Đặc điểm tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt

Trung Quốc và Việt Nam là quê hương của các loại trà. Trà gắn liền với đời sống tinh thần của nhân

dân hai nước và từ lâu đã hình thành nên văn hóa trà nằm trong tổng thể nền văn hóa dân tộc. Tên

trà trong tiếng Hán và tiếng Việt có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định, thể hiện rõ

nét đặc điểm tri nhận, phương thức tư duy và khả năng liên tưởng phong phú của hai dân tộc. Bài

viết trên cơ sở kết quả khảo sát đặc điểm tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt, tiến hành so sánh,

chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt trong ngôn ngữ, văn hóa Trung Quốc và Việt Nam thể

hiện qua các phương thức định danh trà, nhằm góp một tài liệu tham khảo cho công tác dạy học

và nghiên cứu tiếng Hán ở Việt Nam.

pdf 6 trang kimcuc 11540
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt

Đặc điểm tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt
42 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Được thiên nhiên ưu đãi, cây chè ở Trung Quốc và Việt 
Nam đều có điều kiện sinh trưởng rất tốt, khiến cho 
hai nước trở thành quê hương của các loại chè. Chè 
Trung Quốc và Việt Nam chủng loại phong phú, ứng 
với mỗi loại là những tên gọi có tính chất gợi tả tinh 
tế, thể hiện sinh động đặc điểm tri nhận của mỗi dân 
tộc với thế giới thực vật nói chung và chè nói riêng. 
Chè sau khi thu hoạch được gia công, chế biến thành 
vô số sản phẩm trà với hệ thống tên gọi hết sức đa 
dạng, có sức cuốn hút đối với người đọc và người 
nghe. Trong thời đại quốc tế hóa và kinh tế thị trường 
ngày càng phát triển như hiện nay, tên trà hay, gợi 
hình, gợi cảm còn có giá trị rất lớn đối với việc quảng 
bá thương phẩm và kích thích sức mua của người tiêu 
dùng trên thị trường. Mặt khác, tên trà cũng thể hiện 
phần nào đặc điểm đời sống tinh thần dồi dào của 
nhân dân hai nước Trung Quốc và Việt Nam.
Tiếng Hán và tiếng Việt đều thuộc loại hình âm tiết 
tính. Trung Quốc và Việt Nam núi sông liền một dải, 
ThS. PHẠM THỊ THANH VÂN1
1 Đại học Bách khoa Hà Nội ✉ phamthanhvan1310@gmail.com
Ngày nhận: 03/11/2016; Ngày hoàn thiện: 23/11/2016; Ngày duyệt đăng: 30/11/2016
Phản biện khoa học: PGS.TS. PHẠM NGỌC HÀM
ĐẶC ĐIỂM TÊN TRÀ
TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT
TÓM TẮT
Trung Quốc và Việt Nam là quê hương của các loại trà. Trà gắn liền với đời sống tinh thần của nhân 
dân hai nước và từ lâu đã hình thành nên văn hóa trà nằm trong tổng thể nền văn hóa dân tộc. Tên 
trà trong tiếng Hán và tiếng Việt có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định, thể hiện rõ 
nét đặc điểm tri nhận, phương thức tư duy và khả năng liên tưởng phong phú của hai dân tộc. Bài 
viết trên cơ sở kết quả khảo sát đặc điểm tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt, tiến hành so sánh, 
chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt trong ngôn ngữ, văn hóa Trung Quốc và Việt Nam thể 
hiện qua các phương thức định danh trà, nhằm góp một tài liệu tham khảo cho công tác dạy học 
và nghiên cứu tiếng Hán ở Việt Nam.
