Đặc điểm nồng độ immunoglobulin huyết thanh và mối liên quan với một số yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
Nồng độ IgG3 cao hơn ở nhóm có
ít đợt bùng phát/năm, có thể liên quan đến
khả năng đáp ứng miễn dịch với một số
căn nguyên nhiễm trùng hô hấp dưới và
giúp hạn chế các đợt cấp do nhiễm trùng.
IgG là lớp kháng thể có vai trò chính trong
cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại các tác
nhân vi khuẩn gây bệnh [5], [6]and the
results were compared with those obtained
in a healthy adult control group. Antibody
production deficiency was defined as
a failure to respond to either vaccine.\
nResults\nOne hundred seven patients
were included in the study (mean age,
46.3 years. IgM và IgE có xu hướng tăng
cao ở các bệnh nhân có nhiều đợt bùng
phát. Điều này có thể liên quan đến vai trò
đáp ứng miễn dịch với tình trạng nhiễm
trùng cấp tính và tăng mẫn cảm đường thở
trong các đợt bùng phát của bệnh của 2 lớp
kháng thể này.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm nồng độ immunoglobulin huyết thanh và mối liên quan với một số yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 23 ĐẶC ĐIỂM NỒNG ĐỘ IMMUNOGLOBULIN HUYẾT THANH VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH Nguyễn Hải Công1, Hà Thọ Minh Huyền1, Đinh Thị Ngân Hà1 Tóm tắt Nghiên cứu nồng độ các Immunoglobulin huyết thanh trong và ngoài đợt bùng phát nặng ở 97 bệnh nhân Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) nhập viện trong thời gian 5/2016 – 8/2017, nhận thấy: nồng độ trung bình các kháng thể trong và ngoài đợt cấp không có sự biến đổi rõ rệt. Giá trị trung bình trong đợt cấp của IgG: 1322,95mg/dl, IgM: 470,45mg/dl, IgA: 201,5mg/dl và IgE: 0,162mg/dl. SERUM IMMUNOGLOBULIN LEVELS AND RELATIONSHIP WITH CLINICAL, SUBCLINICAL CHARACTERISTICS IN PATIENT WITH CHRONIC OBSTRUCTIVE PULMONARY DISEASE Summary: Study on serum antibody concentrations in and out of the severe exacerbation of Chronic obstructive pulmonary disease (COPD) in 97 patients were hospitalized from 5/2016 to 8/2017. Results: Mean concentrations of antibodies in and out of the exacerbation were not significantly different. Mean values in the exacerbation episode of IgG: 1322.95mg / dl, IgM: 470.45mg / dl, IgA: 201.5mg / dl and IgE: 0.162mg / dl.I. ĐẶT VẤN ĐỀ Nhiễm trùng không chỉ là nguyên nhân chính gây ra đợt cấp của Bệnh phổi 1 Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Hải Công (nguyen_med@ymail.com) Ngày nhận bài: 10/01/2018, ngày phản biện: 24/01/2018 Ngày bài báo được đăng: 30/3/2018 TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 24 tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT), mà còn khuếch đại và duy trì tình trạng viêm mạn tính đường thở trong BPTNMT. Các kháng thế là những chất đóng vai trò chủ yếu trong cơ chế đáp ứng miễn dịch thứ phát của cơ thể. Tình trạng suy giảm miễn dịch bẩm sinh hoặc mắc phải đều dẫn tới sự giảm nồng độ các kháng thể trong máu. *Bệnh viện quân y 175 Tùy thuộc vào từng loại kháng thể bị suy giảm mà nguy cơ nhiễm trùng và tác nhân gây nhiễm trùng cũng khác nhau. Nghiên cứu giúp đánh giá vai trò của sự thay đổi nồng độ Ig huyết thanh và mối liên quan đặc điểm bệnh, nguy cơ và tiên lượng. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu tiến cứu ở 97 bệnh nhân BPTNMT đợt cấp nặng nhập viện trong thời gian từ 5/2016 – 8/2017 tại Khoa Lao và Bệnh phổi – BVQY 103. Xét nghiệm định lượng nồng độ Ig huyết thanh trong và ngoài đợt cấp bằng bộ Kit Invitrogen (Áo), thực hiện tại Bộ môn Miễn dịch – HVQY. