Đảm bảo an ninh lương thực ở Việt Nam hiện nay

Hiện nay, an ninh lương thực và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cần được đặt

trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập bởi bối cảnh mới có tác động đa chiều tới vấn đề

này. Ở Việt Nam, sau hơn 30 năm đổi mới, Nhà nước đã giải quyết tương đối thành công vấn đề

an ninh lương thực, tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn và bất ổn. Trong bối cảnh mới, Việt Nam

cần cân nhắc, điều chỉnh hoạt động sản xuất, xuất khẩu lương thực từ quy mô đến chất lượng; xây

dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ nông dân, Nhà nước cần đảm bảo an ninh lương thực nhưng vẫn

phải đáp ứng các yêu cầu của thị trường, thu nhập và đời sống của nông dân cũng như các doanh

nghiệp kinh doanh lương thực.

pdf 7 trang kimcuc 9940
Bạn đang xem tài liệu "Đảm bảo an ninh lương thực ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đảm bảo an ninh lương thực ở Việt Nam hiện nay

Đảm bảo an ninh lương thực ở Việt Nam hiện nay
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 10-16 
 10
Đảm bảo an ninh lương thực ở Việt Nam hiện nay 
Phạm Văn Dũng* 
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 2 tháng 10 năm 2017 
Chỉnh sửa ngày 25 tháng 10 năm 2017; Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 11 năm 2017 
Tóm tắt: Hiện nay, an ninh lương thực và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cần được đặt 
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập bởi bối cảnh mới có tác động đa chiều tới vấn đề 
này. Ở Việt Nam, sau hơn 30 năm đổi mới, Nhà nước đã giải quyết tương đối thành công vấn đề 
an ninh lương thực, tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn và bất ổn. Trong bối cảnh mới, Việt Nam 
cần cân nhắc, điều chỉnh hoạt động sản xuất, xuất khẩu lương thực từ quy mô đến chất lượng; xây 
dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ nông dân, Nhà nước cần đảm bảo an ninh lương thực nhưng vẫn 
phải đáp ứng các yêu cầu của thị trường, thu nhập và đời sống của nông dân cũng như các doanh 
nghiệp kinh doanh lương thực. 
Từ khóa: An ninh lương thực, kinh tế thị trường, hội nhập, Việt Nam. 
1. An ninh lương thực trong điều kiện kinh 
tế thị trường và hội nhập 
Lương thực là hàng hóa đáp ứng nhu cầu 
thiết yếu quan trọng nhất của con người, do đó 
đảm bảo an ninh lương thực là yêu cầu cấp thiết 
đối với mọi quốc gia. Theo Tổ chức Lương 
thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc 
(FAO), an ninh lương thực là trạng thái mà tất 
cả mọi người, tại mọi thời điểm, đều có sự tiếp 
cận về mặt vật chất và kinh tế với nguồn lương 
thực đầy đủ, an toàn và đủ dinh dưỡng, đáp ứng 
chế độ ăn uống và thị hiếu lương thực của 
mình, đảm bảo một cuộc sống năng động và 
khỏe mạnh (WFS, 1996). 
Hiện nay, an ninh lương thực quốc gia chịu 
ảnh hưởng của nhiều nhân tố, theo những chiều 
cạnh khác nhau. Do vậy, để đảm bảo an ninh 
lương thực, cần tính đến các đặc điểm của kinh 
tế thị trường và hội nhập trong giai đoạn 
hiện đại. 
_______ 
* ĐT.: 84-912464494. 
 Email: dungpv@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4109 
 Thứ nhất, kinh tế thị trường và hội nhập là 
điều kiện quan trọng để đảm bảo an ninh lương 
thực quốc gia. Trong cơ chế thị trường, mục 
tiêu của những người sản xuất và kinh doanh 
lương thực là lợi nhuận, và để đạt mục tiêu đó, 
họ phải quan tâm tới nhu cầu lương thực của 
người dân và tìm cách đáp ứng các nhu cầu đó 
một cách tốt nhất. Do tác động của cạnh tranh, 
những người sản xuất và kinh doanh lương thực 
phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, hạ thấp chi 
phí, nâng cao chất lượng lương thực. 