Từ khóa: tên trà, tiếng Hán, tiếng Việt.
cùng nằm trong một không gian văn hóa, càng 
tiện cho việc giao lưu kinh tế, xã hội. Do tiếp xúc 
ngôn ngữ Hán Việt, tiếng Việt đã tiếp thu một lượng 
không nhỏ từ vựng tiếng Hán, làm phong phú cho 
hệ thống từ vựng tiếng Việt. Tên trà trong tiếng Việt 
là một trong những bằng chứng về đặc điểm của từ 
vay mượn tiếng Hán trong tiếng Việt. Đi sâu nghiên 
cứu đặc điểm cấu tạo và đặc điểm ngữ nghĩa của tên 
trà trong tiếng Hán hiện đại, từ đó so sánh với tên trà 
trong tiếng Việt, có thể thấy được những điểm tương 
đồng và khác biệt giữa ngôn ngữ và văn hóa của hai 
dân tộc. Nghiên cứu thuộc lĩnh vực ngôn ngữ và văn 
hóa này có ý nghĩa to lớn đối với công tác dạy học và 
nghiên cứu tiếng Hán ở Việt Nam cũng như giảng dạy 
và nghiên cứu tiếng Việt ở Trung Quốc.
2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA TÊN TRÀ TIẾNG HÁN VÀ 
TIẾNG VIỆT 
Để có được một cơ sở thực tế đáng tin cậy, chúng tôi đã 
tiến hành khảo sát 155 tên gọi các loại trà trong tiếng 
Hán và 80 tên gọi các loại trà trong tiếng Việt, từ đó chỉ 
43KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
ra đặc điểm cấu tạo, đặc điểm ngữ nghĩa của tên trà 
tiếng Hán và tiếng Việt cũng như những điểm tương 
đồng và khác biệt giữa chúng. Kết quả cụ thể như sau:
Về phương diện số chữ cấu thành trong mỗi đơn vị 
tên trà trong tiếng Hán, kết quả khảo sát cho thấy, tên 
trà trong tiếng Hán có từ hai đến sáu chữ, đồng thời 
cũng là hai đến sáu âm tiết. Trong đó, loại hai âm tiết 
có 9 tên, chiếm 5,8%, như 眉茶Mi trà, 滩茶Than trà, 
韶峰Thiều phong, 晒青Sái thanh, 峨蕊Nga nhụy, 翠螺
Thúy loa. Loại ba âm tiết có 25 tên, chiếm 16,13%, 
như惠明茶Huệ minh trà, 径山茶Kính sơn trà, 蒙顶茶
Mông đỉnh trà, 源茗茶Nguyên danh trà, 古劳茶Cổ lao 
trà. Loại bốn âm tiết có 98 tên, chiếm 63,22%, như 
西湖龙井Tây hồ long tỉnh, 顾渚紫茶Cố chử tử trà, 午子
仙毫Ngọ tử tiên hào, 黄山毛峰Hoàng sơn mao phong, 
信阳毛尖Tín dương mao tiêm, 平水珠茶Bình thủy 
châu trà, 涌溪火青Dũng khê hỏa thanh, 仙人掌茶Tiên 
nhân chưởng trà Loại năm âm tiết có 21 tên, chiếm 
13,55%, như 洞庭碧螺春Động đình bích loa xuân,峨
眉竹叶青Nga my trúc diệp thanh, 南安石亭绿Nam an 
thạch đình lục, 桂平西山茶Quế bình tây sơn trà, 南京
雨花茶Nam kinh vũ hoa trà Loại sáu âm tiết có 2 
tên, chiếm 1,3%, gồm花果山云雾茶Hoa quả sơn vân 
vụ trà, 八角亭龙须茶Bát giác đình long tu trà
Kết quả khảo sát số âm tiết trong tên trà tiếng Việt 
như sau: Loại hai âm tiết gồm 29 tên, chiếm 36,25%, 
như bạch trà/chè trắng, chè hương, chè nhài, chè 
bánh. Loại ba âm tiết gồm 40 tên, chiếm 50%, như 
chè Suối Giàng, chè hương nhài, chè Kim Anh, chè móc 
câu, chè hòa tan, chè Bảo Lộc,. Loại bốn âm tiết gồm 
9 tên, chiếm 11,25%, như chè sen Tây Hồ, chè vàng 
Hà Giang, ô long hổ phách,. Loại năm âm tiết gồm 
2 tên, chiếm 2,5%, đó là trà vàng Thiết Quan Âm, Trà 
móc câu Thái Nguyên. 