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Bảng 1. Nồng độ trung bình các Ig huyết thanh trong và ngoài ĐBP Nồng độ ( X ± SE) Đợt bệnh p ĐBP Ngoài ĐBP IgM 470,45±55,4 440,9±36,6 > 0,05 IgA 201,5±49,5 150,67±9,83 IgE 0,162±0,048 0,158±0,039 IgG 1322,95±99,8 1414,42±148,07 IgG1 646,63±64,88 673,66±70,22 IgG2 552,53±39,24 635,8±120,26 IgG3 189,47±16,31 168,32±13,68 IgG4 77,78±8,5 82,01±10,65 IgM và IgE giảm thấp sau đợt bùng phát của bệnh. Nồng độ kháng thể IgA trung bình tăng cao hơn trong đợt bùng phát. IgG và các phân lớp IgG1, IgG2 và IgG3 có xu hướng tăng hơn ở sau đợt bùng phát. Tuy nhiên sự thay đổi nồng độ các lớp kháng thể chưa có sự khác biệt rõ rệt trong và ngoài đợt cấp của bệnh (p > 0,05). Nguyên nhân có thể do thời gian lấy mẫu giữa 2 thời điểm chưa đủ dài để có sự CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 25 khác biệt rõ rệt. Theo lý thuyết, thời gian bán hủy của IgG là 22 ngày, IgM 5 ngày, IgA 6 ngày và IgE là 2 ngày. Bảng 2. Liên quan nồng độ Ig huyết thanh trong ĐBP với mức độ ĐBP Nồng độ ( X ± SD) Mức độ ĐBP (GOLD 2017) p Không suy hô hấp n = 58 Suy hô hấp không đe dọa tính mạng n = 19 Suy hô hấp đe dọa tính mạng n = 20 IgG 1296,4±983,4 1340,1±672 1206,6±590,6 p > 0,05 IgG1 681,4±677,4 589,5±323,7 609,6±307 IgG2 523,4±350,9 606,7±313,9 572,1±237,5 IgG3 185,7±114,3 155,8±102 210±136,1 IgG4 71,3±64,4 92,8±94,3 83,7±80,1 IgM 465,3±542,8 424,4±262,6 357,4±198,3 IgA 146,8±82,1 353±861,2 155,8±95,4 IgE 0,13±0,26 0,25±0,73 0,12±0,13 Chưa nhận thấy sự khác biệt rõ về nồng độ các kháng thể theo các mức độ của đợt bùng phát BPTNMT. Theo một số tác giả, mức độ suy giảm kháng thể có ảnh hưởng trực tiếp đến căn nguyên và mức độ nặng của tình trạng nhiễm trùng, dẫn đến biểu hiện lâm sàng khác nhau [1], [2], [3], [4]. Do không có điều kiện xét nghiệm định lượng nồng độ kháng thể tại chỗ đường thở trong đợt bùng phát nên chưa có cơ sở nhận xét chính xác về mối liên quan giữa sự thay đổi kháng thể theo mức độ đợt bùng phát. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 26 Bảng 3. Liên quan giữa nồng độ Ig ngoài ĐBP và số ĐBP/năm Nồng độ ( X ± SD) Số đợt cấp/năm p < 2 n = 9 2 – 3 n = 51 > 3 n = 37 IgG 1183,6±507 1313±778,8 1274,8±854,3 > 0,05 IgG1 643,3±292,3 640,4±435,2 661,1±747,9 IgG2 437,2±188,9 566,5±354 554,1±302,5 IgG3 234,1±106,6 188,7±110,6 151,5±120 IgG4 44,4±22,7 74,1±64,6 91,6±90,5 IgM 351,3±175 431,5±257,5 460,5±652,2 IgA 136,6±61,7 225,2±530,2 152,1±93,4 IgE 0,083±0,066 0,093±0,131 0,247±0,59 Nồng độ IgG3 cao hơn ở nhóm có ít đợt bùng phát/năm, có thể liên quan đến khả năng đáp ứng miễn dịch với một số căn nguyên nhiễm trùng hô hấp dưới và giúp hạn chế các đợt cấp do nhiễm trùng. IgG là lớp kháng thể có vai trò chính trong cơ chế bảo vệ của cơ thể chống lại các tác nhân vi khuẩn gây bệnh [5], [6]and the results were compared with those obtained in a healthy adult control group. Antibody production deficiency was defined as a failure to respond to either vaccine.\ nResults\nOne hundred seven patients were included in the study (mean age, 46.3 years. IgM và IgE có xu hướng tăng cao ở các bệnh nhân có nhiều đợt bùng phát. Điều này có thể liên quan đến vai trò đáp ứng miễn dịch với tình trạng nhiễm trùng cấp tính và tăng mẫn cảm đường thở trong các đợt bùng phát của bệnh của 2 lớp kháng thể này. Bảng 4. Tương quan giữa nồng độ Ig và PCT, CRP huyết thanh Kháng thể PCT CRP r p r p IgG 0,11 0,14 0,05 0,31 IgM 0,08 0,22 0,07 0,25 IgA 0,05 0,31 0,08 0,23 IgE 0,07 0,25 0,1 0,16 Chưa ghi nhận có sự tương quan rõ giữa nồng đồ các kháng thể và PCT, CRP CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 27 huyết thanh trong đợt bùng phát BPTNMT. PCT và CRP là các yếu tố phản ánh tình trạng và mức độ đáp ứng viêm cấp tính toàn thân, đồng thời cũng có giá trị đánh giá mức độ nặng của tình trạng nhiễm trùng trong đợt cấp của BPTNMT [7], [8], [9], [10]and procalcitonin as prognostic biomarkers in acute exacerbation