Đặc điểm về hoạt động chứng minh của luật sư trong tố tụng hình sự Việt Nam

Chứng minh là hoạt động cơ bản, quan trọng nhất được thực hiện trong suốt

tiến trình tố tụng hình sự với sự tham gia của nhiều chủ thể tố tụng khác nhau

để xác định sự thật khách quan của vụ án. Hoạt động chứng minh của các chủ

thể thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự như chủ thể buộc tội,

bào chữa và xét xử có vai trò, vị trí và đặc điểm khác nhau. Hoạt động chứng

minh của luật sư trong tố tụng hình sự để thực hiện chức năng bào chữa, bảo vệ

quyền lợi cho người bị buộc tội. Bài viết phân tích một số đặc điểm về hoạt động

chứng minh của luật sư trong tố tụng hình sự, qua đó đặt ra một số vấn đề cần

khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả bào chữa, góp phần làm sáng tỏ sự thật

khách quan của vụ án.

pdf 13 trang kimcuc 3360
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm về hoạt động chứng minh của luật sư trong tố tụng hình sự Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm về hoạt động chứng minh của luật sư trong tố tụng hình sự Việt Nam

Đặc điểm về hoạt động chứng minh của luật sư trong tố tụng hình sự Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
37 
ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH 
CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 
 NGUYỄN VĂN MINH* 
Chứng minh là hoạt động cơ bản, quan trọng nhất được thực hiện trong suốt 
tiến trình tố tụng hình sự với sự tham gia của nhiều chủ thể tố tụng khác nhau 
để xác định sự thật khách quan của vụ án. Hoạt động chứng minh của các chủ 
thể thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự như chủ thể buộc tội, 
bào chữa và xét xử có vai trò, vị trí và đặc điểm khác nhau. Hoạt động chứng 
minh của luật sư trong tố tụng hình sự để thực hiện chức năng bào chữa, bảo vệ 
quyền lợi cho người bị buộc tội. Bài viết phân tích một số đặc điểm về hoạt động 
chứng minh của luật sư trong tố tụng hình sự, qua đó đặt ra một số vấn đề cần 
khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả bào chữa, góp phần làm sáng tỏ sự thật 
khách quan của vụ án. 
Từ khóa: luật sư, hoạt động chứng minh, tố tụng hình sự, bào chữa 
Nhận bài ngày: 15/10/2018; đưa vào biên tập: 2/12/2018; phản biện: 15/1/2019; 
duyệt đăng: 24/4/2019 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hoạt động chứng minh trong tố tụng 
hình sự là quá trình hoạt động để 
nhận thức về vụ án của các cơ quan, 
người có thẩm quyền tiến hành tố 
tụng, những người tham gia tố tụng 
được thực hiện thông qua các hoạt 
động thu thập, kiểm tra, đánh giá, sử 
dụng chứng cứ theo trình tự, thủ tục 
do pháp luật tố tụng hình sự quy định 
để làm sáng tỏ sự thật khách quan 
của vụ án, bảo đảm cho việc giải 
quyết đúng đắn vụ án hình sự theo 
quy định của pháp luật (Võ Khánh 
Vinh, 2002). 
Hoạt động chứng minh của luật sư là 
một trong những bộ phận hợp thành 
của quá trình chứng minh nên nó 
mang đặc điểm chung của hoạt động 
chứng minh trong tố tụng hình sự. 
Hoạt động chứng minh trong tố tụng 
hình sự nói chung và hoạt động 
chứng minh của luật sư nói riêng là 
quá trình nhận thức chân lý khách 
quan về vụ án trên cơ sở phương 
pháp luận về nhận thức của chủ nghĩa 
duy vật biện chứng, theo quy luật 
chung của quá trình nhận thức “Từ 
trực quan sinh động đến tư duy trừu 
tượng và từ tư duy trừu tượng đến 
thực tiễn. Đó là con đường biện 
chứng của nhận thức chân lý, của sự 
nhận thức thực tại khách quan” (V.I. 
Lênin, 1991: 179). 
Trong quá trình hành nghề, luật sư có 
thể tham gia tố tụng với nhiều tư cách 
* 
Đoàn Luật sư tỉnh Long An. 
 NGUYỄN VĂN MINH – ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH 
38 
khác nhau để bào chữa, bảo vệ quyền 
và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc 
tội. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết 
này chúng tôi chỉ đề cập, nghiên cứu 
luật sư với tư cách là người bào chữa 
cho người bị buộc tội. 
Hoạt động chứng minh của luật sư 
phát sinh trên cơ sở thực hiện quyền 
bào chữa của người bị buộc tội, khi 
tham gia vào hoạt động tố tụng, luật 
sư thực hiện quyền chứng minh của 
mình bằng việc thu thập, đánh giá, sử 
dụng chứng cứ để bào chữa cho 
người bị buộc tội, đây là quyền chứ 
không phải nghĩa vụ của người bào 
chữa. Sự tham gia tích cực của luật 
sư vào quá trình chứng minh không 
chỉ để bảo vệ quyền lợi cho người bị 
buộc tội, mà còn là sự phản biện cần 
thiết đối với hoạt động chứng minh 
của cơ quan buộc tội, giúp cơ quan 
này cẩn trọng hơn để hạn chế những 
sai lầm có thể làm oan cho người vô 
tội, đồng thời sẽ là động lực thúc đẩy, 
nâng cao chất lượng hoạt động điều 
tra, truy tố, xét xử. 
2. ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG 
MINH CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ 
TỤNG HÌNH SỰ 
2.1. Hoạt động chứng minh của luật 
sư dựa trên cơ sở pháp luật và quy 
chế trách nhiệm nghề nghiệp, mang 
tính độc lập, trung thực tôn trọng 
sự thật khách quan, tự chịu trách 
nhiệm cá nhân về hoạt động của 
mình 
Hoạt động nghề nghiệp luật sư, trong 
đó có hoạt động chứng minh trong tố 
tụng hình sự, đòi hỏi luật sư phải 
tuyệt đối tuân thủ pháp luật và quy 
chế trách nhiệm nghề nghiệp của 
mình. Nguyên tắc hành nghề luật sư 
được quy định như sau: “Tuân thủ 
Hiến pháp và pháp luật; tuân theo 
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề 
nghiệp luật sư Việt Nam; độc lập, 
trung thực, tôn trọng sự thật khách 
quan; sử dụng các biện pháp hợp 
pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích 
hợp pháp của khách hàng; chịu trách 
nhiệm trước pháp luật về hoạt động 
nghề nghiệp luật sư” (Quốc hội nước 
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 
2012: 133). Pháp luật về luật sư 
được coi như là “hành lang” đối với 
hoạt động của luật sư, còn quy chế 
trách nhiệm nghề nghiệp luật sư như 
là “khuôn mẫu chung” để điều chỉnh 
hành vi ứng xử của luật sư, là chuẩn 
mực, thước đo phẩm chất đạo đức 
và trách nhiệm nghề nghiệp mà mỗi 
luật sư phải rèn luyện để giữ gìn 
thanh danh của mình xứng đáng với 
sự tôn vinh của xã hội. Sự tác động 
cộng hưởng qua lại giữa pháp luật và 
các quy chế trách nhiệm nghề nghiệp 
trong hoạt động hành nghề luật sư là 
minh chứng cho mối quan hệ giữa 
pháp luật và đạo đức với mục đích 
điều chỉnh các hành vi trong xã hội. 
Đối với nghề luật sư ngoài những đòi 
hỏi về kiến thức và trình độ chuyên 
môn, luật sư còn phải tuân thủ quy 
tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp 
luật sư. 
Hoạt động nghề nghiệp luật sư mang 
tính độc lập trên cơ sở tuân thủ pháp 
luật, đạo đức nghề nghiệp, tự quyết 
định các hoạt động của mình mà 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
39 
không phải chịu sự chi phối chủ quan 
của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào tác 
động đến quan điểm bào chữa và 
quyền tự do hành nghề của luật sư. 
Tính độc lập là nét đặc thù của nghề 
luật sư, là điều kiện giúp cho luật sư 
phát huy trí tuệ, tài năng, kinh nghiệm 
và bản lĩnh của mình ở mức cao nhất 
để phục vụ cho khách hàng. Hoạt 
động độc lập với cơ quan nhà nước là 
cơ sở để luật sư bảo vệ quyền lợi cho 
khách hàng, còn độc lập với khách 
hàng là cơ sở để đảm bảo sự tuân thủ 
pháp luật và quy tắc nghề nghiệp của 
luật sư. Có thể nói, nghề luật sư là 
nghề nghiệp của những người hoạt 
động liên quan đến pháp luật, luật sư 
không phải là công chức, không phải 
là một chức vụ được bầu hay bổ 
nhiệm, mà là một danh xưng được đặt 
ra để thực hiện theo chức năng và sự 
phân công của xã hội, luật sư với 
phương thức hành nghề tự do, phải tự 
chịu trách nhiệm cá nhân trong hoạt 
động nghề nghiệp của mình, với mục 
tiêu bảo vệ công lý, công bằng xã hội 
dựa trên cơ sở pháp luật. 
2.2. Hoạt động chứng minh của luật 
sư trong tố tụng hình sự là hoạt 
động thực hiện chức năng bào chữa 
Chức năng bào chữa là một dạng 
hoạt động tố tụng được pháp luật quy 
định và bảo đảm cho bên bị buộc tội 
được quyền bác bỏ sự buộc tội, kết tội 
oan của cơ quan tiến hành tố tụng, 
thông qua việc sử dụng chứng cứ và 
lập luận để chứng minh về sự vô tội 
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. 
Chức năng bào chữa có vai trò, ý 
nghĩa quan trọng để bảo vệ quyền con 
người, quyền công dân trong tố tụng 
hình sự, góp phần bảo vệ công lý, 
giúp cho Tòa án giải quyết đúng đắn 
vụ án trên cơ sở xác định sự thật 
khách quan của vụ án. Mặt khác, hoạt 
động chứng minh của luật sư thông 
qua chức năng bào chữa còn góp 
phần hạn chế sự lạm quyền và vi 
phạm pháp luật của cơ quan công 
quyền nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi 
cho người bị buộc tội. 
Quyền chứng minh của luật sư phát 
sinh từ quyền bào chữa của người bị 
buộc tội. Vì vậy, chủ thể thực hiện 
chức năng bào chữa có thể là người 
bị buộc tội hoặc người bào chữa cho 
họ. Chức năng bào chữa được thể 
hiện thông qua hoạt động chứng minh 
của luật sư và thông qua hoạt động 
này để bảo đảm cho quyền bào chữa 
của người bị buộc tội được thực thi 
trong tố tụng hình sự. Hoạt động 
chứng minh của luật sư là nhằm cụ 
thể hóa quyền bào chữa của người bị 
buộc tội và là biểu hiện rõ nét nhất 
của thực hiện chức năng bào chữa. 
Trong quá trình tố tụng, hoạt động 
thực hiện chức năng bào chữa của 
luật sư tồn tại đồng thời với hoạt động 
chứng minh của chủ thể buộc tội như 
một nhu cầu khách quan xuất phát từ 
mục đích, nhiệm vụ chung là tìm ra sự 
thật khách quan của vụ án. 
Để thực hiện chức năng bào chữa 
trong tố tụng hình sự phải thông qua 
hoạt động bào chữa, nhưng hoạt 
động bào chữa thực chất là hoạt động 
chứng minh của người bào chữa và 
luật sư là một trong những chủ thể 
 NGUYỄN VĂN MINH – ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH 
40 
đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt 
động chứng minh của người bào chữa. 
Hoạt động chứng minh của luật sư 
được thực hiện bằng các hoạt động 
thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ 
để chứng minh về sự vô tội hoặc giảm 
nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị 
buộc tội. Chức năng bào chữa được 
thể hiện thông qua hoạt động chứng 
minh của luật sư và chính hoạt động 
này sẽ bảo đảm quyền bào chữa của 
người bị buộc tội một cách hiệu quả 
nhất. 
Phiên tòa xét xử vụ án hình sự là nơi 
hội tụ của ba chức năng với sự có mặt 
tham gia đầy đủ của các chủ thể thực 
hiện các chức năng, trong đó Tòa án 
giữ vai trò trung tâm, quyết định sẽ 
đưa ra phán quyết về vụ án trên cơ sở 
các chứng cứ và lập luận của bên 
buộc tội và bào chữa. Vì vậy, trong 
giai đoạn này nếu chỉ thừa nhận hoạt 
động buộc tội của Viện Kiểm sát mà 
không thừa nhận đối trọng của nó là 
hoạt động thực hiện chức năng bào 
chữa của luật sư thì chân lý khách 
quan khó đạt được. Chân lý sẽ không 
xuất hiện nếu trong tố tụng hình sự chỉ 
đơn thuần có buộc tội hoặc bào chữa, 
sự thống nhất và đấu tranh giữa hai 
mặt đối lập (buộc tội và bào chữa) 
chính là nơi hội tụ chân lý, đó là sự 
thật khách quan của vụ án. 
2.3. Phạm vi hoạt động chứng minh 
của luật sư chịu sự tác động, chi 
phối bởi phạm vi buộc tội của cơ 
quan tiến hành tố tụng 
Tố tụng hình sự luôn tồn tại ba chức 
năng cơ bản là: chức năng buộc tội, 
chức năng bào chữa và chức năng 
xét xử, trong đó chức năng buộc tội 
xuất hiện sớm nhất, làm động lực đầu 
tiên kéo theo sự xuất hiện của các 
chức năng khác, là trục chính làm đòn 
bẩy đưa guồng máy tố tụng vào hoạt 
động. “Chức năng buộc tội còn gọi là 
chức năng truy cứu trách nhiệm hình 
sự là một dạng hoạt động tố tụng 
nhằm phát hiện kẻ tội phạm, chứng 
minh lỗi của người đó, bảo đảm phán 
xử và hình phạt đối với người đó.” 
(Nguyễn Thái Phúc, 1999: 22). Như 
vậy, sự tồn tại và phát triển của ba 
chức năng này là bắt buộc mang tính 
khách quan, vì nếu không tồn tại chức 
năng buộc tội thì không có chức năng 
bào chữa và tất nhiên cũng không có 
chức năng xét xử. 
Phạm vi hoạt động chứng minh của 
luật sư được bắt đầu từ khi có sự 
buộc tội và kết thúc khi bản án, quyết 
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. 
