức hiện diện thương mại của 
phía nước ngoài tại Việt Nam. 
(2) Trong khuôn khổ ASEAN
Tháng 7/1995 Việt Nam đã 
gia nhập Hiệp hội các quốc 
gia Đông Nam Á (ASEAN) 
và chính thức tham gia Khu 
vực thương mại tự do ASEAN 
(AFTA) từ 01/01/1996. Đây 
được coi là một bước đột 
phá về hành động trong tiến 
trình hội nhập kinh tế quốc 
tế của Việt Nam. Tiếp đó, năm 
2015 Việt Nam tham gia quá 
trình hình thành Cộng đồng 
Kinh tế ASEAN (AEC)- đây 
là cam kết hội nhập kinh tế 
khu vực sâu rộng nhất hiện 
nay trong lĩnh vực thị trường 
tài chính Việt Nam. Trong 
khuôn khổ hội nhập cộng 
đồng kinh tế ASEAN, tự 
do hóa thị trường tài chính 
trong AEC được chia thành 
các giai đoạn từ năm 2008 
đến năm 2020, trong đó giai 
đoạn 2008- 2015 được coi 
là giai đoạn tiền đề và quan 
trọng nhất, nhằm đảm bảo 
các nước thành viên có được 
sự chuẩn bị tốt nhất (Tài liệu 
về cộng đồng kinh tế Asean 
AEC). Theo lộ trình đã cam 
kết, Việt Nam và các nước 
trong khu vực sẽ phải mở cửa, 
xóa bỏ các hạn chế trong các 
ngành ngân hàng, bảo hiểm 
và các thị trường vốn nhằm 
hướng tới: tự do hóa dịch vụ 
tài chính, tự do hóa tài khoản 
vốn, phát triển và hội nhập 
các thị trường vốn và phát 
triển các hệ thống thanh quyết 
toán. 
Về dịch vụ tài chính: Tự do 
hóa dịch vụ tài chính liên 
quan đến việc gỡ bỏ dần 
những giới hạn đối với ngân 
hàng, công ty bảo hiểm và 
dịch vụ đầu tư tài chính. Theo 
AEC, tự do hóa về dịch vụ tài 
chính và dòng vốn phụ thuộc 
vào tình hình, sự sẵn sàng của 
từng thành viên và kéo dài 
đến năm 2020. Khi đó, dịch 
vụ tài chính sẽ được tự do 
hóa hoàn toàn trong các nước 
ASEAN, nghĩa là tự do hóa 
cả 4 phương thức bao gồm: 
Cung cấp dịch vụ qua biên 
giới (phương thức 1); tiêu 
dùng ngoài lãnh thổ (phương 
thức 2); hiện diện thương mại 
(phương thức 3); hiện diện 
thể nhân (phương thức 4) 
(Tài liệu về cộng đồng kinh tế 
Asean AEC).
Đối với tự do hóa tài khoản 
vốn: Do có sự khác biệt về 
trình độ phát triển giữa các 
nước ASEAN trong lĩnh vực 
tài chính, mức độ mở cửa tài 
khoản vốn cũng như những 
bất ổn mà nền kinh tế có thể 
gặp phải khi tự do hóa tài 
khoản vốn, AEC đã hướng 
dẫn tự do hóa tài khoản vốn 
cần tuân theo các nguyên tắc: 
(1) Đảm bảo quá trình tự do 
hóa tài khoản vốn một cách 
trình tự, thống nhất với lộ 
trình của từng quốc gia cũng 
như sự sẵn sàng của nền kinh 
tế; (2) cho phép sự bảo vệ đầy 
đủ trước các bất ổn kinh tế 
vĩ mô tiềm tàng và những rủi 
ro hệ thống có thể xuất hiện 
trong quá trình tự do hóa; (3) 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
37Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 198- Tháng 11. 2018
đảm bảo lợi ích từ tự do hóa 
tài khoản vốn được chia sẻ bởi 
tất cả các nước ASEAN. 
