Đảm bảo an ninh môi trường ở Việt Nam: Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết
Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, vấn đề đảm bảo an ninh môi trường đã
trở thành vấn đề toàn cầu, cần có sự hợp tác, chia sẻ giữa các quốc gia. Các thách thức an ninh môi trường
không chỉ đe dọa an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh lương thực, mà còn là một trong những nguy
cơ lớn đe dọa an ninh quốc gia và sự tồn vong của nhân loại. Có thể thấy, chưa bao giờ vấn đề môi trường
lại được đặt ra cấp bách đối với Việt Nam như hiện nay. Sự khan hiếm tài nguyên, ô nhiễm, suy thoái môi
trường ngày càng gia tăng có thể gây suy yếu nền kinh tế, làm trầm trọng thêm vấn đề đói nghèo, làm bất
ổn chính trị, thậm chí trở thành ngòi nổ cho các cuộc xung đột. Nhiều học giả trong nước và trên thế giới
đều thống nhất quan điểm về mối quan hệ giữa an ninh quốc gia và an ninh môi trường có tính hữu cơ, chặt
chẽ, bởi vì về thực chất, an ninh môi trường là một thành tố thuộc an ninh phi truyền thống, một bộ phận
cấu thành an ninh quốc gia. Vì vậy, đảm bảo an ninh môi trường chính là một phần quan trọng nhằm đảm
bảo an ninh quốc gia trong thời đại mới.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đảm bảo an ninh môi trường ở Việt Nam: Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết
ĐẢM BẢO AN NINH MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM: VẤN ĐỀ CẤP THIẾT CẦN PHẢI GIẢI QUYẾT Tạ Đình Thi, Phan Thị Kim Oanh, Tạ Văn Trung, Bùi Đức Hiếu Bộ Tài nguyên và Môi trường Ngày nhận bài 18/5/2017; ngày chuyển phản biện 20/5/2017; ngày chấp nhận đăng 16/6/2017 Tóm tắt: Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, vấn đề đảm bảo an ninh môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu, cần có sự hợp tác, chia sẻ giữa các quốc gia. Các thách thức an ninh môi trường không chỉ đe dọa an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh lương thực, mà còn là một trong những nguy cơ lớn đe dọa an ninh quốc gia và sự tồn vong của nhân loại. Có thể thấy, chưa bao giờ vấn đề môi trường lại được đặt ra cấp bách đối với Việt Nam như hiện nay. Sự khan hiếm tài nguyên, ô nhiễm, suy thoái môi trường ngày càng gia tăng có thể gây suy yếu nền kinh tế, làm trầm trọng thêm vấn đề đói nghèo, làm bất ổn chính trị, thậm chí trở thành ngòi nổ cho các cuộc xung đột. Nhiều học giả trong nước và trên thế giới đều thống nhất quan điểm về mối quan hệ giữa an ninh quốc gia và an ninh môi trường có tính hữu cơ, chặt chẽ, bởi vì về thực chất, an ninh môi trường là một thành tố thuộc an ninh phi truyền thống, một bộ phận cấu thành an ninh quốc gia. Vì vậy, đảm bảo an ninh môi trường chính là một phần quan trọng nhằm đảm bảo an ninh quốc gia trong thời đại mới. Từ khóa: An ninh môi trường, an ninh quốc gia, biến đổi khí hậu, bảo vệ nguồn nước, ô nhiễm môi trường, đa dạng sinh học. 1. An ninh môi trường nhìn từ góc độ an ninh nước, khủng bố, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia quốc gia, tội phạm công nghệ cao, Các thách An ninh quốc gia (ANQG) là khái niệm mang thức ANPTT vẫn có thể khiến một quốc gia, thể tính chính trị - pháp lý, thể hiện bản chất chế chế xã hội sụp đổ mà không cần bất kỳ một hoạt độ xã hội của một quốc gia. Ở Việt Nam, Luật động quân sự nào. ANQG năm 2004 [12] đã xác định “ANQG là sự Một trong những vấn đề ANPTT nổi cộm hiện ổn định, phát triển bền vững của chế độ Xã hội nay và được nhiều học giả trên thế giới quan tâm nghiên cứu là vấn đề an ninh môi trường chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ (ANMT). Năm 1972, vấn đề ANMT lần đầu tiên nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, được đưa vào chương trình nghị sự quốc tế tại chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Con Tổ quốc”. Nội dung cơ bản của ANQG là bảo vệ người ở Stockholm (Thụy Điển). Vào năm 1977, lợi ích quốc gia và loại bỏ các mối đe dọa tới Cục Tình báo Liên bang Mỹ (CIA) đã thiết lập một lợi ích đó. ANQG bao hàm an ninh truyền thống Trung tâm Môi trường đầu tiên trên thế giới để (ANTT) và an