Cơ sở phát sinh quyền bào chữa là 
sự buộc tội, không có buộc tội thì 
không có tố tụng hình sự, không có 
người bào chữa (luật sư). Chức năng 
bào chữa nói chung và hoạt động 
chứng minh của luật sư nói riêng xuất 
phát từ sự buộc tội và chịu sự chi phối 
bởi quyết định buộc tội. Mục đích 
tham gia tố tụng của luật sư bào chữa 
là do có sự buộc tội, từ chức năng 
buộc tội. Nội dung và phạm vi buộc tội 
chính là đối tượng chứng minh, là 
những vấn đề phải chứng minh trong 
vụ án hình sự. Do đó, trong quá trình 
chứng minh, luật sư phải căn cứ, theo 
đuổi và bám sát vào phạm vi buộc tội. 
Theo nguyên tắc, ở đâu có buộc tội thì 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
41 
ở đó có bào chữa và “buộc tội đến 
đâu, bào chữa đến đó”. Tuy nhiên, 
phạm vi chứng minh của luật sư có 
thể vượt ra ngoài giới hạn buộc tội 
của Viện Kiểm sát với mục đích làm 
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị 
cáo. Bởi vì, trong quá trình chứng 
minh có những tình tiết giảm nhẹ trách 
nhiệm hình sự khác nhưng bên buộc 
tội không đề cập để cho bị cáo hưởng 
tình tiết giảm nhẹ này thì luật sư có 
quyền đưa ra chứng cứ, lập luận đề 
nghị xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho 
bị cáo. 
Mục đích của tố tụng hình sự là phát 
hiện và xử lý tội phạm. Để đạt được 
mục đích đó thì cần thực hiện các 
hoạt động tố tụng để xác định làm 
sáng tỏ sự thật của vụ án và hoạt 
động chứng minh chính là hoạt động 
tố tụng để đạt mục đích đó. Nhưng để 
hoạt động chứng minh đạt hiệu quả 
thì hoạt động tố tụng phải mang tính 
tranh tụng, trong đó hoạt động chứng 
minh của bên buộc tội và bên bào 
chữa như là hai mặt đối lập cùng song 
song tồn tại, sự đấu tranh pháp lý 
giữa hai chủ thể này trong việc đưa ra 
chứng cứ, lập luận để chứng minh 
bảo vệ quan điểm buộc tội hoặc gỡ tội. 
Trong quá trình này chủ thể buộc tội 
sẽ tập trung chứng minh có sự kiện 
phạm tội xảy ra, ai là người đã thực 
hiện hành vi phạm tội, tức là xác định 
các tình tiết của vụ án để làm căn cứ 
buộc tội. Ngược lại, chủ thể bào chữa 
sẽ sử dụng chứng cứ chứng minh 
không có sự việc phạm tội, bị cáo 
không thực hiện tội phạm hoặc hành 
vi của bị cáo không đủ yếu tố cấu 
thành tội phạm hoặc những tình tiết 
nhằm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự 
cho người bị buộc tội. 
Mục đích của tố tụng hình sự nhằm 
xác định sự thật vụ án, việc xác định 
này phải có điểm dừng, đó là giới hạn 
những vấn đề phải chứng minh. Bởi vì, 
“nếu không giới hạn những vấn đề 
phải chứng minh thì Tòa án có nguy 
cơ trở thành phòng nghiên cứu thực 
nghiệm, một câu lạc bộ tranh cãi, một 
nhóm thi tài diễn thuyết” (Vấn đề đánh 
giá chứng cứ trong tố tụng hình sự Xô 
Viết, 1967: 61). 
2.4. Mục đích hoạt động chứng 
minh của luật sư góp phần làm 
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ 
án, nhưng mục đích chủ yếu vẫn là 
nhằm chứng minh về sự vô tội 
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự 
cho người bị buộc tội 
Mục đích hoạt động chứng minh của 
luật sư trước hết là nhằm thực hiện 
nhiệm vụ chung của tố tụng hình sự là 
góp phần làm sáng tỏ sự thật khách 
quan của vụ án, giúp cho Tòa án giải 
quyết đúng đắn vụ án. Song song với 
nhiệm vụ đó thì hoạt động chứng minh 
của luật sư còn góp phần bảo vệ công 
lý, bảo vệ quyền con người, quyền 
công dân trong tố tụng hình sự, cụ thể 
là bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ 
quyền, lợi ích hợp pháp của người bị 
buộc tội trong tiến trình tố tụng. 
Quyền bào chữa của người bị buộc tội 
và hoạt động chứng minh của luật sư 
có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với 
nhau. Nếu hoạt động chứng minh của 
luật sư càng được thực hiện đầy đủ, 
 NGUYỄN VĂN MINH – ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH 
42 
hiệu quả thì quyền bào chữa của 
người bị buộc tội càng được bảo đảm. 
Quyền bào chữa được thể hiện cụ thể 
qua hoạt động chứng minh của luật 
sư và hoạt động chứng minh của luật 
sư nhằm mục đích chủ yếu bảo vệ 
quyền lợi cho thân chủ bằng cách đưa 
ra lý lẽ và chứng cứ để bác bỏ sự 
buộc tội, chứng minh về sự vô tội 
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự 
cho người bị buộc tội. 
