Đặc điểm ngôn ngữ trong các bài hát lượn của người Nùng ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang

Cũng như tất cả các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, người Nùng có những nét văn hóa, văn nghệ đặc

sắc riêng làm nên sắc màu đa dạng cho 54 dân tộc Việt Nam.

Trong vốn văn nghệ truyền thống của dân tộc Nùng, hát lượn

chính là một trong những di sản văn hóa mà người Nùng đã

dày công xây dựng từ thời “trời làm nạn hồng thủy/ gây mưa to

nước lớn” và truyền qua các thế hệ cho đến ngày nay. Nội dung

chính của bài viết tập trung vào việc tìm hiểu đặc điểm ngôn

ngữ trong các bài hát lượn của người Nùng ở phương diện hình

thức và ngữ nghĩa. Tư liệu của bài viết là 17 bài hát lượn của

người Nùng do cộng tác viên Sùng Seo Chỉ và Sùng Già Sang

ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang cung cấp. Các tư liệu này đã

được nhóm tác giả ghi âm, phiên âm, dịch nghĩa, dịch văn học

và văn bản hóa để phục vụ cho việc nghiên cứu.

pdf 8 trang kimcuc 4680
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm ngôn ngữ trong các bài hát lượn của người Nùng ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm ngôn ngữ trong các bài hát lượn của người Nùng ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang

Đặc điểm ngôn ngữ trong các bài hát lượn của người Nùng ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
123Volume 8, Issue 2
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRONG CÁC BÀI HÁT LƯỢN CỦA 
NGƯỜI NÙNG Ở HUYỆN XÍN MẦN, TỈNH HÀ GIANG*
Nguyễn Thu Quỳnha
Sùng Seo Lítb
Cũng như tất cả các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, người Nùng có những nét văn hóa, văn nghệ đặc 
sắc riêng làm nên sắc màu đa dạng cho 54 dân tộc Việt Nam. 
Trong vốn văn nghệ truyền thống của dân tộc Nùng, hát lượn 
chính là một trong những di sản văn hóa mà người Nùng đã 
dày công xây dựng từ thời “trời làm nạn hồng thủy/ gây mưa to 
nước lớn” và truyền qua các thế hệ cho đến ngày nay. Nội dung 
chính của bài viết tập trung vào việc tìm hiểu đặc điểm ngôn 
ngữ trong các bài hát lượn của người Nùng ở phương diện hình 
thức và ngữ nghĩa. Tư liệu của bài viết là 17 bài hát lượn của 
người Nùng do cộng tác viên Sùng Seo Chỉ và Sùng Già Sang 
ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang cung cấp. Các tư liệu này đã 
được nhóm tác giả ghi âm, phiên âm, dịch nghĩa, dịch văn học 
và văn bản hóa để phục vụ cho việc nghiên cứu.
Từ khóa: Hát lượn; Người Nùng; Đặc điểm ngôn ngữ; 
Huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang.
Đại học Sư phạm Thái Nguyên
a Email: nguyenthuquynh@dhsptn.edu.vn
b Email: sunglit89@gmail.com
Ngày nhận bài: 25/5/2019
Ngày phản biện: 2/6/2019
Ngày tác giả sửa: 7/6/2019
Ngày duyệt đăng: 12/6/2019
Ngày phát hành: 21/6/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/312
1. Đặt vấn đề
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, trong đó 
có 53 dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 13% dân số 
cả nước. Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ, văn hóa 
và phong tục tập quán riêng tạo nên bức tranh đa 
sắc màu cho cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 
Trong đó, dân tộc Nùng có số dân là 968.800 người 
(2009), đứng thứ 7 về dân số trong 54 dân tộc ở 
Việt Nam. Đây là dân tộc có vốn văn hóa, văn nghệ 
truyền thống phong phú, giàu bản sắc. Một trong 
những điểm làm nên nét đặc sắc trong văn hóa 
của người Nùng chính là những làn điệu hát lượn 
truyền thống. Từ việc tìm hiểu về đặc điểm ngôn 
ngữ trong các bài hát lượn của người Nùng ở huyện 
Xín Mần, tỉnh Hà Giang, bài viết phân tích rõ giá 
trị nghệ thuật của các bài hát lượn của người Nùng; 
từ đó góp phần tôn vinh những nét đặc sắc về mặt 
văn học nghệ thuật của dân tộc Nùng ở huyện Xín 
Mần, tỉnh Hà Giang nói riêng và đồng bào dân tộc 
Nùng trên lãnh thổ Việt Nam nói chung. Kết quả 
nghiên cứu của bài viết sẽ cung cấp những tư liệu 
bổ ích cho việc tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc 
Nùng; phục vụ cho việc xây dựng chương trình và 
nội dung giảng dạy môn học tự chọn Tiếng dân 
tộc; cung cấp ngữ liệu phục vụ cho việc biên soạn 
chương trình văn học địa phương ở khu vực miền 
núi phía Bắc, nhằm đáp ứng được yêu cầu của 
chương trình giáo dục phổ thông mới thực hiện 
từ năm 2020.
2. Hát lượn của người Nùng ở huyện Xín 
Mần, tỉnh Hà Giang.
2.1. Vài nét về lượn, hát lượn của người Nùng 
ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang
Lượn là tên gọi các làn điệu dân ca của người Thái, 
Tày và một số ngành Tày, Nùng. Theo nhà nghiên 
cứu Vương Toàn, “lượn” mang hai nghĩa. Nghĩa 
rộng: lượn chỉ toàn bộ kho tàng dân ca người Tày 
- Nùng, bao gồm cả then (lượn then), hát đám cưới 
(lượn quan làng), phuốc pác (lượn phuốc pác) và 
phong slư (lượn phong slư) Nghĩa hẹp: lượn là 
những điệu hát giao duyên chỉ riêng của người Tày, 
Nùng, người Thái. Phổ biến hơn cả là cách gọi tên 
lượn theo nghĩa hẹp, tức là bộ phận hát giao duyên 
đối đáp.
Người Nùng ở Xín Mần gọi loại hình dân ca 
trữ tình của họ là lượn, một điệu hát tương tự như 
hát ví, hát quan họ của người Kinh. Nội dung của 
những điệu hát lượn thường đề cập đến mọi mặt 
của đời sống sinh hoạt; ca ngợi cảnh giàu đẹp 
của quê hương; ca ngợi cuộc sống lao động, sản 
xuất; bộc lộ tình cảm nam nữ Trong quá trình 
tồn tại và phát triển, hát lượn luôn có mặt trong 
đời sống của người Nùng, không chỉ như một nét 
* Bài viết là sản phẩm của đề tài khoa học cấp Nhà nước: “Nghiên cứu chính sách và giải pháp bảo tồn những ngôn ngữ dân 
tộc thiểu số có nguy cơ mai một”, mã số: ĐTĐLXH – 01/18
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
124 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
văn hóa mà còn mang tính chất tâm linh, nghi lễ 