ninh phi truyền thống (ANPTT). đánh giá mối liên hệ giữa môi trường và an ninh. Tùy thuộc vào bối cảnh, thời điểm khác nhau Ủy ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển đã mà những thách thức ANTT hoặc ANPTT nổi lên kêu gọi mọi người cần hiểu an ninh một phần đe dọa tới ANQG. Trong bối cảnh hiện nay, do cũng là chức năng của phát triển bền vững. Đến mặt trái của sự phát triển cùng với xu thế toàn đầu thập niên 1980, các học giả phương Tây lần cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, vấn đề ANQG không đầu tiên đưa ra khái niệm ANMT và đặc biệt coi chỉ giới hạn trong việc ngăn chặn, ứng phó với trọng vấn đề ANMT trong chiến lược ANQG. Đại các nguy cơ chiến tranh mà còn bao hàm nhiều hội đồng Liên Hợp Quốc lần đầu tiên đã đề cập vấn đề ANPTT như biến đổi khí hậu (BĐKH), ô tới khái niệm ANMT vào năm 1987 trong một nhiễm, suy thoái môi trường, cạn kiệt nguồn văn bản chính thức, theo đó “Sự biến đổi tiêu TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 7 Số 2 - Tháng 6/2017 cực của môi trường đang tạo thành các uy hiếp mạc hóa đất đai; hệ thực vật rừng bị phá hoại; đối với sự phát triển, trở thành căn nguyên đa dạng sinh học suy giảm và vấn đề mưa a-xít. của các căng thẳng và tiêu cực xã hội ảnh hưởng Cùng xu thế đó, hiện nay, Việt Nam cũng đang đến cả nhân loại như đói nghèo, mù chữ, dịch đứng trước nhiều mối đe dọa về ANMT cấp bệnh,” [8]. bách cần phải giải quyết, như: BĐKH; an ninh Khái niệm về ANMT được Chính phủ Mỹ và nguồn nước, an ninh môi trường biển bị đe dọa; một số quốc gia phương Tây chính thức công ô nhiễm tại các khu vực trọng điểm và ô nhiễm nhận vào gần giữa thập niên 1990. Vấn đề ANMT xuyên biên giới chưa thể kiểm soát; suy giảm tài có thể gây ảnh hưởng lâu dài tới lợi ích quốc nguyên rừng và đa dạng sinh học,... Có thể thấy, gia, đe dọa trực tiếp sức khỏe, sự thịnh vượng, chưa bao giờ các vấn đề môi trường lại được đặt việc làm, sự ổn định chính trị, kinh tế và mục ra cấp bách đối với toàn nhân loại như hiện nay. tiêu chiến lược của Mỹ được đề cập trong Chiến Trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước ta lược ANQG năm 1994 [17]. Năm 1996, các nước đã khẳng định: “Bảo vệ môi trường là một trong châu Âu cũng chính thức đặt vấn đề môi trường những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố trở thành một lĩnh vực thuộc phạm vi ANQG. bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của Đến nay, các nước Mỹ, Nga, Nhật Bản, Anh, nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát Canada, EU và nhiều nước khác đã ban hành triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh Chiến lược ANMT. Theo Hội đồng Bảo an Liên quốc phòng và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc Hợp Quốc (năm 1992), ANMT là “Sự khan hiếm tế của nước ta” [6]. Vấn đề bảo vệ môi trường, các tài nguyên thiên nhiên, suy thoái và ô nhiễm ứng phó với BĐKH là một nội dung quan trọng môi trường và những hiểm họa có thể gây suy được đưa vào Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc yếu nền kinh tế, gia tăng đói nghèo, gia tăng bất lần thứ XII, trong đó nhấn mạnh: “Tăng cường ổn chính trị, thậm chí trở thành ngòi nổ cho các công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, cuộc xung đột và chiến tranh”. Đây là một định chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ nghĩa khá toàn diện, phản ánh được bản chất phát triển bền vững theo hướng bảo đảm tính của vấn đề ANMT [9]. Mặc dù còn nhiều vấn đề tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm phải tranh cãi, nhưng hiện nay các học giả đã vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài thừa nhận các yếu tố môi trường đóng cả vai trò là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với trực tiếp và gián tiếp trong tranh chấp chính trị từng giai đoạn” và yêu cầu phải “sẵn sàng ứng và xung đột bạo lực. phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và Hiện nay, nhiều học giả trong nước và trên phi truyền thống” [7]. thế giới đều thống nhất quan điểm về quan hệ Thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước đã có ANQG và ANMT có tính chất hữu cơ, chặt chẽ, nhiều chủ trương, biện pháp về tài nguyên và bởi vì về thực chất, ANMT là một thành tố thuộc môi trường, cụ thể như Nghị quyết số 24/NQ-TW ANPTT, một bộ phận cấu thành ANQG, bên cạnh ngày 3/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh văn Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi hóa,... Tùy bối cảnh của từng nước và tùy từng khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo giai đoạn phát triển của lịch sử, vị trí và vai trò vệ môi trường; Chiến lược bảo vệ môi trường của ANMT trong ANQG có thay đổi. Nhưng nhìn quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm chung, trên thế giới và Việt Nam, vị trí và vai trò 2030; Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam ANMT đang ngày càng đóng vai trò quan trọng. giai đoạn 2011-2020; Chiến lược quốc gia về Các nghiên cứu đã khá thống nhất trong việc biến đổi khí hậu; Luật Bảo vệ môi trường 2014; xác định các vấn đề ANMT chủ yếu mà thế giới Luật Tài nguyên nước 2012; Luật Phòng chống đang phải đối mặt, bao gồm: Tác động của BĐKH thiên tai 2013; Luật Đa dạng sinh học 2008, toàn cầu, trong đó nhấn mạnh tới hiệu ứng nhà Đến nay, Việt Nam đã ký kết tham gia 23 công kính gây ấm lên toàn cầu; nguy cơ nguồn nước ước quốc tế về môi trường. Việt Nam đã cùng và sự hủy hoại các nguồn tài nguyên biển; sự 148 quốc gia khác trên thế giới phê chuẩn việc phá hủy và tổn hại của tầng ô-zôn; hiện tượng sa thực hiện Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu. 8 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Số 2 - Tháng 6/2017 Việt Nam cũng đang tích cực hợp tác với các với tốc độ tăng trên 5,6 mm/năm, khu vực ven quốc gia, các tổ chức trên thế giới và xác định biển vịnh Bắc Bộ có mức tăng thấp hơn, khoảng hợp tác quốc tế là cần thiết để đối phó với các 2,5 mm/năm. Theo kịch bản trung bình cao, đến thách thức ANPTT, đặc biệt là vấn đề biến đổi năm 2050, mực nước biển dâng là 25 cm; năm khí hậu, ô nhiễm môi trường và chia sẻ nguồn 2100 là 73 cm. Dự báo, nếu mực nước biển dâng nước xuyên biên giới. Trong Sách trắng quốc 1 m và không có các giải pháp ứng phó, khoảng phòng Việt Nam năm 2004 khẳng định suy thoái 16,8% diện tích đồng bằng sông Hồng, 1,5% diện môi trường cũng là một trong các mối quan tâm tích các tỉnh ven biển miền Trung, 17,8% diện hàng đầu về an ninh của Việt Nam. Việt Nam tích Thành phố Hồ Chí Minh, 38,9% diện tích đã đưa khái niệm ANMT vào Luật Bảo vệ môi đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có nguy cơ trường 2014, theo đó “An ninh môi trường là ngập chìm trong nước. Trong đó, các tỉnh ĐBSCL việc bảo đảm không có tác động lớn của môi không chỉ là vựa lúa của Việt Nam mà của cả thế trường đến sự ổn định chính trị, xã hội và phát giới, nếu mực nước biển dâng cao ở bất cứ mức triển kinh tế của quốc gia”. độ nào đều sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của Như vậy, có thể thấy vấn đề ANMT đã được hàng chục triệu người dân. thế giới cũng như Việt Nam hết sức quan tâm Nước biển dâng sẽ làm mất đất canh tác và đã thể chế bước đầu trong các chính sách, trong nông nghiệp, tác động trực tiếp tới an pháp luật. ninh lương thực, an ninh kinh tế, an ninh nguồn 2. Thực trạng an ninh môi trường hiện nay ở nước, gia tăng tình trạng đói nghèo, mất việc Việt Nam làm và di cư. BĐKH đã, đang và sẽ dẫn tới tình trạng mất chỗ ở và di cư ở một số khu vực bị ảnh 2.1. Tác động của biến đổi khí hậu hưởng nặng nề. Khi tài nguyên đất bị thu hẹp do BĐKH đã gây ra các biến động không có lợi nước biển dâng, các thảm họa tự nhiên như lốc về môi trường, gây khủng hoảng sinh thái, từ đó xoáy, lũ lụt, hạn hán tiếp tục diễn ra với cường đe dọa tới ANQG. Có thể thấy, một trong những độ cao, số lượng người mất chỗ ở tăng lên, các vấn đề quan trọng hàng đầu của ANMT hiện dạng sinh kế phụ thuộc vào hệ sinh thái mất đi,... nay là BĐKH. Theo đánh giá của các tổ chức thế sẽ dẫn tới tình trạng di cư vĩnh viễn hoặc tạm giới, Việt Nam là một trong các quốc gia phải thời. Nguy cơ này