Trong quá trình điều tra, truy tố và xét 
xử, hoạt động chứng minh của luật sư 
nhằm xác định và làm sáng tỏ những 
sự kiện, tình tiết của vụ án để đạt 
được sự khẳng định đối tượng chứng 
minh trong vụ án là đúng, là xác thực, 
góp phần làm sáng tỏ những vấn đề 
phải chứng minh trong vụ án hình sự. 
Như vậy, trong tiến trình tố tụng luật 
sư tham gia vào hoạt động chứng 
minh không chỉ bảo vệ quyền lợi cho 
người bị buộc tội mà còn góp phần 
giúp cơ quan tiến hành tố tụng làm 
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. 
Nhưng về thực chất và nói chung, suy 
cho cùng mục đích chủ yếu và cơ bản 
nhất của luật sư trong hoạt động 
chứng minh vẫn là nhằm bác bỏ sự 
buộc tội, chứng minh về sự vô tội 
 ... hành tố 
tụng sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động 
chứng minh trong tố tụng hình sự nói 
chung và hoạt động chứng minh của 
luật sư nói riêng, giúp cho Tòa án giải 
quyết đúng đắn, khách quan vụ án 
hình sự. 
Suy đoán vô tội là một trong những 
nguyên tắc cơ bản quan trọng của tố 
tụng hình sự nên cần tôn trọng và bảo 
đảm thực hiện trong quá trình chứng 
minh để góp phần nâng cao nhận 
thức về địa vị pháp lý của người bị 
buộc tội trong tố tụng hình sự. Nguyên 
tắc suy đoán vô tội còn là một quyền, 
quyền được suy đoán vô tội, cho nên 
tôn trọng quyền suy đoán vô tội phải 
là nghĩa vụ của tất cả mọi người, đặc 
biệt là đối với cơ quan, người có thẩm 
quyền tiến hành tố tụng phải có trách 
nhiệm thực hiện đúng đắn nguyên tắc 
suy đoán vô tội. Tôn trọng và triệt để 
tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ 
tạo điều kiện cho hoạt động chứng 
minh của luật sư, bảo đảm cho luật sư 
thực hiện tốt chức năng bào chữa, 
giúp cho Tòa án xác định sự thật 
khách quan của vụ án để đưa ra phán 
quyết đúng người, đúng tội, đúng 
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, 
không làm oan người vô tội. 
2.7. Hoạt động chứng minh của luật 
sư nhằm bảo đảm sự cân bằng 
giữa lợi ích công và lợi ích cá nhân, 
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con 
người, quyền công dân trong tố 
tụng hình sự 
Đấu tranh phòng chống tội phạm là 
hoạt động quản lý của Nhà nước 
nhằm duy trì trật tự xã hội, bảo vệ lợi 
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích 
hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Mục 
đích của tố tụng hình sự được thể 
hiện thông qua các hoạt động tố tụng 
hình sự nhằm bảo vệ hai nhóm lợi ích 
công và lợi ích cá nhân. Trong đó, lợi 
ích công thể hiện nhiệm vụ của tố 
tụng hình sự là phát hiện chính xác và 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
45 
xử lý công minh mọi hành vi phạm tội, 
còn lợi ích cá nhân thể hiện nhiệm vụ 
của tố tụng hình sự là bảo vệ, bảo 
đảm các quyền và lợi ích hợp pháp 
của công dân. Nếu quá đề cao việc 
bảo vệ lợi ích công sẽ dẫn đến xem 
nhẹ giá trị về quyền con người, quyền 
công dân. Và, ngược lại, nếu quá chú 
trọng đến lợi ích của cá nhân thì lợi 
ích công sẽ bị xâm phạm. 
Để xác định sự thật khách quan và 
loại trừ những gì không phải là sự thật 
của vụ án, chúng ta phải “đổi mới 
cách nhìn về mục đích của tố tụng 
hình sự theo hướng bình đẳng đối với 
các giá trị, lợi ích cần đạt được của tố 
tụng hình sự, lợi ích của trật tự pháp 
luật và lợi ích của cá nhân của những 
con người nằm trong vòng tố tụng” 
(Đào Trí Úc, 2017: 33). Các giá trị và 
lợi ích cần được đặt ở vị trí ngang 
bằng nhau trong quá trình chứng minh 
làm sáng tỏ sự thật khách quan của 
vụ án. Như vậy, mục đích của tố tụng 
hình sự cần được thực hiện theo 
hướng bảo đảm lợi ích công và bảo 
vệ quyền con người, quyền và lợi ích 
hợp pháp của cá nhân trong quá trình 
tố tụng hình sự. 
3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 
3.1. Về phạm vi hoạt động chứng 
minh của luật sư 
Giới hạn xác định sự thật vụ án được 
cụ thể hóa bằng giới hạn phạm vi 
chứng minh trong tố tụng hình sự, 
việc xác định đối tượng chứng minh 
luôn đặt ra trong suốt quá trình đi tìm 
sự thật của vụ án. Tuy nhiên, quy định 
về giới hạn của việc xét xử đang tồn 
tại nhiều ý kiến khác nhau về lý luận 
và thực tiễn. “Tòa án xét xử những bị 
cáo và những hành vi theo tội danh 
mà Viện Kiểm sát truy tố và Tòa án đã 
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tòa 
án có thể xét xử bị cáo theo khoản 
khác với khoản mà Viện Kiểm sát đã 
truy tố trong cùng một điều luật hoặc 
về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội 
mà Viện Kiểm sát đã truy tố. Trường 
hợp xét thấy cần xét xử bị cáo nếu 
Viện Kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy 
tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo 
về tội danh nặng hơn đó” (Điều 298 
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). 