Đối với hội nhập và phát 
triển thị trường vốn: Chương 
trình chiến lược (Strategic 
Schedule) trong AEC, phần 
liên quan đến hội nhập và phát 
triển thị trường vốn, nhằm đạt 
được những tiến bộ đáng kể 
trong việc xây dựng một thị 
trường hội nhập khu vực, nơi 
mà trong đó: (1) Vốn có thể 
tự do luân chuyển; (2) các nhà 
phát hành có thể tự do huy 
động vốn ở bất cứ nơi đâu; và 
(3) các nhà đầu tư có thể đầu 
tư mọi nơi. Theo lộ trình, đến 
2015, các nước ASEAN sẽ tự 
do hóa dòng chảy của vốn đầu 
tư gián tiếp; tự do hóa dịch vụ 
môi giới và các sản phẩm tài 
chính; hài hòa hóa tiêu chuẩn 
thị trường vốn tại ASEAN đối 
với các lĩnh vực có quy định 
về chứng khoán nợ và yêu cầu 
minh bạch công bố thông tin 
(Tài liệu về cộng đồng kinh 
tế Asean AEC). Để xây dựng 
và phát triển thị trường vốn 
chung, các nền kinh tế AEC 
tập trung tự do hóa các dịch 
vụ tài chính, hài hòa hóa các 
tiêu chuẩn về thị trường vốn 
trong khu vực, công nhận lẫn 
nhau về bằng cấp, đào tạo và 
kinh nghiệm của các chuyên 
gia thị trường
Cam kết dịch vụ tài chính 
của Việt Nam trong ASEAN 
được xây dựng trên cơ sở nền 
cam kết chung của Việt Nam 
trong WTO và các Hiệp định 
thương mại tự do mà Việt 
Nam đã ký kết, trừ một số nội 
dung được cam kết ở mức cao 
và mở rộng hơn, với phạm vi 
rộng hơn, tiếp cận mở cửa thị 
trường đòi hỏi cao hơn. Ngoài 
ra, trong khuôn khổ ASEAN, 
Việt Nam cùng với các nước 
ASEAN đã ký kết Nghị định 
thư thực hiện Gói cam kết 
thứ 7 về dịch vụ tài chính 
ASEAN vào ngày 23/6/2016 
(Vũ Nhữ Thăng và Nguyễn 
Thị Thu Hiền, 2018). Ngày 
06/02/2017, Chính phủ Việt 
Nam đã ban hành Nghị quyết 
số 06/NQ-CP phê duyệt Nghị 
định thư, tạo một bước tiến 
quan trọng hướng tới mục tiêu 
tự do hóa dịch vụ tài chính mà 
Lãnh đạo các nước thành viên 
đã thông qua tại Tuyên bố 
chung Bali II.
Việt Nam tham gia vào kênh 
hợp tác thường niên Diễn đàn 
bảo hiểm ASEAN (AIRM). 
Khung khổ Hội nhập Bảo 
hiểm ASEAN hướng dẫn các 
bước tự do hóa trong hoạt 
động bảo hiểm, giúp nâng cao 
tính cạnh tranh của thị trường 
và mở rộng phạm vi lựa chọn 
cho người tiêu dùng, tăng 
cường khả năng thâm nhập thị 
trường của lĩnh vực bảo hiểm 
thảm họa tự nhiên sẽ giúp 
nâng cao năng lực phục hồi 
các nền kinh tế ASEAN
(3) Trong khuôn khổ ASEAN 
+3
Cơ chế hợp tác giữa ASEAN 
với ba đối tác Trung Quốc, 
Hàn Quốc và Nhật Bản hình 
thành từ năm 1997 và chính 
thức đi vào hoạt động từ năm 
1999, với mục tiêu dài hạn là 
xây dựng Cộng đồng Đông 
Á, trong đó ASEAN đóng vai 
trò trung tâm. Về thực chất, 
các cơ chế hợp tác thông qua 
các Hiệp định trong khu vực 
ASEAN+3 chủ yếu tiến tới 
chính thức hóa và thúc đẩy 
các quan hệ hợp tác kinh tế 
của các nước trong khu vực. 
Trong bối cảnh đó, ASEAN 
với vai trò trung tâm ký kết 
các Hiệp định thương mại 
tự do (FTA) với 3 nước đối 
tác Đông Á gồm FTA giữa 
ASEAN và Trung Quốc, FTA 
ASEAN- Hàn Quốc, Hiệp 
định Đối tác kinh tế toàn 
diện ASEAN- Nhật Bản. Các 
nước Đông Á cũng ký kết 
với nhau các hiệp định song 
phương nhằm mở ra một thị 
trường lớn và thúc đẩy quá 
trình hội nhập thương mại, 
đầu tư giữa các nước Đông Á. 
Trong lĩnh vực tài chính và 
tiền tệ, ASEAN+3 đạt được 
nhiều tiến triển ổn định và 
tập trung vào thực hiện Đa 
phương hóa Sáng kiến Chiềng 
Mai (CMIM) và Sáng kiến 
thị trường trái phiếu Châu Á 
(ABMI). 