Đồng thời, trong nền kinh tế thị trường, 
lương thực được tự do trao đổi nên người dân 
có điều kiện tiếp cận với các loại lương thực 
phù hợp với nhu cầu của mình. Kinh tế thị 
trường còn làm cho năng suất, sản lượng lương 
thực tăng nhanh, thậm chí nhanh hơn cả tốc độ 
tăng trưởng dân số. 
Thứ hai, kinh tế thị trường và hội nhập làm 
nảy sinh nhiều nguy cơ mất an ninh lương thực. 
Giá cả lương thực lên xuống không chỉ tùy 
thuộc năng suất, sản lượng lương thực, mà còn 
tùy thuộc vào chính sách của chính phủ, môi 
trường chính trị, các hoạt động đầu cơ Sự lên 
P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 10-16 11
xuống của giá cả lại ảnh hưởng đến quy mô sản 
xuất lương thực, đến việc đáp ứng nhu cầu 
lương thực của người dân. 
Do những người sản xuất và kinh doanh 
theo đuổi mục tiêu lợi nhuận nên nguy cơ mất 
an toàn, không đảm bảo chất lượng của nguồn 
lương thực cung ứng là điều hoàn toàn có thể 
xảy ra. Vì vậy, để đảm bảo an ninh lương thực 
cả về số lượng và chất lượng, sự can thiệp của 
nhà nước đóng vai trò hết sức cần thiết. 
Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội 
nhập, để đảm bảo nguồn lương thực sẵn có và 
ổn định, nhà nước phải có quy hoạch sản xuất 
lương thực, dự trữ và xuất nhập khẩu lương 
thực một cách khoa học. Cơ chế thị trường đòi 
hỏi các hoạt động này đều phải dựa trên nguyên 
tắc hiệu quả. Người sản xuất và kinh doanh 
lương thực sẽ từ bỏ lĩnh vực này nếu hoạt động 
của họ không hiệu quả, không có thu nhập 
tương xứng. Do đó, sự hỗ trợ của nhà nước 
nhằm đảm bảo hiệu quả cho những người sản 
xuất và kinh doanh lương thực là yêu cầu 
tất yếu. 
Thứ ba, chính sách trợ cấp nông nghiệp, 
bảo trợ sản xuất lương thực bằng các rào cản kỹ 
thuật của các nước phát triển cũng như chính 
sách tự túc lương thực của nhiều quốc gia đang 
phát triển làm cho hoạt động sản xuất và xuất 
khẩu lương thực gặp nhiều khó khăn, không đạt 
hiệu quả. Vì thế, các nước xuất khẩu lương thực 
chủ yếu trên thế giới đã thu hẹp quy mô sản 
xuất và xuất khẩu lương thực. 
Thứ tư, kinh tế thị trường và hội nhập đòi 
hỏi đảm bảo an ninh lương thực mang tính toàn 
cầu. Những vấn đề mang tính toàn cầu như biến 
đổi khí hậu, biến động của thị trường thế 
giới,an ninh năng lượng đều tác động đến an 
ninh lương thực của mọi quốc gia. Hiện nay, 
các quốc gia đang phải gánh chịu những ảnh 
hưởng nghiêm trọng của hiện tượng biến đổi 
khí hậu, gây hậu quả to lớn, cản trở sự phát 
triển kinh tế, tạo ra nguy cơ mất an ninh lương 
thực ngay ở những quốc gia vốn có thế mạnh về 
sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, những 
chính sách năng lượng toàn cầu ngày càng gia 
tăng sử dụng cây lương thực như ngô, lúa mỳ, 
ngũ cốc làm nhiên liệu sạch (ethanol và diesel 
sinh học), thay thế cho nhiên liệu hóa thạch đã 
gây nhiều xáo trộn về nhu cầu và hoạt động 
xuất nhập khẩu lương thực, đe dọa an ninh 
lương thực, đặc biệt trong bối cảnh dân số thế 
giới tiếp tục gia tăng (từ 7,3 tỷ người hiện nay 
tăng lên khoảng 9,5 tỷ đến 13,3 tỷ người vào 
cuối thế kỷ XXI [4]). 