như: hát mừng đám cưới, lên nhà mới, hát giao 
duyên, hát trong các lễ hội cầu mùa đầu xuân 
của người Nùng Lời ca tạo không khí phấn 
khởi, sảng khoái, giúp cho con người có được 
niềm vui, thêm tin yêu cuộc sống. Người ta có thể 
hát bất cứ lúc nào, chỗ nào, miễn là có đối tượng 
hát. Trước khi hát, họ phải bắt chuyện với nhau, 
nếu thấy hợp, ăn ý thì sẽ hỏi thăm nhau qua những 
câu lượn. Chính vì vậy, tiếng hát lượn vẫn được lưu 
truyền mãi cho đến hôm nay.
Từ lâu, huyện Xín Mần vẫn được biết đến là nơi 
có phong trào hát lượn sôi nổi nhất so với các địa 
bàn khác trong tỉnh. Trước đây, hầu hết người Nùng 
sinh sống trên địa bàn huyện Xín Mần ai cũng biết 
hát lượn. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác 
nhau, phong trào hát lượn ở đây ngày càng bị mai 
một và đang rất cần được phục dựng, bảo tồn. Hiện 
nay, chỉ còn một số ít người Nùng ở Xín Mần lưu 
giữ được trong trí nhớ những bài “lượn” cổ. Phần 
lớn các nghệ nhân tuổi đã cao, chỉ còn một số ít 
đủ minh mẫn và có khả năng truyền dạy. Những 
văn bản liên quan đến các bài lượn cũng còn lại rất 
hiếm, chủ yếu là những bản chép tay đã nhàu nát 
theo thời gian.
2.2. Đặc điểm ngôn ngữ trong các bài hát lượn 
của người Nùng ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang 
xét về mặt hình thức
2.2.1. Kết cấu của một bài hát lượn
a. Đặc điểm về tính liên kết và mạch lạc trong 
các bài hát lượn
Về hình thức, hát lượn chủ yếu được sáng tác 
theo thể văn vần, dựa trên đó người hát có thể hát. 
Lời thơ dùng để hát và giai điệu lời hát được căn cứ 
vào từng thể thơ, còn nhạc đệm thì phụ thuộc vào 
từng giai điệu hát. Như vậy, lời là thành phần quan 
trọng tạo nên nghệ thuật biểu diễn âm nhạc trong 
hát lượn. Điều đầu tiên dễ nhận thấy nhất là đa số 
các bài hát lượn đều được viết theo thể 5 chữ, mỗi 
bài hát thường có rất nhiều câu. Nhìn khái quát, rõ 
ràng tính chất “không ngắn gọn” là một đặc điểm dễ 
nhận thấy nhất và bao trùm trong hát lượn. Có bài lên 
đến hàng trăm câu, mỗi câu hát lại có sự ngắt nhịp, 
ngân nga rất dài.
Trong kết cấu các bài hát lượn, một số bài có 
cấu trúc tựa như một câu chuyện, có đầu có cuối, 
có những tình tiết của sự kiện (có thể gọi là “cốt 
truyện”). Câu chuyện ấy được thuật qua lời thoại 
của người hát, đây chính là một yếu tố tạo nên tính 
liên kết trong văn bản hát lượn. Đó là những tích 
truyện gắn liền với đời sống văn hóa, tín ngưỡng 
của người Nùng.
Thông qua bài hát lượn dưới đây, chúng ta thấy 
yếu tố cốt truyện được thể hiện một cách rõ nét. Đó 
là một câu chuyện có mở đầu – diễn biến – kết thúc. 
Mỗi một phần đều được miêu tả chi tiết, rõ ràng.
Chẳng hạn, trong bài Tẳng rân (Lượn làm nhà), 
ở phần mở đầu đã nói: 
Rọt shuông máy này 
ma
Từ khi đó trở về
Shiêng rao bộ ẩu ha Không lấy cỏ lợp nhà
Cha ran bộ ẩu thọc Không lấy lạt buộc nữa
Thời xa xưa, người Nùng làm nhà lợp bằng cỏ, 
bằng lá và dùng những dây lạt để buộc chúng lại 
với nhau. Trong ba câu mở đầu của bài hát lượn về 
làm nhà đã có hai từ bộ ẩu (không lấy) được lặp lại 
trong câu Shiêng rao bộ ẩu ha và câu Cha ran bộ ẩu 
thọc. Đó là một lời khẳng định cuộc sống từ đó trở 
về sau đã có sự thay đổi, không còn lấy những vật 
liệu trước kia để làm nhà nữa. Mở đầu bằng cách 
liên tưởng, so sánh, kể lại về quá khứ góp phần làm 
cho người nghe cảm thấy tò mò, hứng thú để nghe, 
để biết diễn biến về sau như thế nào.
Một đặc tính khác cũng dễ nhận thấy trong các 
bài hát lượn là sự lặp lại (còn gọi là “trùng điệp”). 
Tính lặp lại trong văn bản hát lượn cũng được xem 
như một phương tiện quan trọng để liên kết văn 
bản. Tính lặp ở đây biểu biểu hiện ở cả ba thành tố 
trong văn bản: Lặp từ, lặp ngữ và lặp cấu trúc. 
Mỗi bài hát lượn đều có lặp từ, số lượng từ được 
lặp lại phụ thuộc vào nội dung mà bài hát lượn đề 
cập đến, nếu nội dung càng phong phú và đa dạng 
thì các từ được lặp ở trong bài hát sẽ nhiều hơn và 
đa dạng hơn. Chẳng hạn trong bài Lứn cha chỉn 
(Lượn làm ăn):
Con hóc shac chảng 
sủng
Người đi lính cầm súng
Dạng lìu lủng cháng 
nghin
Người đi chơi cầm đàn
Con cha chỉn chảng rảo Người đi làm cầm cụ
Dạng bạch sủng lìu pổ Người vác súng đi săn
Con cha chỉn lìu pả Người làm ăn lên 
nương
Đây là bài lượn kể về cảnh làm ăn của người 
Nùng. Lặp lại ở đầu các câu là các từ: “con” 
(người), “dạng” (người) tạo cho câu ca và văn bản 
có sự liên kết chặt chẽ với nhau, đồng thời tạo nên 
nhịp điệu cho lời hát. Sự lặp lại đó khiến cho người 