Từ kết quả khảo sát kể trên có thể thấy, tên trà trong 
tiếng Hán có số lượng vượt xa so với tiếng Việt. Tên 
trà tiếng Hán rất chú trọng đến tính cân xứng, trong 
đó, số lượng tên trà bốn âm tiết chiếm tỷ lệ cao nhất. 
Nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của đặc trưng 
biểu đạt tiếng Hán. Trong các văn bản tiếng Hán cổ 
đại, dạng câu và từ tổ bốn âm tiết rất phổ biến, có 
khi dùng độc lập, có khi dùng liền từ hai cụm trở lên. 
Trong tiếng Hán hiện đại, cụm từ cố định bốn âm tiết 
mà thường là thành ngữ và cụm từ không cố định bốn 
âm tiết cũng thường xuất hiện, nhất là trong các văn 
bản viết, làm tăng tính chất cô đọng và tính tiết tấu 
trong việc sử dụng ngôn ngữ Hán. Chính vì cụm từ 
bốn âm tiết thường gặp và chiếm ưu thế trong biểu 
đạt, cho nên tên trà bốn âm tiết cũng phát huy được 
tác dụng của nó như ngắn gọn, dễ đọc, dễ nhớ, điều 
đó tiện cho việc quảng bá trà như một thương phẩm 
trên thương trường. 
Tên trà trong tiếng Hán còn thể hiện quan niệm thẩm 
mỹ của người Trung Quốc. Người Trung Quốc rất coi 
trọng tính cân đối, hài hòa của các sự vật hiện tượng. 
Quan niệm đó thể hiện từ đặc điểm kiến trúc, hội họa 
cho đến câu đối, thơ ca cổ,và đặc biệt là nghệ thuật 
biểu đạt. “Mỗi ngôn ngữ tự nó là một nghệ thuật diễn 
đạt của tập thể. Nó bao gồm một tập hợp những 
nhân tố thẩm mĩ học riêng biệt – những nhân tố về 
ngữ âm, nhịp điệu, kí hiệu, hình thái học – mà nó 
hoàn toàn không chia sẻ với bất kì một ngôn ngữ nào 
khác (Nguyễn Thiện Giáp, 2015).” Ngay trong cấu trúc 
nội tại của các cụm từ bốn âm tiết cũng rất chú trọng 
tính chất tiết tấu hài hòa cân đối giữa các thành tố, 
như 2//2; 1//1//1//1//. Trong đó, cấu trúc 2//2chiếm 
ưu thế. Đồng thời hai thành tố song âm tiết cấu thành 
tên trà bốn âm tiết thường có tác dụng bổ trợ ý nghĩa 
cho nhau, khiến cho lượng thông tin về mỗi loại trà 
nhiều hơn trong giới hạn về số lượng âm tiết, như 宜
红//功夫nghi hồng//công phu, 永春//佛手vĩnh xuân// 
Phật thủ, 日铸//雪芽nhật trù //tuyết nha, 西湖//龙井
Tây hồ//long tỉnh; 开化//龙须 khai hóa//long tu;老
竹//大方lão trúc//đại phương Trong mỗi tên trà còn 
có sự hài hòa về bằng trắc, làm tăng thêm tính tiết 
tấu và tạo nên vẻ đẹp âm nhạc mỗi khi nhắc đến tên 
các loại trà.