Theo chúng tôi, quy định này là cần 
thiết, nhưng quy định này vẫn có điểm 
hạn chế là có thể làm xấu đi tình trạng 
của người bị buộc tội hoặc vi phạm 
quyền bào chữa của họ trong quá 
trình tố tụng. 
Trong hoạt động thực hiện chức năng 
xét xử, Tòa án phụ thuộc vào hoạt 
động truy tố của Viện Kiểm sát, bởi vì 
nội dung, phạm vi truy tố sẽ xác định 
giới hạn nội dung hoạt động xét xử 
của Tòa án và theo đó thì hoạt động 
chứng minh của người bào chữa cũng 
phụ thuộc vào nội dung, phạm vi truy 
tố của bên buộc tội. Như vậy, nội 
dung truy tố trong bản cáo trạng sẽ là 
đối tượng và phạm vi xét xử của Tòa 
án và nó cũng ấn định về nội dung, 
phạm vi đối với hoạt động chứng minh 
của luật sư bào chữa tại phiên tòa. 
Theo ý kiến chúng tôi, quy định về giới 
hạn của việc xét xử là cần thiết để 
việc xác định sự thật của vụ án phải 
có điểm dừng, nhưng giới hạn xét xử 
phải bảo đảm cho việc thực hiện đúng 
 NGUYỄN VĂN MINH – ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH 
46 
đắn chức năng xét xử, không làm ảnh 
hưởng đến tính độc lập trong xét xử 
và không tạo điều kiện để Tòa án có 
thể mở rộng nội dung xét xử ngoài 
phạm vi truy tố kéo theo việc thay đổi 
về nội dung và phạm vi bào chữa đã 
được ấn định trước đó trong quyết 
định truy tố, làm xấu tình trạng của bị 
cáo. Nói cách khác, Tòa án có thể 
vượt qua giới hạn của việc xét xử nếu 
như không làm xấu tình trạng của bị 
cáo và không vi phạm quyền bào 
chữa của bị cáo so với truy tố của 
Viện Kiểm sát. Như vậy, hoạt động 
chứng minh của luật sư được bắt đầu 
từ khi có sự buộc tội và kết thúc khi 
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu 
lực pháp luật. Phạm vi hoạt động 
chứng minh của luật sư chịu sự chi 
phối và phụ thuộc vào phạm vi truy tố 
theo nguyên tắc, có buộc tội thì có 
bào chữa, buộc tội đến đâu, bào chữa 
đến đó, nếu buộc tội về tội phạm càng 
nghiêm trọng bao nhiêu thì đòi hỏi 
hoạt động chứng minh của luật sư 
bào chữa càng cao bấy nhiêu. 
3.2. Về nguyên tắc tranh tụng của 
luật sư 
Bảo đảm bình đẳng trước pháp luật là 
một nguyên tắc cơ bản của tố tụng 
hình sự, theo đó phải bảo đảm sự 
bình đẳng cho chủ thể buộc tội và chủ 
thể bào chữa có quyền ngang nhau 
trong quá trình chứng minh. Sự đấu 
tranh, phủ định lẫn nhau giữa hai bên 
buộc tội và gỡ tội càng dân chủ, công 
bằng, bình đẳng bao nhiêu thì quá 
trình tìm kiếm chân lý khách quan 
càng được bảo đảm bấy nhiêu. Theo 
Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nguyễn 
Thị Thủy (2013: 34): với chủ trương 
nâng cao chất lượng tranh tụng tại 
phiên tòa, nhất là sau khi nguyên tắc 
tranh tụng chính thức được Bộ luật Tố 
tụng hình sự năm 2015 ghi nhận, 
bước đầu đã tạo được không khí bình 
đẳng, dân chủ trong các phiên tòa. 
Tuy nhiên, xét trên cả phương diện 
pháp lý và thực tiễn thì người bị buộc 
tội, người bào chữa vẫn chưa thật sự 
được xem là một bên tranh tụng bình 
đẳng trong quan hệ tố tụng với bên 
buộc tội và chưa có cơ chế để bảo 
đảm tính thực quyền của người bào 
chữa theo quy định của pháp luật. 