Những lý do trên cho thấy: An ninh lương 
thực đang và sẽ vẫn là vấn đề cấp thiết, mang 
tính toàn cầu, tuy nhiên các quốc gia không cần 
phải giải quyết bằng mọi giá, mà cần được giải 
quyết một cách hiệu quả và bền vững. 
2. Những thành tựu đảm bảo an ninh 
lương thực ở Việt Nam 
Thứ nhất, sự sẵn có và ổn định lương thực. 
Đó là sự đảm bảo khối lượng lương thực, thỏa 
mãn nhu cầu hàng ngày của dân cư, cùng với 
chất lượng lương thực phù hợp được cung cấp 
từ các nguồn sản xuất hoặc nhập khẩu. 
Việt Nam là nước nông nghiệp nên việc 
đảm bảo nhu cầu lương thực bằng cách đẩy 
mạnh sản xuất lương thực trong nước là hoàn 
toàn đúng đắn. Việc chuyển đổi từ hợp tác xã 
nông nghiệp kiểu cũ sang “khoán hộ” là tiền đề 
quan trọng cho sự hình thành thị trường lương 
thực quốc gia và đảm bảo an ninh lương thực. 
Nhờ “khoán hộ”, người nông dân trở thành chủ 
thể cung ứng lương thực trên thị trường. Khi lợi 
ích được đảm bảo, họ tập trung huy động các 
nguồn lực đáp ứng nhu cầu lương thực của 
người dân. Nhà nước còn tạo điều kiện cho các 
doanh nghiệp xuất khẩu lương thực, góp phần 
đảm bảo lợi ích của những người sản xuất và 
kinh doanh lương thực. Nhờ đó, diện tích và 
sản lượng lương thực của Việt Nam trong 
những năm gần đây không ngừng tăng lên. Việt 
Nam không chỉ tự đảm bảo được an ninh lương 
thực, mà còn góp phần đảm bảo an ninh lương 
thực cho nhiều quốc gia khác (Bảng 1). 
Để đảm bảo sự sẵn có về lương thực, Nhà 
nước đã quy hoạch đất trồng lương thực, chủ 
yếu là lúa, nhằm đảm bảo khả năng tự cung 
lương thực. Mục tiêu mà các chính sách đặt ra 
là giữ 3,8 triệu ha đất trồng lúa để đảm bảo sản 
lượng 32-41 triệu tấn lúa/năm, đủ đáp ứng yêu 
P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 10-16 12
cầu trong nước và xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn 
gạo/năm. Ngoài ra, Nhà nước khuyến khích mở 
rộng diện tích và sản lượng các loài cây lương 
thực khác và rau màu. Nhà nước đã quan tâm 
đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cho sản xuất 
nông nghiệp, bao gồm các hệ thống thủy lợi, hệ 
thống đường bộ, đầu tư cho nghiên cứu và ứng 
dụng tiến bộ khoa học - công nghệ trong nông 
nghiệp nói chung và cây lương thực nói riêng 
Bảng 1. Diện tích, sản lượng lương thực có hạt 
 Diện tích Sản lượng 
Tổng số 
Trong đó 
Tổng số 
Trong đó 
Lúa Ngô Lúa Ngô 
Nghìn ha Nghìn tấn 
2005 8.383,4 7.329,2 1.052,6 39.621,6 35.832,9 3.787,1 
2006 8.359,7 7.324,8 1.033,1 39.706,2 35.849,5 3.854,6 
2007 8.304,7 7.207,4 1.096,1 40.247,4 35.942,7 4.303,2 
2008 8.542,2 7.400,2 1.140,2 43.305,4 38.729,8 4.573,1 
2009 8.527,4 7.437,2 1.089,2 43.323,4 38.950,2 4.371,7 
2010 8.615,9 7.489,4 1.125,7 44.632,2 40.005,6 4.625,7 
2011 8.777,6 7.655,4 1.121,3 47.235,5 42.398,5 4.835,6 
2012 8.918,9 7.761,2 1.156,6 48.712,6 43.737,8 4..973,6 
2013 9.074,0 7.902,5 1.170,4 49.231,6 44.039,1 5.191,2 
2014 8.996,2 7.816,2 1.179,0 50.178,5 44.974,6 5.202,3 
2015 8.996,3 7.830,6 1.164,8 50.394,3 45.105,5 5.287,2 
Sơ bộ 2016 8.947,9 7.790,4 1.152,4 48.838,9 43.609,5 5.225,6 
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2017 [3]. 