đặc biệt nghiêm trọng đối với chịu nhiều ảnh hưởng của các kiểu thời tiết khắc lĩnh vực nông nghiệp, tác động mạnh mẽ nhất nghiệt và thường xuyên phải chịu ảnh hưởng tới các nhóm nghèo nhất, nhóm người yếu thế. của bão và áp thấp nhiệt đới. BĐKH thực sự đã làm cho thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán 2.2. An ninh nguồn nước ngày càng khốc liệt. Theo tài liệu “Chỉ số rủi ro An ninh nguồn nước (ANNN) gặp nhiều thách khí hậu toàn cầu 2016” [16], Việt Nam là quốc thức lớn và ngày càng trở nên cấp bách, gay gắt. gia xếp thứ bảy về rủi ro khí hậu dài hạn trên thế Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia [1], giới. Bình quân mỗi năm Việt Nam bị ảnh hưởng Việt Nam có hơn 2.360 con sông có chiều dài từ trực tiếp bởi 6-7 cơn bão. Trong giai đoạn 1990- 10 km trở lên, trong đó có 109 sông chính. Tổng 2010, Việt Nam đã phải trải qua 74 trận lũ lụt. lượng nước mặt trên lãnh thổ Việt Nam khoảng Giai đoạn 2011-2015, thiên tai đã làm cho 1.141 830-840 tỷ m3. Phần lớn nguồn nước phụ thuộc người chết và mất tích, gây thiệt hại về tài sản vào nước ngoài là thách thức lớn nhất đối với ước tính khoảng 55.400 tỷ đồng. ANNN ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Kịch bản BĐKH được cập nhật, xuất bản năm Theo thống kê, tổng diện tích các lưu vực 2016 [3] cho thấy nhiệt độ trung bình năm trên sông trên cả nước lên đến trên 1.167.000 km2, phạm vi toàn quốc tăng khoảng 0,62°C trong trong đó phần lưu vực nằm ngoài diện tích thời kỳ 1958-2014 và tăng dần theo thời gian. lãnh thổ chiếm đến 72%. Lượng nước mặt nội Mực nước biển dâng trung bình cả nước giai sinh chỉ có 310-315 tỷ m3 (chiếm 37%), còn đoạn 1993-2014 là 3,34 mm/năm, trong đó ở 520-525 tỷ m3 (chiếm 63%) là từ các nước láng khu vực ven biển Nam Trung Bộ tăng mạnh nhất giềng chảy vào Việt Nam như Trung Quốc, Thái TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 9 Số 2 - Tháng 6/2017 Lan, Lào, Myanmar và Campuchia. Nguồn nước đưa vào gần hết sử dụng cho thủy điện, gây hệ ngoại lai ở lưu vực sông Hồng chiếm 50%, còn ở lụy lớn cho các vùng ở hạ lưu. Thời gian qua có lưu vực sông Mê Kông chiếm đến 90% tổng khối nhiều vụ tranh chấp nguồn nước giữa các địa lượng nước bề mặt [1]. ANNN phụ thuộc rất lớn phương, giữa các đơn vị trong cùng địa phương, vào khai thác và sử dụng để phát triển kinh tế giữa các địa phương và nhà máy thủy điện, - xã hội trên các con sông lớn của các quốc gia, Điển hình như việc tranh chấp nguồn nước giữa nhất là trên các lưu vực. Mặc dù có khá nhiều Đà Nẵng và Quảng Nam, hay dự án lấp sông các cơ chế hợp tác song phương, đa phương về Đồng Nai để cải tạo cảnh quan và phát triển phát triển bền vững nguồn nước nhưng thực tế đô thị, việc xả lũ của nhà máy thủy điện Hố Hô vẫn đang đặt ra nhiều sức ép cho Việt Nam, một (Quảng Bình), thủy điện Bắc Hà (Lào Cai) và thủy quốc gia ở hạ nguồn có ít lợi thế hơn trong các điện Hương Điền (Thừa Thiên - Huế), đều có đàm phán về sử dụng nguồn nước quốc tế. tác động xấu đối với các địa phương ở hạ du và Ở lưu vực sông Mê Kông, các đập thủy điện đã khu vực lân cận. Ngoài ra, hiện nay do tác động và sẽ xây dựng ở Trung Quốc, Lào, Campuchia sẽ của BĐKH và nước biển dâng, ANNN ở Việt Nam là mối đe dọa làm giảm sút nguồn nước, nguồn đang bị đe dọa ngày càng lớn [4]. cá, phù sa, hệ sinh thái,... đối với Việt Nam. Đây 2.3. An ninh môi trường biển là dấu hiệu đáng lo ngại đối với 20 triệu người dân ở ĐBSCL, không chỉ đất đai trồng trọt và Ô nhiễm đại dương và biển đang ngày càng rừng bị mất đi, người dân cũng có thể phải di cư. trầm trọng, là vấn đề mà Việt Nam và nhiều Mặt khác, mực nước sông Mê Kông ngày càng quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt. Việt thấp, năm 2015 thấp mức kỷ lục trong vòng 90 Nam có lợi thế bờ biển dài hơn 3.260 km, với tài năm qua, là một trong những nguyên nhân chính nguyên biển phong phú. Tuy nhiên, do sự chia gây ra tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn đặc sẻ về tài nguyên biển với nhiều nước trong khu biệt nghiêm trọng ở ĐBSCL. Bên cạnh đó, nguồn vực, Việt Nam