Khác với tên trà trong tiếng Hán, tên trà tiếng Việt 
chủ yếu là ba âm tiết, tiếp đó là hai âm tiết, số lượng 
tên trà bốn âm tiết là tương đối ít, ít nhất là loại năm 
âm tiết. Trong tiếng Việt, tên trà chủ yếu đặt theo mô 
hình “Chè” + từ đơn hoặc song âm tiết chiếm đa số, 
như chè đen, chè xanh, chè hương, chè Thái Nguyên, 
chè móc câu, chè hương nhài, chè san tuyết, chè túi lọc, 
chè bảo bảo. Cách cấu tạo này tuân thủ theo quy 
tắc ngữ pháp tiếng Việt (từ trung tâm hướng tới ngoại 
diên). Ngoài ra, có một số tên trà được tổ hợp theo 
quy tắc ngữ pháp tiếng Hán, trong đó, đại đa số là 
những từ song âm tiết biểu thị tên trà được mượn từ 
tiếng Hán, như hồng trà, bạch trà, hoàng trà. Ngoài 
ra, trong tiếng Việt, hai từ “trà” và “chè” song song tồn 
tại. Trong đó, chè là âm cổ của trà, mức độ Việt hóa của 
chè cao hơn trà và thông dụng trong giao tiếp hơn so 
44 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
với trà. Mặt khác, trà có thể đứng ở vị trí trung tâm, 
phía trước mang định tố có giá trị phân định về loại 
và mang đậm tính chất của một từ Hán Việt, như nhân 
sâm trà, hồng trà, Đồng thời trà cũng có thể đứng ở 
phía trước định tố, như trà hương, trà tuyết sơn,....Tuy 
nhiên, chè chỉ có thể đứng ở trước định tố, mang sắc 
thái của từ thuần Việt nhiều hơn và không thể đứng ở 
sau định tố như trà được.
3. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TÊN TRÀ TIẾNG HÁN 
VÀ TIẾNG VIỆT 
Cũng với số lượng tên trà đã thu thập được, chúng tôi 
tiến hành khảo sát và phân loại theo ý nghĩa. Kết quả 
khảo sát cụ thể như sau: 
Đối với tên trà Trung Quốc, trong bản thân mỗi tên 
gọi thường có chứa các yếu tố chỉ tên động, thực vật, 
màu sắc, hình dáng, phương thức chế tác, hiện tượng 
thiên nhiên, sông nước, địa danh và đặc biệt là một 
số loại trà còn mang hai chữ công phu với nghĩa là 
bản lĩnh, tính bền bỉ. Tỷ lệ từng loại như sau: (1) Tên 
trà có chứa yếu tố chỉ động vật gồm 17 tên, chiếm 
10,96%;(2) Tên trà có chứa yếu tố chỉ mùi vị gồm 2 
tên, chiếm 1,29%;(3) Tên trà có chứa yếu tố chỉ hoa 
cỏ gồm 15 tên, chiếm 9,67%;(4) Tên trà có chứa yếu 
tố chỉ màu sắc gồm 43 tên, chiếm 27,74%; (5) Tên 
trà có chứa yếu tố chỉ hình dáng gồm 11 tên, chiếm 
7,09%;(6) Tên trà có chứa yếu tố chỉ phương thức 
chế tác gồm 2 tên, chiếm 1,29% ;(7) Tên trà có chứa 
hai chữ công phu gồm 11 tên, chiếm 7,09%;(8)Tên 
trà có chứa yếu tố chỉ hiện tượng thiên nhiên gồm 13 
tên, chiếm 8,38%;(9) Tên trà có chứa yếu tố chỉ nước 
gồm 17 tên, chiếm 10,96%;
Kết quả khảo sát về ngữ nghĩa của tên trà tiếng Hán 
được thể hiện trong đồ thị 1.
Tên trà có chứa yếu tố chỉ địa danh, nhất là tên sông, 
tên núi cũng chiếm một số lượng khá lớn. Tuy nhiên, 
do đặc thù của tiếng Hán, nhìn trên mặt chữ rất khó 
xác định tên đất, nhất là với những địa danh không 
nổi tiếng, cho nên trong khuôn khổ bài viết này, 
chúng tôi xin tạm thời chưa đưa ra con số thống kê 
cụ thể các tên trà có chứa yếu tố chỉ địa danh trong 
tiếng Hán.
Những tên trà có chứa yếu tố chỉ nước và những sự 
vật chứa nước như 井tỉnh (giếng), 湖hồ, 池trì (ao), 
川xuyên, 江giang, 河hà (sông), 溪khê (suối), 海hải 
(biển), như 永川秀芽vĩnh xuyên tú nha, 涌溪火青
dũng khê hỏa thanh, 金水翠峰kim thủy thúy phong, 
新江羽绒茶tân giang vũ nhung tràChứng tỏ quan 
niệm về trà gắn liền với thủy thổ, với thiên nhiên và 
đời sống của con người.