of COPD”,”container- title”:”Chest”,”page”:”1058-1067”,”volu me”:”131”,”issue”:”4”,”source”:”PubMe d”,”abstract”:”BACKGROUND: A novel approach to estimate the severity of COPD exacerbation and predict its outcome is the use of biomarkers. We assessed circulating levels of copeptin, the precursor of vasopressin, C-reactive protein (CRP. Bảng 5. Liên quan nồng độ Ig và kết quả điều trị Nồng độ ( X ± SD) Kết quả điều trị p Ổn định n = 75 Thông khí hỗ trợ n = 02 Tử vong n = 20 IgG 1313,6±885,5 1674,4±105,6 1145,8±770,3 > 0,05 IgG1 645,9±547 671,4±27,5 656,3±659,9 IgG2 547,9±347 726,3±189,2 539,3±225 IgG3 190,9±110,8 157,9±142,1 23,5±2,4 < 0,05 IgG4 76,7±75,2 118,7±31 79,2±73,5 > 0,05 IgM 469±492,5 526±22,5 299±168,1 < 0,05 IgA 203,2±440,2 139,4±8,4 141,2±84,5 > 0,05 IgE 0,16±0,43 0,23±0,24 0,11±0,12 Nồng độ IgG3 và IgM giảm thấp có ý nghĩa ở nhóm tử vong so với nhóm không tử vong (p < 0,05). Nồng độ lớp IgG chung, IgA, IgE ở nhóm không tử vong cũng cao hơn so với nhóm tử vong, tuy nhiên sự khác biệt chưa rõ rệt. Cho thấy có sự suy giảm về miễn dịch dịch thể ở một mức độ nào đó ở các bệnh nhân BPTNMT giai đoạn muộn và trong các đợt bùng phát nặng có suy hô hấp và tử vong. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu bước đầu đã giúp xác định được ngưỡng giá trị trung bình của các lớp kháng thể huyết thanh ở bệnh nhân BPTNMT trong và ngoài đợt bùng phát. Làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo về miễn dịch trong BPTNMT, vì hiện tại ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào công bố về vấn đề này. Nghiên cứu cũng đã phân tích và nhận thấy một số thay đổi về nồng độ các kháng thể theo một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của BPTNMT. Chúng tôi sẽ tiếp tục phân tích thêm để làm rõ mối liên quan này, cũng như vai trò của sự thay đổi nồng độ kháng thể huyết thanh đến đặc điểm, tiên lượng TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 13 - 3/2018 28 của BPTNMT. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Karnak D., Beder S., Kayakano., et al. (2001), “IgG subclass levels in ELF in COPD”. analysis, 19, 20. 2. Qvarfordt I., Riise G.C., Andersson B.A., et al. (2001), “IgG subclasses in smokers with chronic bronchitis and recurrent exacerbations”. Thorax, 56(6), 445–449. 3. Justel M., Socias L., Almansa R., et al. (2013), “IgM levels in plasma predict outcome in severe pandemic influenza”. J Clin Virol Off Publ Pan Am Soc Clin Virol, 58(3), 564–567. 4. Reynolds H.Y. (1988), “Immunoglobulin G and Its Function in the Human Respiratory Tract”. Mayo Clin Proc, 63(2), 161–174. 5. Vendrell M., de Gracia J., Rodrigo M.J., et al. (2005), “Antibody Production Deficiency With Normal IgG Levels in Bronchiectasis of Unknown Etiology”. Chest, 127(1), 197–204. 6. McCullagh B.N., Comellas A.P., Ballas Z.K., et al. (2017), “Antibody deficiency in patients with frequent exacerbations of Chronic Obstructive Pulmonary Disease (COPD)”. PLoS ONE, 12(2). 7. Stolz D., Christ-Crain M., Morgenthaler N.G., et al. (2007), “Copeptin, C-reactive protein, and procalcitonin as prognostic biomarkers in acute exacerbation of COPD”. Chest, 131(4), 1058–1067. 8. Saldías P.F., Díaz P.O., Dreyse D.J., et al. (2012), “Etiology and biomarkers of systemic inflammation in mild to moderate COPD exacerbations”. Rev Médica Chile, 140(1), 10–18. 9. Mohamed K.H., Abderabo M.M., Ramadan E.S., et al. (2012), “Procalcitonin as a diagnostic marker in acute exacerbation of COPD”. Egypt J Chest Dis Tuberc, 61(4), 301–305. 10. Jia T.G., Zhao J.Q., and Liu J.H. (2014) “Serum inflammatory factor and cytokines in AECOPD”. Asian Pac J Trop Med, 7(12), 1005–1008.
File đính kèm:
- dac_diem_nong_do_immunoglobulin_huyet_thanh_va_moi_lien_quan.pdf