Các vùng sản xuất lương thực hàng hóa lớn 
tập trung ở đồng bằng sông Hồng, sông Cửu 
Long cung cấp lúa gạo hàng hóa cho cả nước và 
xuất khẩu. Đó là dấu hiệu cho thấy nền nông 
nghiệp hàng hóa lớn đã và đang hình thành. Các 
tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất 
lương thực hàng hóa gắn với xuất khẩu được áp 
dụng rộng rãi. Công nghệ sinh học phát triển, 
đặc biệt là nhiều giống lúa lai, ngô lai đã đưa 
vào sản xuất; công nghệ tưới tiêu, làm đất, phân 
bón, bảo quản, sau thu hoạch... ngày càng tiến 
bộ, góp phần tích cực vào thâm canh tăng năng 
suất cây lương thực theo yêu cầu thị trường. 
Với sự hỗ trợ của Nhà nước, các lớp đào tạo 
ngắn hạn nhằm tập huấn kỹ năng cho người 
nông dân được tổ chức thường xuyên và định 
kỳ theo kế hoạch của các địa phương. Các tài 
liệu, thông tin về sản xuất nông nghiệp được 
cung cấp về các xã, phường, được phổ biến cho 
người nông dân thông qua hội nông dân và các 
hợp tác xã. 
Nhằm ổn định nguồn cung, Nhà nước chủ 
trương xây dựng hệ thống kho lưu trữ lương 
thực. Các kho dự trữ này chịu trách nhiệm trong 
việc thu mua lương thực của nông dân trong 
trường hợp sản lượng lúa gạo tăng làm giảm giá 
bán. Khi Nhà nước thu mua dự trữ lương thực, 
cầu lương thực trên thị trường tăng và đẩy giá 
lương thực tăng lên giúp đảm bảo lợi nhuận cho 
người nông dân. Bên cạnh đó, khi tình trạng 
mất mùa xảy ra, lượng cung lương thực trên thị 
trường giảm xuống dẫn đến giá lương thực tăng 
cao, khả năng tiếp cận lương thực của những hộ 
gia đình thu nhập thấp bị đe dọa, các kho dự trữ 
này có nhiệm vụ xả kho giúp ổn định nguồn 
cung trên thị trường, ổn định giá cả. 
Hiện nay, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu 
khoảng 4-5 triệu tấn gạo, góp phần quan trọng 
đảm bảo lợi ích cho người nông dân trồng lúa, 
từ đó góp phần duy trì diện tích trồng lúa theo 
quy hoạch của Nhà nước. 
Thứ hai, tiếp cận lương thực. Đây là nội 
hàm quan trọng trong việc đảm bảo an ninh 
lương thực, là khả năng của các cá nhân tiếp 
cận được nguồn lương thực phù hợp với nhu 
cầu dinh dưỡng của họ. Trong những năm vừa 
P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 10-16 13
qua, Nhà nước đã dành nhiều sự quan tâm 
nhằm nâng cao khả năng tiếp cận nguồn lương 
thực cho người dân. 