Sáng kiến Phát triển thị 
trường trái phiếu châu Á 
(ABMI) được khởi xướng 
từ năm 2003 với mục tiêu 
hoạt động là thúc đẩy các thị 
trường trái phiếu trong nước 
phát triển và hướng tới một thị 
trường trái phiếu khu vực dễ 
tiếp cận hơn cho cả nhà phát 
hành và nhà đầu tư. Hiện Giai 
đoạn 8 của hỗ trợ kỹ thuật 
cho Việt Nam trong lĩnh vực 
trái phiếu đang được triển 
khai, bao gồm các nội dung 
tăng cường hoàn thiện khuôn 
khổ pháp lý về Quỹ hưu trí tự 
nguyện, thị trường trái phiếu 
phái sinh và nghiệp vụ mua lại 
trái phiếu...(Vũ Nhữ Thăng và 
Nguyễn Thị Thu Hiền, 2018)
Ngoài ra, với mục đích tăng 
cường hợp tác và hỗ trợ trong 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
38 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 198- Tháng 11. 2018
khu vực để ngăn chặn và 
đối phó với các cuộc khủng 
hoảng trong tương lai, tại 
Hội nghị Bộ trưởng tài chính 
ASEAN+3 diễn ra vào tháng 
5/2000 tại Chiềng Mai, các Bộ 
trưởng Tài chính ASEAN+3 
đã đưa ra “Sáng kiến Chiềng 
Mai” gồm hai nội dung chính:
Thứ nhất, mở rộng Thoả thuận 
Hoán đổi ASEAN (ASA) cho 
10 nước thành viên ASEAN 
tham gia. Thoả thuận đã 
được các nước ký vào tháng 
11/2000 và tổng trị giá của 
Thoả thuận là 1 tỷ USD, trong 
đó mức cam kết tham gia của 
Việt Nam là 60 triệu USD và 
mức vay tối đa của Việt Nam 
trong khuôn khổ Thoả thuận 
Hoán đổi ASEAN là 120 triệu 
USD.
Thứ hai, thiết lập một mạng 
lưới các Thoả thuận Hoán đổi 
Song phương (BSA) và Thoả 
thuận mua lại (Repo) giữa các 
nước ASEAN và ba nước đối 
tác Nhật Bản, Trung Quốc và 
Hàn Quốc. Mục đích của BSA 
là để cung cấp vốn ngắn hạn 
dưới hình thức hoán đổi tiền 
tệ cho các nước tham gia khi 
gặp phải khó khăn về cán cân 
thanh toán hoặc về khả năng 
thanh toán trong thời gian 
ngắn hạn.
Hệ thống trao đổi tiền tệ mà 
các nước ASEAN+3 đang áp 
dụng là hệ thống mang tính 
song phương giúp các nước 
đối phó với các hoạt động 
đầu cơ cũng như các nguy cơ 
đối với đồng tiền của từng 
nước. Tuy nhiên, trong bối 
cảnh hội nhập càng sâu rộng 
với những nguy cơ và thách 
thức mới, vào năm 2006, Đa 
phương hoá Sáng kiến Chiềng 
Mai (CMIM) đã được đề xuất 
nhằm hỗ trợ các nước gặp khó 
khăn về thanh khoản ngắn 
hạn, đặc biệt khi có khủng 
hoảng xảy ra, từng nước và 
cả khu vực sẽ cần một lượng 
vốn rất lớn kèm theo sự phối 
hợp chung về chính sách. 13 
nước đóng góp vào một thoả 
thuận hỗ trợ đa phương với 
tên gọi là Thoả thuận dự trữ 
tự quản. Theo đó các nước 
cam kết đóng góp từ nguồn dự 
trữ ngoại hối để sử dụng cho 
vay các nước thành viên gặp 
phải thiếu hụt thanh khoản 
tạm thời. 13 nước cũng lên kế 
hoạch phát triển mạng lưới hối 
đoái song phương thành một 
hệ thống đa phương, nhằm 
ngăn chặn tình trạng lan rộng 
ra cả khu vực của một cuộc 
khủng hoảng tài chính ở một 
nước trong tương lai. Hiện tại, 
Việt Nam đang tham gia Sáng 
kiến, tiến hành thử nghiệm 
vận hành CMIM với giả định 
xảy ra khủng hoảng và hoàn 
tất bộ chỉ số đánh giá kinh tế 
vĩ mô để phục vụ quá trình ra 
quyết định cho vay
(4) Trong khuôn khổ APEC
Ngày 15/11/1998, Việt Nam 
đã gia nhập Diễn đàn hợp tác 
kinh tế Châu Á- Thái Bình 
Dương (APEC) đặt nền móng 
cho sự hội nhập năng động và 
tích cực. Chiếm tới 59% GDP 
và 44% thương mại toàn thế 
giới, với 21 nền kinh tế thành 
viên nằm hai bên bờ Thái 
Bình Dương, trong đó có các 
nền kinh tế đầu tầu thế giới 
như Hoa Kỳ, Trung Quốc, 
Nhật Bản, APEC là một diễn 
đàn hợp tác lớn, tạo động lực 
cho phát triển trong khu vực 
và toàn cầu.