ta cảm thấy dễ nhớ hơn, lời ca dễ đi vào lòng hơn. 
Người nghe cũng dễ dàng hiểu rõ hơn nội dung bài 
hát đang được nói đến; đó là niềm hăng say, sự tất 
bật của những con người lao động đang say mê với 
công việc của mình.
Như vậy, có thể thấy, các yếu tố tạo nên sự liên 
kết và mạch lạc trong văn bản hát lượn chính là yếu 
tố cốt truyện, sự diễn đạt, tính lặp lại. Nhờ những 
yếu tố này mà lời ca thêm mượt mà, uyển chuyển, 
dễ thuộc, dễ nhớ và có sức lôi cuốn đặc biệt.
b. Các dạng kết cấu trong các bài hát lượn
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
125Volume 8, Issue 2
Kết quả khảo sát các dạng kết cấu trong 17 bài 
hát lượn thu được như sau:
Bảng 1: Phân loại các bài hát lượn theo kết cấu
STT Loại kết cấu Số lượng bài Tỉ lệ (%)
1 Kết cấu một chiều 5 29,41
2 Kết cấu trung gian 5 29,41
3 Kết cấu trùng điệp 4 23,5
4 Kết cấu đối đáp 3 17,65
Tổng 17 100
Từ bảng số liệu trên, có thể thấy, trong hát lượn 
thường gặp nhiều nhất là kết cấu một chiều (chiếm 
29,41%) và kết cấu trung gian (chiếm 29,41%). 
Kết cấu một chiều là dạng kết cấu liên kết một 
lượt lời ca do một chủ thể phát ngôn diễn xướng. 
Trong hát lượn, kết cấu một chiều được sử dụng 
để liên kết những lời ca, không có đối đáp, đó là 
những lời tự sự kể về cuộc sống trong quá khứ 
và hiện tại. Loại kết cấu này được thể hiện rõ nét 
ở trong các bài hát lượn về chủ đề tình yêu đôi lứa, 
phù hợp để con người giãi bày những cảm xúc, tâm 
tư chất chứa ở sâu trong lòng. Người hát có thể tự 
hát cho mình nghe, không cần có đối tượng nên rất 
thoải mái trong việc bộc lộ những nỗi niềm, ưu tư. 
Nếu có đối tượng nghe thì người hát cũng rất tự 
nhiên trong việc thể hiện tình cảm của mình, bởi vì 
đối tượng chỉ nghe chứ không đối đáp lại. 
Kết cấu trung gian là loại kết cấu không phải kết 
cấu một chiều và cũng không hoàn toàn là kết cấu 
đối đáp. Ở đây, người hát vừa đóng vai trò là người 
kể, vừa là người đối thoại, có lời khi thì một mình 
nói, có khi lại có lời đáp chính mình. Đây là loại kết 
cấu khó phân biệt nhất, người hát vừa là nhân vật 
chính ở trong câu chuyện, kể lể về câu chuyện của 
mình (có thể có đối tượng nghe hoặc không). Người 
hát lại vừa đóng vai là người đối thoại trả lời chính 
những câu hỏi mà mình đã đưa ra. 
Kết cấu trùng điệp chiếm 23,5%. Đây là loại 
kết cấu mà từng đoạn, câu, cụm từ, từ được lặp đi 
lặp lại trong một văn bản, góp phần nhấn mạnh thể 
hiện nội dung được đề cập trong bài hát lượn. Qua 
khảo sát tư liệu, có thể thấy rằng hầu hết các bài 
hát lượn đều sử dụng kết cấu này ở mức độ đậm 
đặc, tạo nên đặc trưng riêng trong lối diễn tả. Cũng 
nhờ lối kết cấu này đã làm cho các bài hát lượn 
trở nên dễ nhớ dễ thuộc và phổ biến với mọi đối 
tượng, ai cũng có thể nghe một lần rồi nhớ, tạo 
nên một âm hưởng ngân nga vang dài khi người 
ta cất lên tiếng hát với sự luyến láy, đồng thời, 
nhấn mạnh được các chủ đề, nội dung mà người 
hát muốn thể hiện. Lối kết cấu này phù hợp để 
cho tác giả dân gian kể về những công việc thường 
nhật tất bật, hối hả, lặp đi lặp lại hàng ngày hay để 
nhấn mạnh một cảm xúc dâng trào muốn cho đối 
tượng lắng đọng lại trong tâm trí cuả mình. Cũng có 
thể là những điều người ta muốn khẳng định, chắc 
chắn như “đinh đóng cột” mong cho người khác tin 
tưởng, thấu hiểu hay đồng cảm. 
Bên cạnh kết cấu trùng điệp cả khổ, đoạn thơ, 
từ, hát lượn còn sử dụng kết cấu trùng điệp dòng, 
có thể điệp hai dòng đầu, hai dòng giữa cũng có thể 
điệp hai dòng cuối. Sự xuất hiện của kết cấu trùng 
điệp thể hiện được những cung bậc tình cảm của 
nhân vật trữ tình, đồng thời làm tăng nội dung thông 
tin muốn đề cập, làm cho câu ca thêm mạch lạc, 
hình tượng nhân vật trữ tình được nổi bật hơn. Việc 
sử dụng kết cấu trùng điệp là một trong những đặc 
trưng nổi bật của hát lượn đặc biệt đối với mảng đề 
tài tình yêu. Việc sử dụng kết cấu trùng điệp đã làm 
cho bài ca trở nên dễ học, dễ thuộc và dễ nhớ hơn. 
Điều này đã làm cho hát lượn khác với dân ca các 
dân tộc khác. Ngoài ra, các bài hát lượn còn phản 
ánh rõ nét tâm lý của người Nùng: thật thà, chất 
phác, ưa cụ thể, cần sự chính xác để khắc họa được 
hình ảnh tạo ấn tượng mạnh mẽ và có sức thuyết 
phục cao.
Kết cấu đối đáp chiếm 17,65%. Đây là dạng kết 
cấu được sử dụng trong các bài hát giao duyên. Kết 
cấu đối đáp là dạng kết cấu gồm những lời thoại, 
gồm hai hay nhiều lời lượt trao đáp, tương tác với 
nhau, do hai chủ thể cùng thực hiện hành động. 
Đây là loại kết cấu được sử dụng phổ biến trong các 