Ngoài ra, trong tên trà tiếng Hán còn chứa yếu tố chỉ 
con số như 3, 5, 6, 7, 9, song (đôi)Trong đó, tên trà 
chứa số 6 và 9 xuất hiện với tần số cao hơn cả. Đó 
là do trong tâm thức của người Trung Quốc, số 6 và 
số 9 là những con số may mắn. Số 6 với cách đọc là 
lục có quan hệ hài âm với 禄lộc. Mỗi khi nghe âm lục, 
người ta thường liên hệ đến lộc và hy vọng có được 
cuộc sống vật chất dồi dào. Số 9 lại được coi là con 
số dương cực thịnh, “con số đế vương”, mang lại cảm 
giác an lành, may mắn, thành đạt. Các con số này kết 
hợp với các từ tố khác tạo nên tên trà đa âm tiết, như 
九龙茶cửu long trà, 双井緑song tỉnh lục, 六安瓜片
lục an qua phiếnTất cả đều thể hiện ước vọng vươn 
Đồ thị 1: Kết quả khảo sát về ngữ nghĩa tên trà tiếng Hán
45KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
tới cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy chính đáng của con 
người. Ước vọng đó được gửi gắm vào tên trà và mỗi 
khi nghe hay đọc đến những cái tên đầy ý vị hoặc 
thưởng thức những loại trà hương thơm, vị đượm 
đó, người ta như được thực sự cảm nhận về một cuộc 
sống tinh thần cát tường như ý.
Những tên trà mang yếu tố chỉ thiên nhiên như 云林
茶vân lâm trà, 秦雾毫tần vụ hào, 前锋雪莲tiền phong 
tuyết liên, 象棋云雾tượng kỳ vân vụ, 南京雨花茶nam 
kinh vũ hoa trà, thể hiện sinh động quan hệ giữa trà 
với thế giới tự nhiên, nhất là thời tiết, khí hậu, có ảnh 
hưởng không nhỏ đến chất lượng, hương vị của trà.
Về mặt màu sắc, người Trung Quốc có ấn tượng đặc 
biệt đến mức tôn sùng màu hồng. Màu hồng tượng 
trưng cho sự may mắn, hạnh phúc, đủ đầy. Trong các 
đám cưới, tiệc vui hay mỗi dịp tết đến xuân về, từ 
trong nhà đến đường làng ngõ phố thường xuất hiện 
rất nhiều màu hồng, như câu đối màu hồng, chữ song 
hỷ màu hồng, biểu ngữ màu hồngNgoài ra, màu 
xanh là màu của sự sống, màu của thiên nhiên cây cỏ 
cũng thường xuất hiện trong tên trà. 
Đối với tên trà trong tiếng Việt, qua khảo sát, chúng 
tôi đã thu được kết quả cụ thể như sau: (1) Tên trà có 
chứa yếu tố chỉ động vật gồm 3 tên, chiếm 3,75%; (2) 
Tên trà có chứa yếu tố chỉ mùi vị gồm 11 tên, chiếm 
13,75%; (3) Tên trà có chứa yếu tố chỉ hoa cỏ gồm 18 
tên, chiếm 22,5%; (4) Tên trà có chứa yếu tố chỉ màu 
sắc gồm 13 tên, chiếm 16,25%; (5) Tên trà có chứa 
yếu tố chỉ hình trạng gồm 4 tên, chiếm 5%; (6) Tên 
trà có chứa yếu tố chỉ phương thức chế tác gồm 2 
tên, chiếm 2,5%; (7) Tên trà có chứa yếu tố chỉ hiện 
tượng thiên nhiên gồm 1tên, chiếm 1,25%; (8) Tên 
trà có chứa yếu tố chỉ nước gồm 5 tên, chiếm 6,25%; 
(9) Tên trà có chứa yếu tố chỉ địa danh gồm 16 tên, 
chiếm 20%.