Kênh tiếp cận nguồn lương thực quan trọng 
nhất là thị trường lương thực. Trong hơn 30 
năm đổi mới, thị trường lương thực Việt Nam 
không ngừng phát triển. Với sự hỗ trợ tích cực 
của Nhà nước, kết cấu hạ tầng của nền kinh tế 
nói chung và thị trường lương thực nói riêng 
như hệ thống đường sá, sân bay, bến cảng được 
mở rộng và hiện đại hóa; hệ thống thông tin liên 
lạc ngày càng phát triển; hệ thống kho tàng, bến 
bãi, các cửa hàng kinh doanh lương thực, chợ, 
siêu thị... được xây dựng rộng khắp cả nước. 
Nhờ đó, kênh phân phối lương thực không 
ngừng được mở rộng và hoàn thiện. Kể từ cải 
cách thương mại định hướng thị trường được 
bắt đầu năm 1986, đến nay người dân và doanh 
nghiệp đã được tự do buôn bán, kinh doanh 
lương thực. 
Khả năng tiếp cận nguồn lương thực phụ 
thuộc chặt chẽ vào mức thu nhập của người 
dân. Trong những năm qua, thu nhập bình quân 
trên đầu người của Việt Nam liên tục tăng đã 
giúp cải thiện khả năng tiếp cận lương thực. 
Thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng của Việt 
Nam tăng từ 356.100 đồng năm 2002 lên 
2.637.300 đồng năm 2014, tăng 7,4 lần 
(Bảng 2). 
Bảng 2. Thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng 
chia theo thành thị - nông thôn 
Đơn vị tính: Nghìn đồng 
 2008 2010 2012 2014 Sơ bộ 
2016 
Cả 
nước 
995 1.387 2.000 2.637 3.049 
Phân theo thành thị, nông thôn 
Thành 
thị 
1.605 2.130 2.989 3.964 4.368 
Nông 
thôn 
762 1.070 1.579 2.038 2.437 
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2017 [3]. 
Nhìn chung, mức thu nhập của đa số người 
dân tăng tương đối nhanh. Những người có 
hoàn cảnh khó khăn, những người có công với 
nhân dân, với đất nước, đều được Nhà nước 
trợ cấp thu nhập. Đồng thời, Nhà nước còn có 
chính sách hỗ trợ, trợ cấp lương thực cho hộ 
nghèo, hộ cận nghèo ở các khu vực bị thiên tai, 
các khu vực miền núi có giao thông đi lại khó 
khăn,... Nhờ đó, đa số người dân có cơ hội tiếp 
cận nguồn lương thực và tỷ lệ đói nghèo, suy 
dinh dưỡng của Việt Nam nhờ đó giảm nhanh. 
Theo Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc 
(UNDP), Việt Nam đã hoàn thành Mục tiêu 
Thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng 
cực và thiếu đói vào năm 2002, sớm hơn 13 
năm so với mục tiêu đề ra. 
Nhìn chung, Việt Nam đã đảm bảo được an 
ninh lương thực cho tuyệt đại đa số người dân; 
nạn thiếu lương thực được giải quyết cơ bản 
(Bảng 3). 
3. Những vấn đề đặt ra 
Để đảm bảo an ninh lương thực, Việt Nam 
đã phải trả giá nhất định và gặp không ít vấn đề 
cấp thiết cần sớm được giải quyết. 
Thứ nhất, sự an toàn, chất lượng của nguồn 
lương thực cung ứng. Đối với mặt hàng lương 
thực như gạo, ngô, khoai, sắn, nguy cơ mất an 
toàn vệ sinh thực phẩm chủ yếu do tồn dư thuốc 
bảo vệ thực phẩm trong sản phẩm. 