Với mục tiêu xây dựng một 
cộng đồng APEC hội nhập tài 
chính, minh bạch, bền vững và 
kết nối, Kế hoạch hành động 
Cebu đã được các Bộ trưởng 
Tài chính APEC thông qua 
năm 2015 nhằm định hướng 
dài hạn cho hợp tác tài chính 
APEC đến năm 2025 bao gồm 
bốn trụ cột: (i) Thúc đẩy hội 
nhập tài chính; (ii) thúc đẩy 
minh bạch tài khoá; (iii) cải 
thiện bền vững tài chính; (iv) 
tăng cường tài chính và phát 
triển cơ sở hạ tầng. 
Kế hoạch hành động Cebu 
là một kế hoạch quan trọng, 
bao trùm lên nhiều lĩnh vực 
hợp tác tài chính khu vực với 
định hướng hành động cụ thể 
hướng tới tự do hóa các dịch 
vụ tài chính và tự do hóa tài 
khoản vốn trong các nền kinh 
tế APEC. Cụ thể, sự ra đời của 
Chứng chỉ quản lý quỹ châu 
Á (ARFP) là một sáng kiến 
tự do hoá thương mại quan 
trọng nhằm giảm bớt các trở 
ngại đối với hoạt động quản lý 
Quỹ xuyên biên giới, qua đó 
cải thiện mối liên kết tài chính 
trong khu vực châu Á. Sáng 
kiến ARFP là một kết quả 
quan trọng của Tiến trình Bộ 
trưởng Tài chính APEC, là kết 
quả đóng góp của rất nhiều 
các nhà hoạch định chính sách 
tài chính, các nhà quản lý, các 
đại diện ngành công nghiệp 
và các chuyên gia kỹ thuật từ 
các nền kinh tế APEC. Theo 
đó, các nước tham gia vào 
thoả thuận này sẽ cho phép 
các công ty quản lý quỹ của 
các nước trong nhóm được 
cung cấp dịch vụ quản lý danh 
mục đầu tư trong thị trường 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
39Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 198- Tháng 11. 2018
nội địa của mình với điều kiện 
các công ty này đạt được các 
tiêu chuẩn theo quy định của 
ARFP... (chuyên trang điện tử 
Hội nghị Bộ trưởng Tài chính 
APEC năm 2017 ... ầu tư gián tiếp dồi 
dào tới từ các nhà đầu tư nước 
ngoài cũng làm tăng quy mô 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
46 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 198- Tháng 11. 2018
và thanh khoản của TTCK. 
Tuy nhiên, bên cạnh những 
mặt đạt được, một số nút thắt 
hiện nay trên TTCK đang gây 
ra những “điểm nghẽn” trong 
tiến trình hội nhập TTCK Việt 
Nam:
Một là, tỷ lệ tham gia của nhà 
đầu tư nước ngoài trên TTCK 
Việt Nam có xu hướng tăng 
mạnh, song so với các nước 
trong khu vực con số này 
vẫn còn khá khiêm tốn, gần 
như ở mức thấp nhất so với 
khu vực- chỉ ở mức hơn 10% 
trên thị trường trái phiếu và 
20% trên thị trường cổ phiếu. 
MSCI đã chỉ ra tiêu chí thâm 
nhập thị trường cho nhà đầu 
tư nước ngoài là trở ngại lớn 
nhất trong việc nâng hạng 
thị trường chứng khoán Việt 
Nam. Các rào cản như chuẩn 
kế toán, minh bạch hay thanh 
khoản còn tồn tại dù không 
quá khó để thay đổi (Fiachra, 
2018).
Hai là, quy mô giao dịch 
và mức thanh khoản của 
thị trường chưa cao mặc 
dù đã có mức tăng trưởng 
khá tốt trong thời gian qua. 