Kết quả khảo sát có thể biểu diễn trong đồ thị 2.
Tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt còn thể hiện rõ 
nét ý nghĩa so sánh, ví von, chứng tỏ thủ pháp tu từ 
trong ngôn ngữ đã được vận dụng vào việc đặt tên 
cho trà. Vai trò của thủ pháp tu từ này làm cho tên 
gọi của trà mang đậm tính hình tượng, tăng thêm 
sức cuốn hút của trà với đông đảo người tiêu dùng 
và khiến cho tên trà đã trở thành mỹ từ làm giàu cho 
hệ thống từ vựng và làm đẹp thêm cho tiếng Hán và 
tiếng Việt. Mặt khác, những sự vật hiện tượng dùng 
để ví von cũng thể hiện sinh động đặc trưng văn hóa 
cũng như năng lực thẩm mỹ và khả năng liên tưởng 
phong phú của hai dân tộc. Theo thống kê của chúng 
tôi, số lượng tên trà mang ý nghĩa ví von có 45 tên, 
chiếm 29,03%. Những tên này có thể chia thành hai 
loại, một là cả chỉnh thể tên trà đều mang ý nghĩa ví 
von, như 韶峰thiều phong (đỉnh núi mùa xuân), 翠
螺thúy loa (ốc xanh), 白毛猴bạch mao hầu (khỉ lông 
trắng), 黄金桂hoàng kim quế (quế vàng), 大红袍đại 
hồng bào (áo bào hồng), 湘波緑Tương ba lục (xanh 
màu sóng sông Tương), 永春佛手vĩnh xuân Phật thủ 
(tay Phật mãi xuân), 江山绿牡丹giang sơn lục mẫu 
đơn (mẫu đơn xanh màu sông núi) Loại thứ hai là 
loại trong tên trà có chứa yếu tố biểu thị ví von. Thành 
phần dùng để ví von này thường đứng ở phía trước, 
kết hợp với thành phần ở phía sau làm thành cấu trúc 
định ngữ nối với trung tâm, và thành phần mang 
Đồ thị 2. Kết quả khảo sát về ngữ nghĩa của tên trà tiếng Việt
46 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
tính chất ví von này đã phát huy vai trò phân định 
về chủng loại. Ví dụ như: 龙舞茶long vũ trà, 普陀佛茶
Bồ tát Phật trà, 通天岩茶thông thiên nham trà, 南京雨
花茶Nam kinh vũ hoa trà, 花果山云雾茶hoa quả sơn 
vân vụ tràTrong đó, thành phần dùng để ví von lại 
có thể chia thành những yếu tố chỉ cảnh quan sông 
núi, như 通天岩thông thiên nham, 云海vân hải, 凌云
lăng vân... 
Rất nhiều địa danh nổi tiếng đã xuất hiện trong tên 
trà, vừa có vai trò xác định xuất xứ, vừa chứa đựng 
hàm ý ví von trà với địa thế núi sông, hình trạng của 
sự vật như: Kính đình, Hoa quả sơn, Động đình, Nam 
nhạc, Tây hồ, Hán thủy Quả thực là mỹ từ lại thêm 
mỹ từ, làm đẹp cho mỗi tên gọi của trà, khiến người 
ta mỗi khi thưởng thức món quà mà thiên nhiên ban 
tặng này như cảm thấy mình được hòa vào thiên 
nhiên. Đó là một thú vui tao nhã, giúp người ta tận 
hưởng hương vị cuộc sống. Có những tên trà đầy 
tính hình tượng, hết sức sống động như 莲花迎春 
liên hoa nghênh xuân (hoa sen đón xuân sang), khiến 
người ta hình dung đến những cánh sen đong đưa 
trước gió xuân, càng làm tăng thêm thi vị của tên trà.