Bảng 3. Tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2010-2016 
Đơn vị tính: % 
 Theo chuẩn nghèo của Chính phủ Sơ bộ 
2016 
theo 
chuẩn 
nghèo 
đa 
chiều 
2010 2013 2014 2015 
Sơ 
bộ 
2016 
Cả 
nước 
14,2 9,8 8,4 7,0 5,8 9,2 
Phân theo thành thị, nông thôn 
Thành 
thị 
6,9 3,7 3,0 2,5 2,0 3,5 
Nông 
thôn 
17,4 12,7 10,8 9,2 7,5 11,8 
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2017 [3]. 
Trong suốt thời kỳ dài, do chú trọng gia 
tăng sản lượng lương thực, nông dân đã gia 
tăng vụ mùa, độc canh 2-3 vụ lúa/ năm. Đây là 
P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 10-16 14
nguyên nhân dẫn đến hậu quả cạn kiệt chất dinh 
dưỡng trong đất đai, con người phải can thiệp 
vào quá trình sinh trưởng của cây trồng nhiều 
hơn, trong đó có việc sử dụng thuốc bảo vệ thực 
vật, từ đó làm cho chất lượng lúa gạo càng khó 
kiểm soát, không an toàn [6]. Thực tế cho thấy, 
nhiều lô hàng gạo xuất khẩu đã bị trả lại do tồn 
dư các hoạt chất vượt mức cho phép1. 
Thứ hai, diện tích và sản lượng lương thực 
có hạt của Việt Nam không ngừng gia tăng, từ 
39,62 triệu tấn năm 2005 lên 48,84 triệu tấn 
năm 2016 (Bảng 1). Trong khoảng thời gian 
này, sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam 
giao động từ 4,5-7,7 triệu tấn. Tuy nhiên, kim 
ngạch xuất khẩu gạo năm cao nhất đạt 3,52 tỷ 
USD, năm thấp nhất (2006) chỉ đạt 1,195 USD. 
Ngay năm 2016, Việt Nam xuất khẩu 4,8 triệu 
tấn gạo nhưng cũng chỉ thu được 2,16 tỷ USD 
(Bảng 4). Nhìn chung, thu nhập từ xuất khẩu 
lương thực rất thấp. 
Tính hiệu quả thấp trong sản xuất lương thực 
có nguyên nhân sâu xa: Lương thực là hàng hóa 
thiết yếu, tuy nhiên đây là sản phẩm thô nên giá 
trị gia tăng thấp. Nguyên nhân trực tiếp là do bên 
cạnh những nước xuất khẩu gạo truyền thống, thị 
trường xuất hiện thêm nhiều nước tham gia xuất 
khẩu gạo như Ấn Độ, Pakistan, Myanma, 
Campuchia Hơn nữa, gạo Việt Nam chưa có 
thương hiệu, chất lượng gạo rất thấp so với các 
nước xuất khẩu gạo (Bảng 4). 
Thứ ba, để đảm bảo an ninh lương thực, 
trên diện tích đất được quy hoạch trồng lương 
thực, nông dân không được trồng các loại 
cây khác. 
_______ 
1 Trong 4 tháng đầu năm 2016 đã có 95 container (tương 
đương hơn 1.700 tấn) gạo xuất khẩu sang Hoa Kỳ bị trả 
về, chủ yếu là gạo thơm jasmine, gạo tấm jasmine, gạo lứt 
và gạo trắng chất lượng cao. Tính từ năm 2012 đến tháng 
8/2016, có tới 412 container với gần 10.000 tấn gạo của 16 
doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường này 
bị trả về. Lý do các lô gạo xuất khẩu này bị trả về là do tồn 
dư của 8 hoạt chất vượt mức cho phép (các hoạt chất này 
có mặt trong thuốc bảo vệ thực vật chống các bệnh rầy 
nâu, đạo ôn, sâu đục thân). Trước đó, các lô gạo xuất 
sang thị trường Nhật Bản cũng nhiều lần bị trả về, tuy 
nhiên số liệu cụ thể không được công bố 
(
my-bi-tra-ve-2016100210284730.htm). 