Như vậy, chỉ có tranh tụng thật sự thì 
hoạt động tố tụng nói chung và hoạt 
động chứng minh của các chủ thể 
thực hiện các chức năng mới có cơ 
hội đạt đến chân lý. Tại phiên tòa diễn 
ra quá trình chứng minh, tranh tụng 
công khai, dân chủ, bình đẳng giữa 
hai bên buộc tội và bào chữa. “Từ đó, 
các bên sẽ nỗ lực hết mình để bảo vệ 
lợi ích, bảo vệ quan điểm, trình bày 
chứng cứ, chủ động chứng minh về 
các tình tiết của vụ án theo phương 
châm “chân lý chỉ tìm thấy trong tranh 
luận”. Tố tụng, tranh tụng đòi hỏi tự do 
chứng minh và tự do đánh giá chứng 
cứ, bảo đảm tính “mở” của chứng cứ 
với yêu cầu không một chứng cứ nào 
có thể được coi là có giá trị chứng 
minh ưu tiên hay có giá trị pháp lý tiên 
quyết” (Đào Trí Úc, 2017: 40). Có thể 
khẳng định rằng, nếu không có tranh 
tụng thật sự thì không thể nói đến 
chân lý, không thể nói đến bản án 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
47 
đúng đắn, đúng người, đúng tội, đúng 
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, 
không làm oan cho người vô tội. 
3.3. Về nguyên tắc suy đoán vô tội 
Trong hoạt động tố tụng hình sự tấm 
lá chắn quan trọng, vững chắc nhất 
đối với quyền con người, quyền công 
dân, nhằm phòng ngừa những vi phạm 
từ phía cơ quan, người có thẩm quyền 
tiến hành tố tụng là việc ghi nhận 
nguyên tắc suy đoán vô tội. “Người bị 
buộc tội được coi là không có tội cho 
đến khi được chứng minh theo trình 
tự, thủ tục do bộ luật này quy định và 
có bản án kết tội của Tòa án đã có 
hiệu lực pháp luật” (Quốc hội nước 
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 
2015: 16). Không nên có định kiến 
rằng, hễ người nào bị truy tố là nhất 
định có tội mà đối xử như người có tội. 
Bị cáo trước khi tuyên án được coi 
như vô tội để Tòa án có thái độ hoàn 
toàn khách quan. Bởi vì, khi chưa có 
bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật 
của Tòa án thì bị cáo vẫn chưa phải là 
người có tội và không được đối xử với 
họ như người đã có tội. 
3.4. Về bảo vệ công lý, bảo vệ quyền 
con người 
Nếu cho rằng tố tụng hình sự là hoạt 
động chỉ có tính chất pháp lý công, 
được tổ chức và hoạt động trước hết 
vì lợi ích chung chứ không phải vì lợi 
ích cá nhân và chỉ tập trung hướng tới 
mục đích phát hiện, xử lý tội phạm 
bằng mọi giá thì sẽ dẫn tới việc xem 
nhẹ giá trị quyền con người, như vậy 
sẽ không bảo đảm hoặc xâm phạm lợi 
ích và vai trò tố tụng của người bị 
buộc tội. Như vậy, sự hiện diện của 
luật sư bào chữa trong hoạt động 
chứng minh nhằm bảo vệ quyền lợi 
cho người bị buộc tội sẽ góp phần bảo 
đảm sự cân bằng hài hòa giữa lợi ích 
công và lợi ích cá nhân. 
Trong quá trình tố tụng, hoạt động 
chứng minh của ba chủ thể thực hiện 
các chức năng cơ bản như buộc tội, 
bào chữa và xét xử cùng song song 
tồn tại. Mỗi hoạt động chứng minh của 
chủ thể tố tụng đều có vị trí độc lập, 
tùy theo chức năng, nhiệm vụ, quyền 
hạn riêng, thế nhưng giữa chúng có 
mối quan hệ, nối tiếp nhau, bổ sung 
cho nhau. Cơ quan có thẩm quyền 
tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng 
minh tội phạm và người phạm tội 
nhằm bảo vệ lợi ích công cộng, còn 
hoạt động chứng minh của luật sư 
nhằm thực hiện chức năng bào chữa 
dựa trên quyền chứng minh trong tố 
tụng hình sự để bảo đảm quyền lợi 
cho người bị buộc tội. Nhiệm vụ cơ 
bản và chủ yếu của luật sư là bảo vệ 
công lý, bảo vệ quyền con người, 
quyền công dân và lợi ích cá nhân của 
những người nằm trong vòng tố tụng. 
Trong hoạt động chứng minh ngoài 
mục đích bảo vệ quyền lợi cho thân 
chủ thì luật sư còn góp phần làm sáng 
tỏ sự thật vụ án nhằm cân bằng giữa 
lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân. Có 
thể nói, hoạt động chứng minh của 
chủ thể thực hiện các chức năng cơ 
bản hợp thành một thể thống nhất 
được quyết định bởi mục đích chung 
của tố tụng hình sự, việc luật sư bào 
chữa minh oan cho người vô tội cũng 
 NGUYỄN VĂN MINH – ĐẶC ĐIỂM VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH 
48 
quan trọng và có ý nghĩa xã hội như 
việc xử lý nghiêm minh người phạm 
tội để bảo vệ lợi ích công cộng, duy trì 
trật tự xã hội. 