Theo kết quả xét duyệt nâng 
hạng thị trường mới được 
FTSE Russell công bố ngày 
26/9/2018, Việt Nam cùng 
với Argentina và Romania đã 
lọt vào watchlist để xét duyệt 
nâng hạng lên thị trường 
Mới nổi hạng 2 (Secondary 
Emerging). Trong 9 tiêu chí 
chấm điểm của FTSE, cả 3 thị 
trường Vietnam, Argentina 
và Romania cùng đạt 8 tiêu 
chí, khác biệt chủ yếu nằm ở 
tiêu chí Thanh khoản. Tổng 
giá trị vốn hóa TTCK Việt 
Nam đạt mức 188 tỷ USD 
trong khi Argentina đạt 53 tỷ 
USD, Romania chỉ đạt 22 tỷ 
USD. Thị trường Việt Nam 
được đánh giá Pass trong khi 
Argentina vẫn chưa đạt (Not 
Met) còn Romania vẫn còn 
hạn chế (Restricted). Đây có 
thể coi là một lợi thế lớn của 
Việt Nam so với hai thị trường 
còn lại nếu FTSE cần phải 
chọn lựa giữa các thị trường 
(Nguyễn Đức Hùng Linh, 
2018). Như vậy, bài toán đặt 
ra là Việt Nam cần phải duy 
trì và mở rộng hơn nữa quy 
mô giao dịch, với thêm nhiều 
lựa chọn cổ phiếu lớn, đặc 
biệt là gia tăng lượng cổ phiếu 
mà nhà đầu tư nước ngoài có 
thể mua. Theo thống kê, tính 
đến cuối 2017, chỉ có khoảng 
20 công ty đại chúng (CTĐC) 
xác định tỷ lệ “room” tối đa 
là 100%, phần lớn các CTĐC 
niêm yết trên TTCK vẫn chưa 
thực hiện xác định lại “room”; 
Tính đến tháng 9/2018, 8 
trong tổng số 30 công ty trong 
rổ VN30 và 9 trong tổng số 
16 ngân hàng niêm yết đã đầy 
room ngoại (Fiachra, 2018).
Ba là, TTCK Việt Nam và 
các thị trường trong khu vực 
vẫn có sự khác biệt, không chỉ 
đơn thuần là vấn đề kỹ thuật 
mà quan trọng nhất là sự kết 
nối đó phải đảm bảo cho nhà 
đầu tư có thể giao dịch tại 
chỗ thông qua hệ thống thanh 
toán bù trừ tại các TTCK khác 
nhau. Chương trình Liên kết 
giao dịch ASEAN cho phép 
các nhà đầu tư và thành viên 
liên kết có thể giao dịch xuyên 
biên giới trên nhiều TTCK 
Nguồn: Trích từ tham luận của Ketut Kusuma tại Vietnam Economic Forum, 2018
Biểu đồ 1. Sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường tài chính Việt Nam
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
47Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 198- Tháng 11. 2018
ASEAN khác nhau, với mục 
tiêu phát triển thị trường vốn 
khu vực Đông Nam Á. Tuy 
nhiên, việc xây dựng Chương 
trình này còn gặp phải một 
số khó khăn chính như khác 
biệt về khuôn khổ pháp lý trên 
TTCK tại các nước ASEAN; 
hệ thống giao dịch của một 
số nước thành viên còn thiếu 
sự hợp nhất trong nội bộ quốc 
gia. Chính vì vậy việc ứng 
dụng cộng nghệ vào lĩnh vực 
tài chính nói chung và chứng 
khoán nói riêng là biện pháp 
hết sức cần thiết để xử lý nút 
thắt này.
(3) Thị trường bảo hiểm
Tác động của hội nhập kinh 
tế đối với từng phân ngành 
bảo hiểm có sự khác biệt. 
Các doanh nghiệp tái bảo 
hiểm đối mặt với nhiều thách 
thức hơn từ hội nhập so với 
các DNBH gốc. Đặc biệt, số 
lượng các công ty bảo hiểm 
có vốn đầu tư nước ngoài tăng 
gần gấp đôi trong giai đoạn 
2007- 2015 (Lê Thị Thuỳ 
Vân, 2016). Hội nhập tài 
chính sâu rộng đã góp phần 
tăng quy mô của các DNBH 
nói riêng và thị trường bảo 
hiểm nói chung. Theo báo cáo 
số liệu từ Cục Quản lý bảo 
hiểm, 6 tháng đầu năm 2018, 
tổng doanh thu phí bảo hiểm 
toàn thị trường ước đạt 58.656 
tỷ đồng, tăng 24,35%, tổng 
tài sản các DNBH ước đạt 
33.6997 tỷ đồng, tăng 27,33%. 