bài hát lượn về tình yêu; các chàng trai, cô gái có 
tình cảm với nhau có làm quen nhau họ sẽ hát đối 
đáp để giao duyên với nhau. Hát đối đáp có thể giữa 
hai người đối với nhau hoặc có thể hai bên, một bên 
nam, một bên nữ họ đối nhau qua từng lượt lời.
Như vậy, có thể thấy, trong các bài hát lượn của 
người Nùng ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang phổ 
biến nhất vẫn là những bài dân ca có kết cấu một 
chiều, ở mức ít hơn là kết cấu trùng điệp, kết cấu đối 
đáp và ít phổ biến hơn cả là kết cấu đối đáp.
2.2.2. Thể, vần, nhịp điệu trong các bài hát lượn
a. Thể trong các bài hát lượn
Kết quả khảo sát 17 bài hát lượn cho thấy các bài 
hát lượn đều được viết theo thể thơ 5 chữ. Có thể 
nói đây là thể thơ đặc trưng trong hát lượn. 
Lứn bảo shao Tình yêu
Noc yển ray tuồng các Chim én đậu cột rào
Noc bác ray tuồng shổi Chim sẻ đậu vườn rau
Lăm tap pẳn păn sội Gió thổi mưa theo lối
Và pảu ôi păn púc Thổi từng hàng từng 
hàng
... ...
păn pắt bộ long na thành vịt không thích 
nước
păn pả bộ long rải thành cá không xuống 
ao
pả sình nháu hên rải dù đang ở trên bờ
bộ vải na long văng vẫn ngoảnh mặt làm 
ngơ
Từ kết quả sưu tầm điền dã, nhóm nghiên cứu 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
126 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
nhận thấy số tiếng trong mỗi câu là đều là 5. Thể 5 
chữ này đã tạo cho lời ca thêm uyển chuyển, đồng 
thời bày tỏ được sự tình trong lời ca, giúp người 
nghe hiểu một cách thấu đáo sự việc được nói tới. 
Một đặc điểm dễ nhận thấy trong hát lượn đó là tính 
chất kể lể, giãi bày tâm tư tình cảm để tương xứng 
với điều này thì thể 5 chữ có thể xem là thể thơ phù 
hợp nhất. 
b. Vần trong các bài hát lượn
Dựa vào tư liệu khảo sát có thể nhận xét chung 
là số tiếng của các câu ca trong hát lượn là 5 tiếng. 
Do đó cách gieo vần và cách hợp vần chủ yếu là 
ở cuối mỗi câu, tuy nhiên vẫn có cách gieo vần ở 
giữa các câu và đầu câu.
Chúng tôi tổng hợp về vần trong các bài hát 
lượn theo vị trí hiệp vần và mức độ hiệp vần như 
sau:
Bảng 2: Bảng tổng hợp phân loại vần theo vị trí hiệp vần 
trong các bài hát lượn
STT Kiểu
Số lượng (âm 
tiết hiệp vần)
Tỉ lệ (%)
1 Vần giãn cách 163 80, ...  sau:
Bảng 4: Trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ con người 
trong các bài hát lượn
STT Từ ngữ Nghĩa Lượt xuất hiện Tỉ lệ (%)
1 rau ta/ chúng ta 19 17,6
2 đuổng anh/ bạn 16 14,8
3 chịu anh 14 12,9
4 lung anh/bạn 13 12,1
5 lục con/ cái 7 6,1
6 pồ mề bố mẹ 6 5,5
7 ra tôi 6 5,5
8 lin con 5 4,7
9 pì anh 5 4,6
10 shay cán bộ 4 3,8
11 con người 4 3,8
12 lạ con 4 3,8
13 dạng người 3 2,8
14 châu rân chủ nhà 1 0,9
15 pu Nong người Nùng 1 0,9
Tổng 108 100
Trong đời sống sinh hoạt người Nùng ít khi gọi 
tên hay xưng tên rõ ràng, nên chúng ta gặp rất ít các 
từ ngữ chỉ người bằng các tên gọi cụ thể. Họ kiêng 
gọi tên cụ thể vì như vậy được cho là thiếu lịch sự 
và tránh các từ xưng hô thiếu tôn trọng. Đặc biệt, 
trong các bài hát lượn điều đó lại càng kiêng kị hơn, 
bởi hát lượn là nơi con người ta bày tỏ những tâm 
tình, nói về những điều tốt đẹp, những điều hay lẽ 
phải. Cụ thể, qua khảo sát tư liệu nhóm nghiên cứu 
nhận thấy, các bài hát lượn thường xuất hiện các từ 
ngữ chỉ người chung chung hay những từ thể hiện 
sắc thái thân mật. Vì vậy, thường chỉ gặp những 
từ ngữ tiêu biểu như: rau (ta/chúng ta), chịu (anh/
bạn)...
Một điều đặc biệt, cũng là đặc trưng rất riêng 
trong hát lượn đó là các từ chỉ người như: rau (ta/
chúng ta), đuổng (anh/ bạn), chịu (anh), lung (anh/
bạn) chiếm phần lớn, nhất là trong nhóm các bài hát 
lượn về tình yêu đôi lứa. Người Nùng quan niệm 
rằng, tiếng hát tình yêu là tiếng hát từ trái tim mình, 
thể hiện được sâu sắc thế giới nội tâm phong phú 
và tâm hồn khao khát yêu đương, là nơi sâu thẳm 
trái tim để họ gửi gắm những tiếng lòng chất chứa 
của mình.
Cách xưng hô đặc biệt được người ta chú trọng 
trong các vai vế, độ tuổi, sự quen biết và các mối 
quan hệ văn hóa, đặc biệt là trong tình yêu, cách 
xưng hô lại càng cần ý nhị, lịch sự. Từ việc sử dụng 
các từ ngữ chỉ người trong một bài hát lượn, ở đó là 
những mã văn hóa và phần nào thấy được đặc trưng 
tư duy của dân tộc Nùng. 
b. Đặc điểm của trường từ vựng – ngữ nghĩa chỉ 
động, thực vật 
Trong hát lượn, trường từ vựng – ngữ nghĩa chỉ 
động, thực vật rất phong phú. Kết quả thống kê về 
trường từ vựng - ngữ nghĩa này như sau:
Bảng 5: Trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ động vật trong 
các bài hát lượn