cũng phải đối mặt với không chỉ nước sông Hồng từ biên giới phía Trung Quốc các vấn đề về ANMT mà còn cả vấn đề về chủ đổ về hạ lưu ngày càng bị ô nhiễm, nhưng các quyền lãnh thổ. Hội thảo về An ninh môi trường biện pháp xử lý môi trường xuyên biên giới vẫn trên Biển Đông diễn ra tại Mỹ vào tháng 6/2016 còn nhiều hạn chế. Ở thượng lưu, Trung Quốc vừa qua cũng đề cập tới các giải pháp nhằm gìn đã cho vận hành hàng chục nhà máy thủy điện, giữ môi trường và nguồn tài nguyên tại khu vực 1.870 đập dẫn và kênh dẫn nước, 9 hồ chứa có quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Theo các tài tổng dung tích 200 triệu m3, nên đã làm thay liệu hội thảo, 80% các rạn san hô ở Biển Đông đổi lớn đến lượng nước, chế độ dòng chảy, chấ ... u vực nội đô giai đoạn vừa xác suất rủi ro. Các sự cố từ hạt nhân rất nguy qua đạt khoảng 84-85%; khu vực nông thôn đạt hiểm, thường phát tán phóng xạ trong phạm vi khoảng 40-55%; vùng sâu, vùng xa chỉ đạt khoảng rộng lớn, gây ra nhiều hậu quả đặc biệt nghiêm 10%. Tổng lượng chất thải nguy hại phát sinh trên trọng về người và tài sản, Vì vậy, Việt Nam cần toàn quốc hiện nay khoảng 800.000 tấn/năm. chủ động có các phương án ứng phó, tăng cường Tuy nhiên, hiện nay lượng chất thải nguy hại phát quan trắc, cảnh báo kịp thời tới người dân vùng sinh trong sản xuất công nghiệp được thu gom, ảnh hưởng và đưa ra giải pháp kịp thời khi xảy xử lý mới chỉ đạt con số 40%, chất thải nguy hại ra sự cố, đồng thời có cơ chế trao đổi thường do y tế đạt 80%, gây nguy cơ tiềm ẩn đối với môi xuyên với Trung Quốc. trường ở nước ta. Việt Nam hiện nay còn đang phải đối diện với Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc nguy cơ trở thành "bãi rác công nghiệp của thế TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 11 Số 2 - Tháng 6/2017 giới". Nhiều vấn đề mới phát sinh trong việc kiểm tăng với tốc độ nhỏ hơn tốc độ khai thác. Diện soát nhập khẩu phế liệu đã dẫn đến tình trạng tích rừng bị cháy và bị chặt phá gây sức ép không doanh nghiệp không chỉ nhập khẩu phế liệu mà nhỏ đối với phát triển lâm nghiệp cũng như đối còn nhập cả rác thải là phế liệu kim loại, nhựa, với môi trường tự nhiên của nước ta khi hệ sinh săm lốp cao su thải, vỏ ô tô, tàu biển chưa làm thái rừng đóng vai trò quan trọng trong hấp thụ sạch tạp chất, ắc quy chì thải, sản phẩm điện tử và lưu giữ CO2 trong tự nhiên. đã qua sử dụng vào nước ta, gây tác động không Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển nhỏ tới kinh tế, đặc biệt là vấn đề môi trường, kinh tế - xã hội vùng ven bờ, diện tích rừng ngập sức khỏe của cộng đồng. Theo thống kê của Tổng mặn trong cả nước đã bị giảm sút nghiêm trọng. cục Hải quan, năm 2011 phát hiện 17 vụ với khối Trong hơn năm thập kỷ qua, Việt Nam đã mất đi lượng chất thải nguy hại thu giữ là 573 tấn, năm 67% diện tích rừng ngập mặn so với năm 1943. 2012 có 30 vụ với khối lượng thu giữ 3.868 tấn. Theo thống kê, tính đến năm 2012, 56% tổng Bên cạnh đó, tình trạng nhập nông sản có chứa diện tích rừng ngập mặn trên toàn quốc là rừng các hóa chất bảo quản độc hại, gây hại cho sức mới trồng, thuần loại, chất lượng rừng kém cả khỏe cộng đồng có xu hướng gia tăng và chưa về kích cỡ, chiều cao cây và đa dạng thành phần được ngăn chặn [18]. loài. Rừng ngập mặn nguyên sinh còn rất ít, đồng Nghiên cứu của Viện Khoa học Khí tượng nghĩa với tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái Thủy văn và Biến đổi Khí hậu [13] tại 9 tỉnh, suy giảm, đặc biệt các loài thủy sinh không còn thành phố ở miền Bắc là Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào bãi đẻ và nơi cư ngụ. Cai, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Kạn, Yên Bái, Hà Sự suy giảm đa dạng loài ở nước ta, cũng Giang và Hà Nội cho thấy môi trường không khí giống như trên thế giới, ngày càng một gia tăng. ở Việt Nam đang chịu ảnh hưởng từ các nguồn Theo Sách đỏ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên ô nhiễm xuyên biên giới từ vùng phía Đông và quốc tế (IUCN), nếu như năm 1996 mới chỉ có Đông Nam Trung Quốc, đặc biệt là vào các tháng 