Trong tiếng Việt, tên trà có chứa yếu tố chỉ địa danh 
gồm 16 tên, chiếm20%, như chè Thái Nguyên, chè Hà 
Giang, chè Suối Giàng, chè tuyết Lu, chè Bảo Lộc
Ngoài ra, một số tên trà mang tên công ty, đơn vị sản 
xuất, chế biến như chè Kim Anh, chè Ba Đình, chè 
Đồng Tâm
Từ việc phân tích ý nghĩa tu từ của tên trà, có thể 
thấy, tính chất tu từ đó được thể hiện trên ba phương 
diện: (1)Vận dụng thủ pháp ẩn dụ; (2)Vận dụng thủ 
pháp cường điệu; (3)Vận dụng thủ pháp song quan. 
Thủ pháp tu từ trong tên gọi của trà đã phát huy cao 
độ vai trò của ngôn ngữ học, mỹ học cũng như nghệ 
thuật ẩm thực, mẹo kinh doanh, nâng giá trị của trà 
lên tầm cao của đời sống vật chất và tinh thần.
Trong tiếng Việt, ý nghĩa ví von của tên trà cũng có 
nhiều điểm tương đồng với tiếng Hán. Chẳng hạn 
như: chè mỏ quạ, chè hồng đào, chè hoa sứ, chè thủy 
tiên Ngoài ra, còn có nhiều tên trà có nguồn gốc 
Trung Quốc, như: chè Thiền, chè Long tỉnh, chè thiết 
Quan âm Tuy nhiên, xét về tổng thể, tên trà trong 
tiếng Việt do số lượng ít hơn nên phương thức định 
danh cũng không đa dạng như tên trà Trung Quốc.
Tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt còn thể hiện sắc 
thái văn hóa tín ngưỡng của hai dân tộc. Phật giáo 
chiếm vị trí quan trọng trong tâm thức của người 
Trung Quốc và người Việt Nam. Phật giáo răn dạy con 
người thanh tâm quả dục, mưu cầu điều thiện, đồng 
thời luôn tâm niệm được đức Phật phù hộ độ trì. Từ 
một số tên gọi của trà, chúng ta có thể thấy được 
phần nào ý thức tín ngưỡng Phật giáo của người dân. 
Chẳng hạn, tên trà có chứa yếu tố chỉ tứ linh: long, ly, 
quy, phượng , như: 双龙银针song long ngân châm,开
化龙须khai hóa long tu, 水金龟thủy kim quy, 凤凰茶
phương hoàng trà. Trong đó, tên trà chứa long chiếm 
số lượng khá lớn, tới 10 tên. Đặc biệt là hoa Phật trà, 
tiên nhân chưởng trà, thiết quan âm, mang đậm 
màu sắc Phật giáo được đông đảo quần chúng ưa 
chuộng. Những tên trà loại này của Trung quốc đều 
được người Việt Nam tiếp nhận và cảm thấy rất quen 
thuộc, gần gũi với đời sống văn hóa Việt Nam.
Tên trà tiếng Việt thường mang yếu tố chỉ tên hoa cỏ. 
Ngoài ra, những tên trà có chứa yếu tố chỉ hương sắc 
cũng khá phổ biến, như chè hương, chè hương sen, 
chè hương nhài, chè xanh, chè đen, hồng trà, bạch 
tràĐiều đó chứng tỏ người Việt Nam cũng như 
người Trung Quốc, thưởng thức trà bằng nhiều giác 
quan và cảm nhận trà bằng cả các yếu tố hương, sắc, 
vị, hình. 
Tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt cũng thường có 
chứa yếu tố chỉ địa danh, hay các hiện tượng thiên 
nhiên như vân, vũ, lôi, tuyết, xuân, quang, nhật, 
nguyệt, Cả những tên núi tên sông cũng được 
dùng làm yếu tố tạo nên tên gọi các loại trà. Điều đó 
thể hiện sâu sắc tình yêu quê hương, niềm tự hào 
của từng dân tộc với đất nước của mình. Đồng thời 
cũng thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa con người 
với thiên nhiên, trên quan niệm thiên địa nhân nhất 
thể. Từ đặc trưng ý nghĩa của tên trà trong tiếng Hán 
và tiếng Việt, thêm một lần chứng tỏ “nghĩa của từ là 
một hiện tượng tâm lý, là sự hiểu biết cùng với xúc 
cảm kèm theo xuất hiện (hay được gợi lên) trong trí 
óc người bản ngữ về sự vật, hiện tượng, hành động, 
tính chất, quan hệ mà từ biểu thị khi nghe thấy 
(hoặc đọc) từ ấy (Nguyễn Đức Tồn, 2013).”