TT Từ ngữ Nghĩa Lượt xuất hiện Tỉ lệ (%)
1 noc chim 5 23,9
2 noc yển chim én 5 23,9
3 má ngựa 3 14,4
4 pả cá 2 9,6
5 miêng màu chuồn chuồn 1 4,7
6 vai trâu 1 4,7
7 nhồi ve 1 4,7
8 pắt vịt 1 4,7
9 noc ả quạ đen 1 4,7
10 noc bác
chim diều 
hâu
1 4,7
Tổng 21 100
Các từ ngữ chỉ động vật trong các bài hát lượn 
thường là chỉ những vật nuôi gần gũi với cuộc sống 
của con người; đó cũng có thể là muông thú trong 
rừng sâu, núi thẳm. Những con vật được thuần hóa 
và nuôi dưỡng hay những con vật hoang dã sống ở 
ngoài tự nhiên, trong tâm thức của người Nùng, đều 
gắn liền với một quan niệm, một biểu tượng riêng. 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
128 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
Bảng 6: Trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ thực vật trong 
các bài hát lượn
STT Từ ngữ Nghĩa
Lượt 
xuất hiện
Tỉ lệ (%)
1 khâu thóc/ lúa 8 42,1
2 máy cây 4 21,0
3 bẩu ha lá cỏ 1 5,3
4 đọc pẳn hoa trắng 1 5,3
5 đọc quạt hoa lê 1 5,3
6 lục siu cây cỏ dại 1 5,3
7 máy thảng cây trúc 1 5,3
8 máy dăm cây thông 1 5,2
9 máy vạc cây vạc 1 5,2
Tổng 19 100
Kết quả thống kê cho thấy giới thực vật trong 
hát lượn xuất hiện tương đối đa dạng. Xuất hiện 
nhiều nhất là khâu (thóc/ lúa), thứ hai là máy (cây). 
Sở dĩ khâu (thóc/lúa) lại chiếm một vị trí xuất hiện 
ở trong các bài hát lượn bởi nó là lương thực nuôi 
sống con người, nó gắn bó với cuộc sống lao động 
của những người nông dân. Cuộc sống của họ dựa 
mọi thứ vào khâu, khâu còn được coi như một vị 
thần, năm nào mất mùa người ta sẽ phải cúng bái 
thần lúa, thần mưa hay có cả lễ hội Lồng Tồng đầu 
xuân để mong một năm mới sức khỏe và bội thu. 
Mỗi một gia đình đều có một cái thúng rất to để 
chứa thóc và ngày lễ tết làm bánh trái đặt lên trên 
thúng để cúng mong mùa màng bội thu, thóc luôn 
đầy thúng.
2.3.2. Đặc điểm của trường từ vựng – ngữ 
nghĩa chỉ không gian – thời gian
a. Đặc điểm của trường từ vựng – ngữ nghĩa chỉ 
không gian
Kết quả thống kê về trường từ vựng - ngữ nghĩa 
này như sau:
Bảng 7: Trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ không gian 
trong các bài hát lượn
STT Từ ngữ Nghĩa
Lượt xuất 
hiện
Tỉ lệ (%)
1 nắm mưng Đất nước 5 45,4
2 lủng Bản làng 3 27,3
3 Mưng Hạc Trung Quốc 1 9,1
4 Mưng Chịu Việt Nam 1 9,1
5 Xỉn Mần Xín Mần 1 9,1
Tổng 11 100
Quan niệm của người Nùng về không gian tương 
đối đơn giản. Nắm mưng (đất nước) được xuất hiện 
khá nhiều trong bài hát lượn, bởi người Nùng nhận 
thức được rằng một quốc gia độc lập, tự do, có chủ 
quyền là cơ sở để mình có thể tồn tại, được sống 
một cuộc sống bình yên. Vì thế mà nắm mưng cũng 
gắn liền với các bài lượn vừa như để khẳng định 
người Nùng là công dân của một nước, vừa thể 
hiện lòng tự tôn, tự hào về dân tộc, đất nước mà 
cộng đồng dân tộc Nùng đang sống. Cộng đồng 
người Nùng biết được giá trị truyền thống, lịch sử 
của dân tộc mình gắn liền với mỗi thời đại, mỗi 
giai đoạn lịch sử chung của đất nước.
b. Đặc điểm của trường từ vựng – ngữ nghĩa chỉ 
thời gian
Kết quả thống kê về trường từ vựng – ngữ nghĩa 
này như sau:
Bảng 8: Trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ thời gian trong 
các bài hát lượn
STT Từ ngữ Nghĩa Lượt xuất hiện
Tỉ lệ 
(%)
1 chấu sớm 2 15,5
2 đân chỉnh mùa xuân 1 7,6
3 đân nghì tháng 2 1 7,6
4 đân sham tháng 3 1 7,6
5 đân shi tháng 4 1 7,6
6 shai muộn 1 7,6
7 rọt từ khi 1 7,6
8 năm thăng chư đến bây giờ 1 7,6
9 ship sham văn 13 ngày 1 7,6
10 ship ha văn 15 ngày 1 7,6
11 khụp này bây giờ 1 7,6
12 miu này mùa này 1 7,6
Tổng 13 100
Qua bảng thống kê trên, có thể thấy trong 17 
bài hát lượn, nội dung phản ánh thời gian là 12 
đơn vị từ ngữ với số lượt xuất hiện là 13. Các từ 
ngữ chỉ thời gian đều xuất hiện với tần số thấp, 
tuy nhiên nội dung phản ánh của trường từ vựng 
– ngữ nghĩa chỉ thời gian trong các bài hát lượn 
khá phong phú. Mỗi từ ngữ đều phản ánh được 
một quan niệm, một biểu tượng riêng về thời 
gian trong văn hóa của người Nùng. Thời gian 
được người Nùng quan niệm tương đối rõ ràng 
và nó cũng được đưa vào các bài hát lượn với 
biểu tượng tiêu biểu là biểu tượng đân chỉnh (mùa 
xuân). Trong tâm thức của người Nùng, đân chỉnh 
(mùa xuân) là mùa đẹp nhất, mùa được mong đợi 
nhất. Đối với người Nùng thì đây là mùa được nghỉ 
ngơi, vui chơi sau một năm vất vả. Đó là mùa mà 
con người tổ chức ăn uống, vui chơi, là ngày Tết 
chung của cả cộng đồng. Tết cổ truyền của người 
Nùng cũng có những nét riêng biệt, với những món 