Luật sư tham gia vào hoạt động 
chứng minh không chỉ để bảo vệ 
quyền lợi cho cá nhân người bị buộc 
tội mà còn có nhiệm vụ “góp phần bảo 
vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ 
của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp 
của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát 
triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà 
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn 
minh” (Điều 3 Luật Luật sư). Như vậy, 
để bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi 
ích hợp pháp của cá nhân thì luật sư 
phải tôn trọng sự thật khách quan và 
tuân thủ pháp luật và ngược lại, muốn 
góp phần bảo vệ công lý, xây dựng xã 
hội dân chủ, công bằng, văn minh thì 
phải thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ 
quyền lợi cho cá nhân người bị buộc 
tội. Nói cách khác, vai trò của luật sư 
bào chữa khi tham gia hoạt động 
chứng minh trong tố tụng hình sự là 
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc 
bảo vệ quyền lợi cá nhân người bị 
buộc tội với việc bảo vệ công lý, lợi 
ích công và trật tự pháp luật. 
4. KẾT LUẬN 
Qua phân tích nêu trên cho thấy, hoạt 
động chứng minh của luật sư trong tố 
tụng hình sự là hoạt động thực hiện 
chức năng bào chữa để nhận thức về 
sự thật của vụ án, tuân thủ pháp luật 
và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, 
mang tính độc lập, tự chịu trách 
nhiệm cá nhân. Cơ sở phát sinh hoạt 
động chứng minh của luật sư là sự 
buộc tội và hoạt động này bắt đầu từ 
khi có sự buộc tội cho đến khi bản 
án, quyết định của Tòa án có hiệu lực 
pháp luật. Nội dung hoạt động chứng 
minh của luật sư được thực hiện dựa 
trên cơ sở quyền và nghĩa vụ của 
người bào chữa thông qua các hoạt 
động thu thập, kiểm tra, đánh giá 
chứng cứ để chứng minh về sự vô tội 
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự 
cho người bị buộc tội, góp phần làm 
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ 
án. Hoạt động chứng minh của luật 
sư chịu sự tác động, chi phối bởi 
chức năng bào chữa và phạm vi buộc 
tội của cơ quan tiến hành tố tụng. 
Ngoài ra, hoạt động này có mối quan 
hệ gắn bó với một số nguyên tắc của 
tố tụng hình sự, đặc biệt là nguyên 
tắc tranh tụng và nguyên tắc suy 
đoán vô tội. Hoạt động chứng minh 
của luật sư bào chữa mang tính phản 
biện, đối trọng với hoạt động chứng 
minh của bên buộc tội nhằm bảo đảm 
sự cân bằng giữa lợi ích công, quyền 
con người, quyền công dân trong tố 
tụng hình sự.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Đinh Thế Hưng. 2013. “Các thủ tục tiền xét xử tại Việt nam và những vấn đề đặt ra 
đối với Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam”. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12. 
2. Lênin, V.I. 1991. Bút ký triết học. Toàn tập, tập 29. Mátxcơva: Nxb. Tiến bộ. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (247) 2019 
49 
3. Đinh Thị Mai. 2015. “Lý thuyết chức năng và một số vấn đề về đổi mới nhận thức về các 
chức 
năng của tố tụng hình sự Việt Nam”, trong Hội thảo khoa học Các chức năng của tố 
tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Học viện Khoa học 
xã hội, ngày 28/11/2015. 
4. Nguyễn Thái Phúc. 2006. “Nguyên tắc suy đoán vô tội”. Tạp chí Nhà nước và Pháp 
luật, số 11. 
5. Nguyễn Thái Phúc. 1999. “Một số vấn đề về quyền công tố của Viện Kiểm sát. Kỷ yếu 
Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Khoa học Kiểm sát - Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, 
Hà Nội, tr. 22. 
6. Nguyễn Thái Phúc. 2008. “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong tố tụng 
hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp”. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8. 
7. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2012. Luật Luật sư năm 2006 
sửa đổi, bổ sung năm 2012. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia-Sự thật. 
8. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2015. Bộ luật Tố tụng hình sự 
năm 2015. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia-Sự thật. 
9. Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nguyễn Thị Thủy (đồng chủ biên). 2013. Những vấn đề 
lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu 
cải cách tư pháp. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
10. Đào Trí Úc. 2017. Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo quy định của Bộ luật Tố 
tụng hình sự năm 2015 và những vấn đề đặt ra đối với công tác đấu tranh phòng, chống 
tội phạm hiện nay. Kỷ yếu. Hội thảo khoa học, Bộ Công an. 
11. Võ Khánh Vinh. 2002. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Công 
an Nhân dân. 
12. Vưsinxki. 1950. Lý luận về chứng cứ tư pháp trong pháp luật Xô Viết. Mátxcơva: 
Nxb. Sách Pháp lý. 
13. Vấn đề đánh giá chứng cứ trong tụng hình sự Xôviết. 1967. Mátxcơva: Nxb. Pháp lý, 
tr. 61. 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_ve_hoat_dong_chung_minh_cua_luat_su_trong_to_tung_h.pdf