Về sản phẩm bảo hiểm, tính 
đến cuối năm 2017, với gần 
1.200 sản phẩm bảo hiểm bán 
ra thị trường, trong đó có 837 
sản phẩm bảo hiểm phi nhân 
thọ, 352 sản phẩm bảo hiểm 
nhân thọ, các DNBH Việt 
Nam đã đáp ứng được hầu hết 
nhu cầu bảo hiểm của các tổ 
chức, cá nhân tại Việt Nam 
(Cục Quản lý, Giám sát bảo 
hiểm, 2018). Các sản phẩm 
bảo hiểm đều được thiết kế 
tương tự như các sản phẩm 
bảo hiểm tại các nước phát 
triển, với các điều kiện, điều 
khoản bảo hiểm được áp dụng 
theo các điều khoản, điều kiện 
chuẩn mà các nước khác đang 
sử dụng. Ví dụ, bảo hiểm tài 
sản áp dụng điều khoản chuẩn 
của Hiệp hội bảo hiểm Anh, 
bảo hiểm hàng hoá áp dụng 
bộ điều khoản chuẩn ICC, 
bảo hiểm tàu áp dụng bộ điều 
khoản ITC, bảo hiểm kỹ thuật 
áp dụng các điều khoản của 
Munich Re, Swiss Re. Các sản 
phẩm bảo hiểm nhân thọ đa 
dạng từ sản phẩm bảo hiểm 
bảo vệ tới các sản phẩm bảo 
hiểm có đủ yếu tố bảo vệ, yếu 
tố tiết kiệm, yếu tố đầu tư... 
với các điều kiện, điều khoản 
theo chuẩn quốc tế. 
Tuy nhiên, thực tiễn tham gia 
WTO cũng cho thấy nút thắt 
lớn nhất hiện nay đối với thị 
trường và các DNBH Việt 
Nam là quy mô thị trường 
còn nhỏ, chưa tương xứng với 
tiềm năng. Tỷ lệ doanh thu 
phí bảo hiểm hiện nay mới 
chỉ đạt mức 2,44% GDP, thấp 
hơn so với mức trung bình của 
khối ASEAN (3,35%), châu 
Á (5,37%) và thế giới (6,3%) 
(Cục Quản lý, Giám sát bảo 
hiểm, 2018). Thị trường tái 
bảo hiểm trong nước vẫn còn 
phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ 
trợ của doanh nghiệp tái bảo 
hiểm nước ngoài, các doanh 
nghiệp tái bảo hiểm sẽ chịu 
sự cạnh tranh mạnh hơn từ 
các doanh nghiệp tái bảo hiểm 
nước ngoài. Các DNBH lớn 
tại Việt Nam như Bảo Việt và 
Bảo Minh đều có chương trình 
tái bảo hiểm riêng nhưng vẫn 
nhượng đến 70% với DNBH 
nước ngoài để phòng ngừa 
rủi ro. Hệ thống giám sát vẫn 
thiếu đồng bộ và chưa xây 
dựng được cơ chế cảnh báo 
sớm. Do vậy, trong thời gian 
tới cần đa dạng và chuyên 
nghiệp hóa các kênh phân 
phối bảo hiểm, tăng cường 
chất lượng và tính chuyên 
nghiệp của đội ngũ đại lý bảo 
hiểm, đồng thời phát huy việc 
áp dụng công nghệ, kỹ thuật 
số vào việc giới thiệu và bán 
các sản phẩm bảo hiểm, tăng 
cường sự minh bạch và khả 
năng tiếp cận các sản phẩm 
bảo hiểm của khách hàng. 