ăn hay bánh trái và các nghi lễ đón tết đều khác với 
dân tộc khác. 
2.3.3. Đặc điểm của trường từ vựng – ngữ 
nghĩa chỉ trạng thái tâm sinh lý
Trong hát lượn các từ ngữ liên quan đến trường 
từ vựng ngữ nghĩa tâm sinh lí tương đối phong phú. 
Kết quả thống kê thu được như sau:
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
129Volume 8, Issue 2
Bảng 9: Trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trạng thái tâm 
sinh lí trong các bài hát lượn
STT Từ ngữ Nghĩa
Lượt xuất 
hiện
Tỉ lệ (%)
1 shai rỉ trái tim 1 11,1
2 bẳn vui 1 11,1
3 nê ngủ 1 11,1
4 lỉ ving vui vẻ 1 11,1
5 nừ nhớ 1 11,1
6 dai lừa 1 11,1
7 tàu map phản bội 1 11,1
8 bộ shin không tin 1 11,1
9 pàu vội 1 11,2
Tổng 9 100%
Qua bảng thống kê, có thể thấy xuất hiện nhiều từ 
ngữ thuộc trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trạng thái 
tâm sinh lý. Các từ ngữ này cũng gắn với một số biểu 
tượng để con người gửi gắm tâm tư, tình cảm, phổ 
biến hơn cả có lẽ là biểu tượng shai ri (trái tim). Từ 
xa xưa, người Nùng vẫn tin rằng trái tim là trung tâm 
của mọi cảm xúc. Vì vậy, trái tim luôn được người 
Nùng quan niệm đó là biểu tượng của tình yêu. Trải 
qua thời gian, đến nay, trái tim vẫn là biểu tượng của 
một tình yêu vĩnh hằng. Do quan niệm của người 
Nùng như vậy nên trong các bài lượn về tình yêu 
luôn xuất hiện hình ảnh trái tim, để người Nùng 
chứng tỏ sự chân thành của tình cảm và mong ước 
có được một tình yêu viễn mãn, tràn đầy hạnh phúc. 
Trái tim còn lại biểu tượng cho sự nhiệt huyết của 
con người trong công việc trong cuộc sống hay tình 
thương giữa con người với con người.
Như vậy, có thể thấy, xét về mặt ngữ nghĩa, 
các từ ngữ được dùng trong hát lượn có thể được 
phân biệt thành nhiều trường từ vựng - ngữ nghĩa 
phong phú, đa dạng và phản ánh một phần đời sống 
văn hóa tinh thần cũng như đời sống sinh hoạt của 
người Nùng, phản ánh tư duy nhận thức của họ. Đó 
là trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ sự vật (con vật, 
thực vật, thiên nhiên); trường từ vựng - ngữ nghĩa 
chỉ không gian - thời gian; trường từ vựng - ngữ 
nghĩa chỉ trạng thái tâm sinh lý Đó đều là các 
từ ngữ quen thuộc trong đời sống sinh hoạt hàng 
ngày của người Nùng, phản ánh nhu cầu giao tiếp 
và bộc lộ tâm tư tình cảm, mong muốn gắn kết nhau 
trong lao động cũng như trong mọi hoạt động của 
đời sống của đồng bào dân tộc Nùng. 
3. Kết luận 
Nếu như ngôn từ là những đường nét, họa tiết hoa 
văn đủ màu sắc tô điểm cho chiếc cầu hát lượn nối 
liền cõi thực với cõi thiêng trong đời sống tâm linh 
của người Nùng thì có thể thấy hát lượn Nùng giống 
như một bảo tàng thu nhỏ lưu giữ những giá trị văn 
hóa bền vững, đặc biệt là đối với ngôn ngữ Nùng. Kết 
quả thu thập tư liệu và nghiên cứu của bài viết cũng 
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc làm tư liệu/
ngữ liệu cho việc biên soạn chương trình, tài liệu dạy 
học môn Tiếng dân tộc và Văn học địa phương trong 
chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ được thực 
hiện từ năm 2020. 
Hát lượn Nùng tuân thủ theo mô thức nhất định. 
Sự góp mặt của các yếu tố cốt truyện, sự lặp lại, làm 
cho nhiều bài hát mang tính “liền mạch”, có vần 
điệu, đồng thời giống như câu chuyện kể hấp dẫn, 
li kì, đã góp phần làm nên tính trình tự của các tình 
tiết trong khi hát. Các kết cấu đặc trưng trong hát 
lượn Nùng là: kết cấu một chiều, kết cấu đối đáp, 
kết cấu trùng điệp và kết cấu trung gian được sử 
dụng linh hoạt (trong đó kết cấu một chiều là phổ 
biến hơn cả). Điều này đã khiến cho hát lượn mang 
dáng vẻ một loại hình nghệ thuật mang tính nguyên 
hợp và thiên hướng kể lể. Trong hát lượn Nùng, các 
tác giả dân gian đã linh hoạt dùng cách lặp từ, lặp 
ngữ và lặp cấu trúc để tạo nên vần điệu và sự gắn 
kết trong lời ca. Số tiếng của các câu ca của bài ca 
phổ biến hơn cả là thể 5 chữ. Do đó, cách gieo vần 
và cách hợp vần cũng vô cùng đa dạng và tương đối 
phức tạp, do có những bài thuộc thể này là sự kết 
hợp giữa hát và tụng niệm, có bài là những vần thơ, 
bởi thế cách gieo vần khá linh hoạt. 
Xét về mặt ngữ nghĩa, các từ ngữ được dùng 
trong hát lượn có thể được phân biệt thành nhiều 
nhóm từ vựng, phản ánh một phần đời sống văn hóa 
tinh thần cũng như đời sống sinh hoạt của dân tộc 
Nùng. Đó là các từ ngữ chỉ sự vật hiện tượng tự 
nhiên (con vật, thực vật, thiên nhiên); đồ vật; không 
gian thời gian; con người Các từ ngữ chỉ động 
vật và thực vật trong hát lượn Nùng đã phản ánh 
môi trường sống của người Nùng, một miền rừng 