Bảng 4. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo 
của Việt Nam 
Năm 
Số lượng 
(Triệu tấn) 
Trị giá FOB 
(Triệu USD) 
2005 5,21 1.279,27 
2006 4,69 1.194,63 
2007 4,53 1.338,13 
2008 4,68 2.663,44 
2009 6,05 2.464,30 
2010 6,75 2.911,64 
2011 7,13 3.519,29 
2012 7,72 3.449,56 
2013 6,68 2.893,49 
2014 6,5 2.935,20 
2015 6,6 2.796,30 
2016 4,8 2.159,00 
Nguồn: 
ke/80-xuat-khau-gao-viet-nam.html 
Do hiệu quả trồng lương thực thấp nên dẫn 
đến tình trạng nông dân bỏ hoang ruộng đất ở 
nhiều nơi. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp 
và Phát triển Nông thôn, năm 2012 trở về trước, 
việc bỏ hoang ruộng đất mới xảy ra ở các tỉnh 
miền Bắc, đến nay đang xuất hiện ở 25 tỉnh 
thành. Ước tính từ năm 2010 đến nay, khoảng 
500.000 ha đất trồng lúa 2 vụ và độ phì nhiêu 
cao, dễ đi lại và gần những nơi tập trung đông 
dân cư đã bị giảm. Theo nhận định của nhiều 
địa phương, trong thời gian tới, tình trạng nông 
dân bỏ ruộng sẽ vẫn tiếp tục xảy ra [5]. 
 Thứ tư, công nghiệp bảo quản và chế biến 
lương thực chưa được chú ý đúng mức, đầu tư 
cho công nghệ thu hoạch, bảo quản còn thấp. 
Do đó, tổn thất sau thu hoạch vẫn còn cao; sản 
phẩm không đồng đều cả về hình thức lẫn chất 
lượng, dẫn đến giá thành sản phẩm thấp. 
P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 10-16 15
4. Một số khuyến nghị 
Thứ nhất, Việt Nam cần quy hoạch hợp lý 
đất nông nghiệp, đặc biệt là quỹ đất dành cho 
sản xuất lương thực. Diện tích trồng lương thực 
rất lớn trong khi xuất khẩu gạo không hiệu quả. 
Do đó, Việt Nam cần mạnh dạn chuyển đổi 
những diện tích trồng lương thực năng suất thấp 
do nhiễm mặn, hạn hán, lũ lụt, sang trồng các 
loại cây phi lương thực hoặc nuôi thủy sản. Để 
đảm bảo an ninh lương thực, Việt Nam chỉ nên 
xuất khẩu từ 2-2,5 triệu tấn gạo/năm. Gạo xuất 
khẩu phải có thương hiệu, đem lại giá trị gia 
tăng cao. 
Thứ hai, cần sớm hoàn thiện cơ chế, chính 
sách hỗ trợ nông dân sản xuất lương thực. Nếu 
người nông dân trồng cây lương thực theo quy 
hoạch, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về 
giống, phân bón, thủy lợi, bảo vệ thực vật, công 
nghệ canh tác, và bao tiêu sản phẩm; đảm 
bảo cho người dân và doanh nghiệp trồng lương 
thực thu được lợi nhuận như trồng các loại cây 
khác. Khi sản phẩm lương thực có thương hiệu, 
chiếm lĩnh được các thị trường cao cấp, người 
dân và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh 
lương thực sẽ vừa thích ứng được với thị 
trường, vừa tham gia tích cực đảm bảo an ninh 
lương thực. 
Do nguồn cung về lương thực không ổn 
định, Nhà nước cần điều hành chuyển đổi linh 
hoạt giữa trồng cây lương thực và trồng cây 
thực phẩm. Việc chuyển đổi không chỉ nhằm 
nâng cao hiệu quả sản xuất lương thực, mà còn 
góp phần đảm bảo an ninh lương thực trong 
dài hạn. 
