Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàngcủa bệnh nhân vảy nến mủ tại bệnh viện da liễu thành phố Hồ Chí Minh

Mở đầu: Vảy nến mủ (VNM) có biểu hiện lâm sàng đa dạng, thương tổn da có thể khu trú hoặc toàn thân.

Trong một số trường hợp có rối loạn tổng quát.

Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân vảy nến mủ tại Bệnh viện

Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh

Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca trong khoảng thời gian từ 10/2017 – 04/2018.

Chẩn đoán dựa vào lâm sàng và xét nghiệm mô học khi cần thiết. Thực hiện các xét nghiệm công thức máu, ion

đồ máu, men gan, tốc độ lắng máu.

Kết quả nghiên cứu: Có35 ca VNM được nghiên cứu, bao gồm 31 ca (88,6%) VNM toàn thân và 4 ca

(11,4%) VNM khu trú.Tuổi trung bình là 38,4 ± 19,2. Tỷ lệ nữ/nam là 2/1. Các yếu tố thúc đẩy thường gặp là

thuốc đông y không rõ nguồn gốc, nhiễm trùng, corticosteroid. Tỷ lệ bệnh nhân có sốt, chán ăn, mệt mỏi, tăng

bạch cầu, tăng tốc độ lắng máu cao hơn ở nhóm VNM toàn thân so với nhóm VNM khu trú. Ngoài ra, tình trạng

có thương tổn vảy nến mảng cũng liên quan với đỏ da toàn thân, tổn thương móng, lưỡi bản đồ.

Kết luận: VNM biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng đa dạng và khác nhau giữa các thể bệnh. Biểu hiện tổng

quát thường gặp hơn ở thể VNM toàn thân. Ngoài ra, có sự khác biệt về đặc điểm lâm sàng giữa 2 nhóm bệnh

nhân vảy nến mủ có hoặc không có vảy nến mảng, gợi ý rằng có sự khác biệt trong cơ chế bệnh sinh của 2 thể

bệnh này.

pdf 5 trang kimcuc 5660
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàngcủa bệnh nhân vảy nến mủ tại bệnh viện da liễu thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàngcủa bệnh nhân vảy nến mủ tại bệnh viện da liễu thành phố Hồ Chí Minh

Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàngcủa bệnh nhân vảy nến mủ tại bệnh viện da liễu thành phố Hồ Chí Minh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
 45
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN VẢY NẾN MỦ 
TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Phạm Thị Kim Ngọc*, Lê Thái Vân Thanh*, Văn Thế Trung* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Vảy nến mủ (VNM) có biểu hiện lâm sàng đa dạng, thương tổn da có thể khu trú hoặc toàn thân. 
Trong một số trường hợp có rối loạn tổng quát. 
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân vảy nến mủ tại Bệnh viện 
Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh 
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca trong khoảng thời gian từ 10/2017 – 04/2018. 
Chẩn đoán dựa vào lâm sàng và xét nghiệm mô học khi cần thiết. Thực hiện các xét nghiệm công thức máu, ion 
đồ máu, men gan, tốc độ lắng máu. 
Kết quả nghiên cứu: Có35 ca VNM được nghiên cứu, bao gồm 31 ca (88,6%) VNM toàn thân và 4 ca 
(11,4%) VNM khu trú.Tuổi trung bình là 38,4 ± 19,2. Tỷ lệ nữ/nam là 2/1. Các yếu tố thúc đẩy thường gặp là 
thuốc đông y không rõ nguồn gốc, nhiễm trùng, corticosteroid. Tỷ lệ bệnh nhân có sốt, chán ăn, mệt mỏi, tăng 
bạch cầu, tăng tốc độ lắng máu cao hơn ở nhóm VNM toàn thân so với nhóm VNM khu trú. Ngoài ra, tình trạng 
có thương tổn vảy nến mảng cũng liên quan với đỏ da toàn thân, tổn thương móng, lưỡi bản đồ. 
Kết luận: VNM biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng đa dạng và khác nhau giữa các thể bệnh. Biểu hiện tổng 
quát thường gặp hơn ở thể VNM toàn thân. Ngoài ra, có sự khác biệt về đặc điểm lâm sàng giữa 2 nhóm bệnh 
nhân vảy nến mủ có hoặc không có vảy nến mảng, gợi ý rằng có sự khác biệt trong cơ chế bệnh sinh của 2 thể 
bệnh này. 
Từ khóa: vảy nến, vảy nến mủ 
ABSTRACT 
CLINICAL AND PARACLINICAL CHARACTERICTICS OF PUSTULAR PSORIATIC PATIENTS AT 
HCMC HOSPITAL OF DERMATO-VENEROLOGY 
Pham Thi Kim Ngoc, Le Thai Van Thanh, Van The Trung 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 23 - No 1- 2019: 45-49 
Background: Pustular psoriasis (PP) has diverse clinical manifestations, including localized and generalized 
types. Patients may have systemic disorders in certain cases. 
Objective: To investigate clinical and laboratory characteristics of pustular psoriatic patients at HCMC 
Hospital of Dermato-Venerology. 
Method: Case series of pustular psoriatic patients, from 10/2017 to 04/2018. Diagnosis was mainly 
based on clinical features. Histopathology examination was done if needed. Patients’ blood samples were also 
collected and subjected for cell blood count, erythrocyte sedimentation rate (ESR), liver enzymes, albumin 
and electrolyte plane tests. 
Results: A total of 35 patients were included in this study, of whom 88.6% were generalized type (31 cases) 
and 11.4% (4 cases) were localized type. The mean age of patients was 38.4 ± 19.2 years old and the female/male 
ratio was 2/1. Some stimulating factors were identified as infections, traditional herbal medicine of unknown 
origin, corticosteroid. A proportion of generalized pustular psoriatic patients manifesting fever fatigued, appetite 
* Bộ môn Da liễu- Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Văn Thế Trung ĐT: 0908282705 Email: trungvan@ump.edu.vn 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019
 46
loss, leukocytosis and elevated ESR was higher than that of localized patients. Moreover, there were associations 
between plaque psoriatic condition and erythroderma, psoriatic nail lesions and geographic tongue. 
Conclusions: PP manifested various clinical and laboratory features which were different in types of 
disease. Systemic manifestations were found predominantly in generalized pustular psoriatic patients. 
Interestingly, we found that the clinical characteristics of pustular psoriatic patients with or without plaque 
psoriatic lesions were significantly different, suggested the pathogenesis pathway could be different 
according to the subtypes of pustular psoriatic. 
Keywords: psoriasis, pustular psoriasis 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Vảy nến mủ được xem là một thể lâm sàng ít 
gặp của bệnh vảy nến, với bệnh cảnh lâm sàng 
khá đa dạng, từ các thể vảy nến mủ khu trú tới 
các thể vảy nến mủ toàn thân. Trong khi các thể 
vảy nến mủ khu trú có diễn tiến mạn tính, vảy 
nến mủ toàn thân biểu hiện thành những đợt 