4. KẾT LUẬN
Tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt có nhiều điểm 
tương đồng, song cũng có nhiều điểm khác biệt. 
47KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
Chúng phong phú, đa dạng cả về cấu trúc và ý nghĩa, 
phần lớn đều ngắn gọn, đặc biệt là tên trà trong tiếng 
Hán với cấu trúc bốn âm tiết chiếm tỷ lệ khá cao, cân 
đối hài hòa, gợi vẻ đẹp về tiết tấu, âm nhạc, gây hứng 
khởi cho người nói và người nghe. Về mặt ngữ nghĩa, 
tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt có chứa các yếu 
tố chỉ tên động vật, thực vật, tên đất, tên núi, tên 
sông, tên các hiện tượng thiên nhiên, yếu tố chỉ màu 
sắc, mùi vị, nhất là những yếu tố mang màu sắc tín 
ngưỡng dân gian, con số chứa ý nghĩa may mắn 
Tất cả thể hiện sinh động quan niệm thiên, địa, nhân 
nhất thể cũng như tâm lý hướng thiện và nguyện ước 
vươn tới cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy của nhân dân 
hai nước Trung Quốc và Việt Nam. Đồng thời, tên trà 
cũng thể hiện vẻ đẹp của ngôn ngữ, tính chất tinh tế 
của việc vận dụng các thủ pháp tu từ vào quá trình 
định danh, khiến cho tên gọi mang tính hình tượng, 
giàu sức gợi tả, cùng một lúc chuyển tải đến người 
đọc và người nghe nhiều thông tin về trà trong giới 
hạn số chữ của mỗi tên gọi. Điều đó cũng có ý nghĩa 
to lớn đối với việc quảng bá trà như những thương 
hiệu trên thị trường, phát huy giá trị kinh tế của nó. 
Tên trà trong tiếng Hán và tiếng Việt thể hiện đời 
sống tinh thần dồi dào, làm phong phú cho hệ thống 
từ vựng của hai ngôn ngữ Trung Việt. Đó là một trong 
những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa hết sức lí thú cần 
được tiếp tục đi sâu nghiên cứu./. 
Tài liệu tham khảo:
1. Trịnh Quang Dũng (2005), Văn minh trà Việt, NXB 
Phụ nữ.
2. Nguyễn Thiện Giáp (2015), Phương pháp luận Phương 
pháp nghiên cứu ngôn ngữ, NXB Giáo dục, Hà Nội
3. Nguyễn Đức Tồn(2013), Những vấn đề của ngôn ngữ 
học cấu trúc dưới ánh sáng lí thuyết ngôn ngữ học hiện 
đại, NXB Khoa học Xã hội.
4. Nguyễn Như Ý (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ 
ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
5. 陈洁光、黄月圆 (2003), 中国的品牌命名——十
类中国产品品牌名称的语言学分析, 中文科技期刊
数据库, 第2期
6. 王军云 (2005), 中国起名宝典,中国长安出版社
7. 朱亚军 (2003), 商标命名研究,上海外语教育出
版社
FEATURES OF DIFFERENT NAMES OF TEA IN CHINESE AND VIETNAMESE
PHAM THI THANH VAN
Abstract: China and Vietnam are home to many kinds of tea. Tea which is associated with spiritual 
life of Chinese and Vietnamese people has become indigenous culture in both countries. Name of 
tea in Chinese and Vietnamese has some similarities and differences and it expresses the way of 
thinking and connecting in ideas of these two races. The article bases on the analysis of tea name in 
Chinese and Vietnamese to show the similarities and differences in language and culture of China 
and Vietnam, which can be considered as references to teaching and studying Chinese in Vietnam.
Keywords: tea name, Chinese, Vietnamese.

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_ten_tra_trong_tieng_han_va_tieng_viet.pdf