Thứ ba, ứng phó linh hoạt với cung - cầu 
lương thực trên thị trường thế giới. Trong điều 
kiện toàn cầu hóa và hội nhập, đảm bảo an ninh 
lương thực quốc gia luôn phải đặt trong quan hệ 
với thị trường lương thực thế giới. Trong dài 
hạn, nhu cầu về lương thực sẽ tăng nhưng tăng 
chậm dần. Nguồn cung lương thực trên thị 
trường thế giới sẽ chịu sự tác động của nhiều 
nhân tố nên có nhiều biến động, ảnh hưởng tới 
giá cả lương thực. Việt Nam cần chuẩn bị kỹ 
lưỡng để ứng phó khi thị trường lương thực thế 
giới biến động. Sự ứng phó chính xác trước 
những biến động của thị trường lương thực thế 
giới vừa đảm bảo được an ninh lương thực cho 
đất nước, vừa đảm bảo hiệu quả trong sản xuất, 
kinh doanh lương thực. 
Thứ tư, nâng cao chất lượng dự báo thời tiết 
trung và dài hạn. Năng suất, sản lượng lương 
thực phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và 
thời tiết. Dự báo thời tiết trung và dài hạn chính 
xác sẽ cho phép né tránh những thời điểm, mùa 
vụ không thuận lợi, nâng cao năng suất, hiệu 
quả sản xuất lương thực và đảm bảo an ninh 
lương thực. Để làm được điều đó, Nhà nước 
cần đầu tư đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực 
này và mua sắm trang thiết bị hiện đại nhất, coi 
đầu tư cho dự báo thời tiết trung và dài hạn là 
đầu tư để đảm bảo an ninh lương thực. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Chính phủ, Nghị quyết về đảm bảo an ninh lương 
thực quốc gia, Hà Nội, ngày 23/12/2009. 
[2] Tạ Ngọc Tấn, An ninh quốc gia - Những vấn đề 
an ninh phi truyền thống, NXB. Chính trị - Hành 
chính, Hà Nội, 2013. 
[3] Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê năm 
2016, NXB. Thống kê, Hà Nội, 2017. 
[4] Lê Hùng, “Dân số thế giới sẽ đạt hơn 11 tỷ người 
vào cuối thế kỷ”, đăng tải ngày 13/8/2015, 
Vnexpress, 
hoc/dan-so-the-gioi-se-dat-hon-11-ty-nguoi-vao-
cuoi-the-ky-3263225.html 
[5] Nguyễn Hoàng, “Tình trạng nông dân bỏ ruộng 
ngày càng tăng”, đăng tải ngày 20/7/2016, Hội 
Nông dân Việt Nam, 
3/45366/tinh-trang-nong-dan-bo-ruong-ngay-
cang-tang 
[6] Bạch Dương, “Báo động gạo Việt sang Mỹ bị trả 
về”, đăng tải ngày 3/10/2016, VnEconomy, 
viet-sang-my-bi-tra-ve-2016100210284730.htm 
t 
P.V. Dũng / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, Tập 33, Số 4 (2017) 10-16 16
Food Security Ensurance in Vietnam Today 
Pham Van Dung 
VNU University of Economics and Business, 
144 Xuan Thuy Street, Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam 
Abstract: Today, food security and national food secuirty ensurance should be viewed from 
the perspetive of the market economy and the international integration because these constantly 
changing contexts have significant impacts on those issues. After over 30 years of innovation, 
though the State has addressed the food secuirty related issues effectively, Vietnam is still 
facing with enormous challenges and instabilities. Therefore, Vietnam should consider and 
amend food production and export activities in size and quality; build mechanism, policy to 
facilitate paddy farmers,... The State has to ensure food security while it should satisfy the 
market’s requirements, ensure income of paddy farmers, and needs of food enterprises. 
Keywords: Food security, market economy, integration, Vietnam. 

File đính kèm:

  • pdfdam_bao_an_ninh_luong_thuc_o_viet_nam_hien_nay.pdf