25 loài động vật của Việt Nam ở mức nguy cấp mùa đông. Do chịu ảnh hưởng của gió mùa thì đến năm 2014, con số này đã lên tới 188. Suy Đông Bắc, ô nhiễm không khí từ Trung Quốc ảnh giảm đa dạng sinh học, sự du nhập của các sinh hưởng đến Việt Nam có thể tới 55% đối với SO2, vật ngoại lai xâm hại và sinh vật biến đổi gen 48% đối với NO2 và 30% đối với CO2, gây ra hiện xâm lấn ngày càng tăng. Nước ta có khá nhiều tượng lắng đọng mưa a-xít ở miền Bắc Việt Nam. loài con (mai dương, ốc bươu vàng, rùa tai đỏ, 2.6. Suy giảm tài nguyên rừng và đa dạng bọ cánh cứng hại dừa, vi-rút gây bệnh heo tai sinh học xanh,...) và cây lạ có nguồn gốc từ nước ngoài đã xuất hiện, phá hoại cây trồng, vật nuôi, gây Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia mất cân bằng sinh thái, hủy hoại môi sinh và ảnh giai đoạn 2011-2015 [2], hiện nay, điều đáng lo hưởng nghiêm trọng sức khỏe cộng đồng. Nhiều ngại là chất lượng rừng tự nhiên tiếp tục giảm. loài động, thực vật hoang dã ở Việt Nam có nguy Tuy độ che phủ rừng có xu hướng tăng nhưng cơ tuyệt chủng, diện tích rừng nguyên sinh còn chủ yếu là rừng trồng với mức đa dạng sinh học rất thấp và khó có khả năng phục hồi, một số loài thấp, trong khi rừng tự nhiên với mức đa dạng sinh vật biển suy giảm nghiêm trọng,... sinh học cao nhưng tỷ lệ bảo tồn còn rất thấp. Do thời tiết khô hạn diễn ra thường xuyên 2.7. Vấn đề môi trường trong khai thác trong giai đoạn 2011-2015 nên hiện tượng khoáng sản cháy rừng vẫn xảy ra tại một số địa phương. Hiện nay, thực trạng khai thác tài nguyên Tính riêng năm 2014, tổng diện tích rừng bị và khoáng sản của Việt Nam cho thấy đang tồn cháy là 3.157 ha, tăng 157,2% so với năm trước. tại nhiều bất cập. Một số khoáng sản có trữ Trong số diện tích rừng bị cháy và bị phá, rừng lượng lớn, phân bố liên tục đã bị chia nhỏ để nguyên sinh vẫn chiếm tỷ lệ lớn, gây ảnh hưởng khai thác. Đặc biệt nạn khai thác không phép, nghiêm trọng tới môi trường và tăng các nguy khai thác tự do, nhất là đối với khai thác vàng, cơ lũ lụt, sự cố môi trường. Diện tích rừng trồng đá quý, chì, kẽm, đồng, than, cát,... chưa được 12 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Số 2 - Tháng 6/2017 kiểm soát hiệu quả, tác động nghiêm trọng đến cụ giúp các nhà quản lý và nhà hoạch định chính môi trường, tài nguyên và an ninh xã hội. Thời sách kiểm soát được vấn đề môi trường ở Việt gian qua, vấn nạn khai thác cát trái phép trên Nam và đưa ra các chính sách, giải pháp ngăn các con sông đã diễn ra rất phức tạp, gây sụt lún chặn, ứng phó kịp thời nhằm đảm bảo ANMT. đất hai bên bờ sông, ô nhiễm môi trường và xảy Thứ hai, cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống ra nhiều xung đột nhưng chưa có biện pháp xử chính sách, giải pháp, cơ chế ngăn ngừa, ứng lý triệt để. phó, đảm bảo ANMT ở Việt Nam. Đây là yêu cầu Công nghệ khai thác chế biến khoáng sản ở cấp thiết nhằm quản lý ANMT hiệu quả, góp phần Việt Nam còn lạc hậu, không phù hợp với loại quan trọng trong quá trình phát triển bền vững. khoáng sản khai thác, nên mức độ thu hồi thấp, Chúng ta cần thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà tác động tiêu cực tới môi trường. Đa số các mỏ nước về môi trường, trước hết cần loại bỏ những khai thác hiện nay phần lớn là những cơ sở khai quy định không phù hợp, chưa đầy đủ hoặc thác chế biến quy mô nhỏ, khai thác và sản xuất gây cản trở hoạt động của cơ quan bảo vệ môi manh mún. Trong khi đó, thực tế cho thấy hệ lụy trường. Bên cạnh đó, trên cơ sở nghiên cứu lý về môi trường trong khai thác khoáng sản là rất luận và thực tiễn về vấn đề ANMT và các công cụ lớn. Vấn đề khai thác, chế biến bô-xít ở các địa đánh giá, kiểm soát mức độ ANMT ở Việt Nam, từ phương khu vực Tây Nguyên tiềm ẩn các rủi ro đó đề xuất xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính về môi trường và sinh thái. Trong quá trình khai sách, pháp luật phù hợp, có tính khả thi cao, thác, bụi, nước thải, bùn đỏ tác động rất lớn đối nhằm đảm bảo ANMT, phát triển bền vững. Cần với môi trường xung quanh, gây nên khan hiếm sớm nghiên cứu và