núi hoang sơ, trù phú với đặc trưng nền kinh tế tiểu 
nông tự cung tự cấp. Các từ ngữ chỉ đồ vật trong 
hát lượn đã tái hiện cuộc sống sinh hoạt của người 
Nùng trong quá khứ với tên gọi những đồ vật truyền 
thống, mang chất riêng của người Nùng, có thể xem 
như một bảo tàng dân tộc thu nhỏ đặc biệt có giá 
trị, cung cấp cho thế hệ sau muốn tìm hiểu về người 
Nùng, về phong tục tập quán của một dân tộc có 
nền văn hóa đặc sắc và độc đáo. Các từ ngữ chỉ 
trạng thái tâm sinh lý và con người đã phần nào 
phản ánh được thế giới tâm hồn, tình cảm phong 
phú và một số đặc thù trong hát lượn Nùng, đồng 
thời cũng cho thấy một thế giới tràn ngập sắc màu, 
với nhiều cung bậc tình cảm và sự độc đáo trong 
nhân sinh quan của họ. Trong hát lượn của người 
Nùng cũng có thể gặp một số biểu tượng qua các 
từ ngữ – kết quả của quá trình chuyển nghĩa, vốn 
dùng để biểu thị các sự vật hiện tượng cụ thể, lại 
được dùng để chỉ các sự vật hiện tượng khái quát 
trừu tượng khác. 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
130 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
LINGUISTIC FEATURES IN LUON SONGS BY THE NUNG PEOPLE 
IN XIN MAN DISTRICT OF HA GIANG PROVINCE
Nguyen Thu Quynha
Sung Seo Litb
Abstract: Like all other ethnic minorities in Vietnam, 
the Nung people have their own unique cultural and artistic 
features that contribute to the diversity created by 54 ethnic 
minorities in Vietnam. In the traditional culture of the Nung 
people, singing luon is one of the cultural heritages that they 
have developed since the primitive period when “there was 
catastrophic flood and heavy rain”, and it has been transmitted 
through generations. Today, this article focuses on studying the 
linguistic features of luon songs of the Nung people in terms of 
form and semantics. The material of the article is 17 luon songs 
of Nung people (provided by collaborators Sung Seo Chi and 
Sung Gia Sang in Xin Man district, Ha Giang province). These 
songs have been recorded, transcribed, translated, literarily 
translated and textualized by the authors for the purpose of the 
research.
Keywords: Luon singing; Nung people; Linguistic features; 
Xin Man, Ha Giang province
Thai Nguyen University of Education
a Email: nguyenthuquynh@dhsptn.edu.vn
b Email: sunglit89@gmail.com
Received: 25/5/2019
Reviewed: 2/6/2019
Revised: 7/6/2019
Accepted: 12/6/2019
Released: 21/6/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/312
Tài liệu tham khảo
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi 
(2009), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. 
Giáo dục, Hà Nội
Nguyễn Quang Hồng, Phan Diễm Phương 
(2016), Âm tiết tiếng Việt và ngôn từ thi ca, 
Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ 
ca, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội
Nguyễn Văn Lộc (chủ biên, 2010), Nghiên cứu 
bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hóa một 
số dân tộc thiểu số ở Việt Bắc, Nxb. Đại học 
Thái Nguyên, Thái Nguyên.
Nguyễn Đức Hiểu – Nguyễn Huệ Chi – Nguyễn 
Văn Tửu – Trần Hữu Tá (chủ biên, 2004), Từ 
điển văn học (bộ mới), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
Hoàng Nam (chủ biên, 2013), Đặc trưng văn 
hóa truyền thống 54 dân tộc Việt Nam, Nxb. 
Khoa học Xã hội, Hà Nội
Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hóa dân 
tộc của ngôn ngữ và tư duy, Nxb. Khoa học 
Xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Thị Việt Thanh – Vương Toàn (chủ 
biên) (2016), Từ điển văn hóa truyền thống 
các dân tộc, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Phạm Ngọc Thưởng (1999), Cách xưng hô 
trong tiếng Nùng, Luận án Tiến sĩ bảo vệ tại 
Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội.
Vương Toàn (2012), Sự khác biệt giữa các 
ngành Nùng Việt Nam và câu chuyện còn 
bỏ ngỏ, Báo cáo trình bày ngày 06/6/2012 
tại Hội nghị Thái học Việt Nam lần thứ tư 
VI, TP Thanh Hóa. In trong: Cộng đồng các 
tộc người ngữ hệ Thái - Kadai ở Việt Nam 
Truyền thống, hội nhập và phát triển, Nxb 
Thế giới.
Vương Toàn (2017), Văn học dân gian các 
dân tộc Nùng và Tày: Tình hình sưu tầm và 
khảo cứu. Trong: Phát huy vai trò, bản sắc 
cộng đồng các dân tộc Thái – Kadai trong 
hội nhập và phát triển bền vững. Hội nghị 
quốc gia Thái học lần 8 tại Nghệ An, Nxb 
Thế giới, 2017, tr.529-540, ISBN: 978-604-
77-3899-3. Hà Nội.

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_ngon_ngu_trong_cac_bai_hat_luon_cua_nguoi_nung_o_hu.pdf