Hoạt động quản lý giám sát 
chuyển dần mô hình sang 
quản lý giám sát dựa trên cơ 
sở rủi ro, đẩy mạnh cải cách 
thủ tục hành chính, chuyển 
các hoạt động quản lý, giám 
sát từ kiểm tra trước sang 
kiểm tra sau (hậu kiểm), tăng 
cường tính chủ động, trách 
nhiệm của doanh nghiệp trong 
hoạt động quản trị điều hành, 
sử dụng và quản lý nguồn 
vốn, phù hợp với quy mô, 
phạm vi và đặc thù kinh doanh 
của từng doanh nghiệp
4. Kết luận
Tham gia WTO đã mở ra cánh 
cửa hội nhập đầu tiên đối với 
lĩnh vực tài chính, ngân hàng 
và bảo hiểm. Tiếp đó việc 
tham gia khu vực ASEAN đã 
đánh dấu bước hội nhập sâu 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
48 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 198- Tháng 11. 2018
rộng của thị trường tài chính 
Việt Nam, tạo đà để Việt Nam 
tiếp tục tham gia hội nhập 
trong các khuôn khổ ASEM, 
APEC, và các FTA khác. Bên 
cạnh những mặt thành công, 
những vấn đề nội tại của thị 
trường đã tạo ra những nút 
thắt như quy mô và chất lượng 
tài sản của các định chế tài 
chính, cơ cấu nhà đầu tư, mức 
thanh khoản thị trường, khác 
biệt về khung pháp lý, quản 
trị rủi ro, giám sát,... cần được 
tháo gỡ nhằm phát huy hơn 
nữa ưu điểm của hội nhập 
tài chính mà Việt Nam đã và 
đang tham gia tích cực, chủ 
động. ■
Tài liệu tham khảo
1. ASEAN Financial Integration (2015), International Monetary Fund.
2. Asia business consulting. “Các hiệp định thương mại tự do của Việt Nam với các nước. Truy cập https://asiabizconsult.com/
vi/tin-tuc/143-cac-hi-p-d-nh-thuong-m-i-t-do-c-a-vi-t-nam-v-i-cac-nu-c
3. Báo cáo số 296/BC-CP của Chính phủ về kết quả quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ khi Việt Nam gia nhập WTO, trang 69.
4. Báo cáo thường niên của HOSE, HNX, VSD các năm 2011- 2017.
5. Bộ Công Thương (2013), “Báo cáo quốc gia phục vụ rà soát thương mại trong khuôn khổ WTO”, truy cập: 
vn/webcenter/portal/mvclcstc/r/chitiettimkiem?dDocName=MOFUCM092164&dID=42654&_afrLoop=47866588428138607.
6. Chuyên trang điện tử hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC năm 2017. 
page1612/ttapec_detail892?dDocName=MOFUCM113669&dID=75531&_afrLoop=51671543536517624#!%40%40%3FdID%
3D75531%26_afrLoop%3D51671543536517624%26dDocName%3DMOFUCM113669%26_adf.ctrl-state%3Du1s1vfpvp_83
7. Cục Quản lý Giám sát bảo hiểm- Bộ Tài chính (2018), Báo cáo thống kê tổ chức bảo hiểm truy cập: 
webcenter/portal/cqlgsbh/r/m/ngttbh?_afrLoop=47866671211936657#!%40%40%3F_afrLoop%3D47866671211936657%26cen
terWidth%3D100%2525%26leftWidth%3D0%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Df
alse%26_adf.ctrl-state%3Ddfuejte17_61 
8. CTCP Chứng khoán KIS Việt Nam (2016), Chuẩn bị cho cú bật mới- Triển vọng Việt Nam năm 2016.
9. Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” và Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu 
giai đoạn 2016-2020”.
10. Fiachra (2018), “Tái cấu trúc thị trường vốn và tài chính Việt Nam”, Hội thảo Vietnam Economic Forum 2018.
11. Nguyễn Đức Hùng Linh (2018), Đánh giá việc Việt nam được vào Watchlist theo kết quả phân loại thị trường FTSE Russell 
9/2018, SSI, truy cập:  
12. Lê Thị Kim Nhung và Lê Nam Long (2016), Cơ hội và thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai 
đoạn hội nhập sâu vào AEC và TPP,Tạp chí Ngân hàng, số 11/2016.
13. Lê Thị Thuỳ Vân (2016), Thị trường tài chính Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế: Những tác động tích cực và một số 
hạn chế, Viện Chiến lược và chính sách tài chính, 
14. Lê Thị Thùy Vân và nhóm nghiên cứu (2015), Đánh giá tác động của các hiệp định thương mại tự do,Tạp chí Kinh tế Tài 
chính Việt Nam, số 2, tháng 10/2015.
15. Lưu Đức Huy (2014), “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu khi gia nhập WTO”, 
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
16. Nghị định 42/2015/NĐ-CP ngày 05/5/2015 về chứng khoán phái sinh và TTCK phái sinh.
17. Nghị định 60/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của Chính phủ 
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng 
khoán.
18. Nghị quyết 15/NQ-CP của Chính phủ ngày 06/3/2014 về một số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại DN.