xây dựng dự án Luật BĐKH. nguồn nước do nhu cầu sử dụng nước cho dự Trước mắt, nghiên cứu lồng ghép các tiêu chí về án là rất lớn, phá vỡ cấu trúc địa chất,... Theo môi trường và BĐKH trong dự án Luật Quy hoạch báo cáo của Tổng hội Địa chất Việt Nam [15], đang được Quốc hội và Chính phủ xem xét. tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế và khu còn cao, đặc biệt là ở các mỏ hầm lò, các mỏ vực, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài như địa phương quản lý. Các sản phẩm sau khai thác, nguồn vốn, khoa học - công nghệ, kinh nghiệm chế biến còn nghèo nàn, phần lớn được xuất quản lý,... ANMT là vấn đề toàn cầu, chính vì vậy khẩu ở dạng thô có giá trị kinh tế thấp, gây lãng đòi hỏi sự hợp tác, hỗ trợ của các quốc gia, các tổ phí, thất thoát tài nguyên, ô nhiễm môi trường, chức trên thế giới để ứng phó với các thách thức gia tăng các vấn đề xã hội và ảnh hưởng tới an mang tính toàn cầu. Đối với vấn đề an ninh nguồn ninh quốc gia. nước, Việt Nam cần phải đẩy mạnh hợp tác trong Ủy hội sông Mê Kông Quốc tế; lồng ghép các vấn 3. Một số giải pháp nhằm đảm bảo an ninh môi đề quản lý, chia sẻ lợi ích nguôn nưc, ngăn chặn trường ở Việt Nam đẩy lùi các hình thức ô nhiễm xuyên biên giới vào Thứ nhất, cần xây dựng Bộ Tiêu chí và xác trong khuôn khô các hơp tác song phưng, đa định Bộ Chỉ số an ninh môi trường phù hợp với phưng, khu vưc. Đối với vấn đề nguy cơ từ các điều kiện của Việt Nam, nhằm phục vụ công tác nhà máy điện hạt nhân, Việt Nam cần chủ động quản lý và hoạch định chính sách. Công cụ này có các phương án ứng phó và có cơ chế trao đổi giúp cung cấp thông tin cho các nhà quản lý và thường xuyên với Trung Quốc. nhà hoạch định chính sách để đánh giá, kiểm Thứ tư, chú trọng nghiên cứu ứng dụng soát mức độ ANMT ở nước ta và quản lý rủi ro khoa học - công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng hiệu quả. Bộ Tiêu chí an ninh môi trường là cơ tiết kiệm nguồn tài nguyên, xử lý ô nhiễm môi sở để đánh giá mức độ đáp ứng các yêu cầu về trường, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó bảo đảm ANMT ở Việt Nam, đồng thời cung cấp với biến đổi khí hậu. Đồng thời, nghiên cứu phát thông tin từng tiêu chí, chỉ tiêu chưa đạt được triển các loại năng lượng sạch thay thế như cho các nhà quản lý và nhà hoạch định chính điện hạt nhân, năng lượng gió, năng lượng mặt sách để đưa ra các giải pháp thúc đẩy, hoàn thiện trời, đảm bảo an ninh năng lượng, giảm áp lực chính sách. Bộ Chỉ số an ninh môi trường là công năng lượng thủy điện. TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 13 Số 2 - Tháng 6/2017 Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đúng mức đến vấn đề môi trường. Đồng thời, cần phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi kiểm soát chặt chẽ các nguồn gây ô nhiễm có thể trường nhằm nâng cao nhận thức về bảo vệ môi xả trực tiếp ra môi trường mà không qua xử lý. trường cho các tổ chức, cá nhân, trong đó có vấn Thứ bảy, tăng cường công tác quản lý về bảo đề ANMT. Tăng cường áp dụng các biện pháp tồn đa dạng sinh học, bảo vệ và phát triển rừng; hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thông tin và thực nghiêm cấm, kiểm soát chặt chẽ du nhập các sinh thi hiệu quả các chính sách, pháp luật về bảo vệ vật ngoại lai xâm hại vào Việt Nam; kiểm soát chặt môi trường. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý chẽ việc quy hoạch, cấp phép trong hoạt động thức về bảo vệ môi trường trong doanh nghiệp. khai thác, chế biến tài nguyên thiên nhiên. Bên Thứ sáu, giải quyết một cách hài hòa, đồng bộ cạnh đó, cần tăng cường năng lực, bộ máy của mối liên hệ giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi các cơ quan dự báo khí tượng, khí hậu, đồng thời trường và các vấn đề xã hội. Cần thay đổi tư duy phải lồng ghép, tính đến yếu tố BĐKH vào trong phát triển, nhất là của một số địa phương khi quá các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương chú trọng thu hút đầu tư nhưng chưa quan tâm trình của Trung ương cũng như của địa phương. Tài liệu tham khảo 1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012), Báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia 2012. 