19. Nguyễn Viết Lợi (2016), Tác động của các hiệp định thương mại tự do đến một số lĩnh vực kinh tế - tài chính của Việt Nam, 
Đặc san Đối ngoại của Bộ Tài chính.
20. Phùng Ngọc Khánh (2018), Phát triển bền vững thị trường bảo hiểm Việt Nam. Tạp chí tài chính, truy cập http://
tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/su-kien-tai-chinh/phat-trien-ben-vung-thi-truong-bao-hiem-viet-nam-132144.html 
21. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2018), Danh sách ngân hàng 100% vốn nước ngoài, truy cập ngày 24/9/2018 
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/fm/htctctd/nh/nhtm/nhvnn?dDocName=SBV333204&_
afrLoop=1452546524750406#%40%3F_afrLoop%3D1452546524750406%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName%3DSB
V333204%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.
ctrl-state%3Dddaxwfmrk_332
22. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2018), Danh sách các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, truy cập 
ngày 24/9/2018, https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/fm/htctctd/cnnhnn?dDocName=SBV333211&_
afrLoop=1452688298619406#%40%3F_afrLoop%3D1452688298619406%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName%3DSB
V333211%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.
ctrl-state%3Dddaxwfmrk_406 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
49Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 198- Tháng 11. 2018
23. Tài liệu hội thảo “Đánh giá mức độ sẵn sàng của Việt Nam về các khía cạnh kinh tế - xã hội trước thềm cộng đồng kinh tế 
ASEAN2015”, tháng 12/2014- Mutrap và CIEM.
24. Tài liệu hội thảo “Tham gia vào cộng đồng kinh tế ASEAN: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam”, tháng 10/2013- 
Trường Đại học kinh tế- Đại học Quốc gia Hà Nội.
25. Văn phòng ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế- Bộ công thương. Tài liệu về cộng đồng kinh tế Asean (AEC). 
26. Tổ chức thương mại thế giới Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ (2006)
27. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Báo cáo thường niên năm 2012- 2017.
28. Uỷ Ban Giám Sát tài chính Quốc gia (2017), Báo cáo Tổng quan Thị trường tài chính 2017, truy cập 
sites/default/files/bao_cao_tong_quan_thi_truong_tai_chinh_2017.pdf 
29. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2015), “Kết quả quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ khi Việt Nam là thành viên WTO”;. http://
www.mof.gov.vn.
30. Ủy ban Thường vụ Quốc Hội (2015), Kết quả quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ khi Việt Nam là thành viên Tổ chức 
Thương mại Thế giới (WTO).
31. Viện Chiến lược và chính sách tài chính (2015), Sách Tài chính Việt Nam năm 2014- 2015, NXB Tài chính.
32. Vũ Chi Long và Trần Thị Thu Huyền (2016), “Đánh giá 10 năm hội nhập tài chính trong khuôn khổ WTO và những vấn đề 
đặt ra trong thời gian tới”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tài chính.
33. Vũ Nhữ Thăng và Nguyễn Thị Thu Hiền (2018), “ Thị trường tài chính Việt Nam: Thêm nhiều dư địa cho hợp tác quốc tế. Tạp 
chí tài chính, truy cập 
tac-quoc-te-132071.html
Thông tin tác giả
Trần Thị Xuân Anh, Tiến sĩ
Email: anhttx@hvnh.edu.vn
Trần Thị Thu Hương, Thạc sĩ
Email: tranhuong@hvnh.edu.vn
Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng
Summary
Assessment of the Vietnamese financial market integration process- Key problems and challenges 
Financial integration is a growing trend in the world and attracts the attention of many nations. Since the openness 
of the economy, Viet Nam has been active in the process of international integration in general and financial 
integration in particular. Vietnamese financial market is not out of this trend. Commitments in bilateral, multilateral 
and regional agreements are carried out in accordance with the roadmap in each market segment, including the 
money market and bank, stock market and insurance market. The process of financial market integration has 
brought many positive changes to Vietnamese financial market but also posed many problems and challenges. 
This paper assesses the integration process of Vietnamese financial market based on the general framework for 
financial integration that Vietnam has participated in and points out some fundamental changes in Vietnamese 
financial markets as well as key problems and challenges. 
Keywords: financial market integration, WTO, Asean, FTA. 
Anh Thi Xuan Tran, PhD 
Huong Thi Thu Tran, M.Fin
Organization of all: Finance Faculty, Banking Academy of Vietnam

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_chang_duong_hoi_nhap_thi_truong_tai_chinh_viet_nam.pdf