2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016), Báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2011-2015. 3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016), Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam, NXB Tài nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội. 4. Nguyễn Thế Chinh và Phan Thị Kim Oanh (2016), “An ninh nguồn nước trong tiến trình hội nhập khu vực và sự lựa chọn chính sách của Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về An ninh phi truyền thống trong tiến trình hội nhập khu vực: Kinh nghiệm EU - ASEAN và những gợi mở chính sách cho Việt Nam. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Chính trị, Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. 8. Phạm Thành Dung (2015), “An ninh phi truyền thống và định hướng giải pháp cho Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”, Báo cáo tổng hợp nghiên cứu Đề tài độc lập cấp Nhà nước. 9. Nguyễn Đình Hòe và Nguyễn Ngọc Sinh (2010), Đảm bảo an ninh môi trường cho phát triển bền vững, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 10. IMHEN và UNDP (2015), Báo cáo đặc biệt của Việt Nam về Quản lý rủi ro thiên tai và hiện tượng cực đoan nhằm thúc đẩy thích ứng với biến đổi khí hậu. 11. Phạm Ngọc Lãng (2016), "Tai biến môi trường - Một mặt trận an ninh phi truyền thống nóng bỏng", Tạp chí Cộng sản. 12. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật An ninh quốc gia. 13. Dương Hồng Sơn và nnk (2013), "Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của ô nhiễm không khí xuyên biên giới đến miền Bắc Việt Nam", Báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ. 14. Tổng cục Thống kê (2016), Tình hình kinh tế - xã hội năm 2016. 15. Tổng hội Địa chất Việt Nam, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và Viện Tư vấn Phát triển (2008), Báo cáo nghiên cứu, đánh giá thực trạng về quản lý khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản Việt Nam. 16. Sönke Kreft (2015), Global climate risk index 2016-Who Suffers Most From Extreme Weather Events? Weather-related Loss Events in 2014 and 1995 to 2014. 14 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Số 2 - Tháng 6/2017 17. The White House (1994), A national security strategy of engagement and enlargement, U.S. Government Printing Office, Washington DC. 18. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Gia tăng lượng chất thải nguy hại từ hoạt động sản xuất công nghiệp, truy cập ngày 9/4/2017, tại trang web newid/411381.html. ENSURING ENVIRONMENTAL SECURITY IN VIET NAM: AN URGENT ISSUE TO BE ADDRESSED Ta Dinh Thi, Phan Thi Kim Oanh, Ta Van Trung, Bui Duc Hieu Ministry of Natural Resources and Environment Abstract: Environmental security has become a global issue which entails cooperation and distribution of responsibility among nations. Environmental challenges pose a major threat not only to human security, economic and food security but also to national security and humankind’s survival. As can be seen, environmental issues have become urgent in Viet Nam currently. Natural resources scarcity, environmental pollution and degradation can undermine national economy, exacerbate hunger and poverty issue and political instability, and may cause conflict. There are a number of Vietnamese and international scholars agree on the organic and close relationship between national security and environmental security. This is because environmental security is fundamentally a component of non-traditional security which is a factor of national security. Assuring environmental security is, therefore, an important part of strengthening national security. Keywords: Environmental security, national security, climate change, environmental pollution, water resoures security, biodiversity. TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 15 Số 2 - Tháng 6/2017
File đính kèm:
- dam_bao_an_ninh_moi_truong_o_viet_nam_van_de_cap_thiet_can_p.pdf