phát ban mụn mủ cấp tính kèm triệu chứng hệ 
thống, thậm chí có thể xuất hiện biến chứng 
nặng và tử vong. Bệnh vảy nến mủ cũng có xu 
hướng tái đi tái lại nhiều lần, ảnh hưởng rất lớn 
đến chất lượng cuộc sống bệnh nhân. 
Tại Việt Nam, tuy chưa có thống kê về tần 
suất bệnh trong dân số, nhưng vảy nến mủ 
không phải bệnh hiếm gặp ở bệnh viện chuyên 
khoa như Bệnh viện Da liễu TP. Hồ Chí Minh. 
Theo tra cứu của chúng tôi, tại Việt Nam, 
cho đến hiện nay có rất ít nghiên cứu về vảy 
nến mủ, vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu này nhằm sẽ cung cấp các dữ liệu khoa 
học về đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của 
bệnh vảy nến mủ. 
Mục tiêu 
Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng 
của bệnh nhân vảy nến mủ tại Bệnh viện Da liễu 
Thành phố Hồ Chí Minh 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả hàng loạt ca. 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân vảy nến mủ điều trị ở Bệnh viện 
Da Liễu TPHCM từ tháng 10/2017 đến tháng 
6/2018. 
Tiêu chuẩn nhận vào 
Bệnh nhân được chẩn đoán vảy nến mủvào 
đặc điểm lâm sàng điển hình. Thực hiện xét 
nghiệm mô học trong những trường hợp không 
rõ. Bệnh nhân hoặc phụ huynh bệnh nhân đồng 
ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân người nước ngoài, lai chủng tộc 
3 thế hệ. 
Tiến hành nghiên cứu 
Bệnh nhân được khám lâm sàng, thu thập 
dữ liệu về hành chính, tiền sử, yếu tố khởi phát, 
triệu chứng tổng quát như nhiệt độ, tổng trạng, 
Khám da cẩn thận để phát hiện các triệu 
chứng điển hình của vảy nến mủ như là những 
mụn mủ nông trên nền hồng ban, kích thước 
nhỏ, đỉnh phẳng, ngoài nang lông, màu trắng 
đục, tập trung thành từng đám, có thể tạo hồ 
mủ. Có thể kèm thương tổn vảy nến mảng, tổn 
thương móng kiểu tăng sừng dưới móng, rỗ 
móng, vết dầu loang. 
Biểu hiện mô học là mụn mủ xốp bào Kogoj 
trong lớp thượng bì, có thể có mào thượng bì kéo 
dài, tăng gai, tăng sừng. Không có hình ảnh hoại 
tử thượng bì, viêm mạch. 
Thể lâm sàng được chẩn đoán dựa vào các 
đặc điểm như sau: 
Vảy nến mủ toàn thân khi thương tổn lan tỏa 
toàn thân, có thể kèm triệu chứng tổng quát như 
sốt cao, mệt mỏi, chán ăn 
Vảy nến mủ lòng bàn tay bàn chân khi 
thương tổn khu trú ở lòng bàn tay, bàn chân kéo 
dài trên 3 tháng. 
Vảy nến mủ đầu chi khi thương tổn khu trú 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
 47
ở đơn vị móng, kéo dài trên 3 tháng. 
Các xét nghiệm được thực hiện gồm tổng 
phân tích tế bào máu, tốc độ lắng máu, nồng độ 
men gan, albumin máu, ion đồ máu. 
Xử lý số liệu 
Dữ liệu được phân tích bằng phần mềm 
thống kê STATA 14.0. So sánh các tỉ lệ phần trăm 
bằng phép kiểm Fisher. Giá trị p <0,05 được xem 
là có ý nghĩa thống kê. 
Y đức 
Nghiên cứu có sự đồng thuận của bệnh nhân 
và được thông qua Hội đồng Y đức của Đại học 
Y dược TP. Hồ Chí Minh. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu được tiến hành trên 35 bệnh 
nhân vảy nến mủ. Tuổi trung bình là 38,4 ± 19,2, 
nữ chiếm tỉ lệ nhiều hơn nam, tỉ lệ nữ/nam 
khoảng 2/1. Tuổi khởi phát bệnh có trung vị là 26 
tuổi. Về tiền căn gia đình, có 6 trường hợp bệnh 
nhân có người thân trực hệ trong vòng 3 thế hệ 
bị vảy nến mảng, chiếm tỉ lệ 17,1%. Trong khi 
đó, chỉ có 1 trường hợp có tiền căn gia đình vảy 
nến mủ. Tỉ lệ các thể lâm sàng được trình bày 
trong Bảng 1. 
Bảng 1: Thể lâm sàng 
Thể lâm sàng Tần số (N=35) Tỉ lệ (%) 
Vảy nến mủ toàn thân 31 88,6 
Vảy nến mủ lòng bàn tay bàn 
chân 1 2,9 
Vảy nến mủ đầu chi 3 8,5 
Một số yếu tố liên quan đến đợt bệnh được 
trình bày trong Bảng 2. 
Bảng 2: Yếu tố thúc đẩy bệnh 
Yếu tố thúc đẩy Tần số (N=35) Tỉ lệ (%) 
Nhiễm trùng 4 11,4 
Corticosteroid tại chỗ 1 2,9 
Thuốc Đông y không rõ nguồn 
gốc 
5 14,3 
Thuốc khác 2 5,7 
Căng thẳng tâm lý 1 2,9 
Thai kỳ 3 8,6 
Không rõ 19 54,2 
Chúng tôi tiến hành mô tả và so sánh các đặc 
điểm lâm sàng của 2 nhóm vảy nến mủ toàn 
thân và vảy nến mủ khu trú. Sốt hoặc các triệu 
chứng toàn thân khác như mệt mỏi, chán ăn 
được ghi nhận ở hơn khoảng 2/3 bệnh nhân vảy 
nến mủ toàn thân, nhưng không ghi nhận ở 
bệnh nhân vảy nến mủ khu trú, sự khác biệt này 
có ý nghĩa thống kê. Các đặc điểm lâm sàng khác 
được mô tả trong Bảng 3. 
Bảng 3: Đặc điểm lâm sàng của 2 thể lâm sàng vảy 
nến mủ 
Đặc điểm VNM toàn thân VNM khu trú Chỉ số p
* 
Sốt 16 (51,6%) 0 (0%) 0,109 
TC toàn thân 
khác 17 (54,8%) 0 (0%) 0,104 
Sốt hoặc TCTT 
khác 21 (67,7) 0(0%) 0,019 
Vảy nến mảng 12 (38,7%) 0 (0%) 0,275 
Vảy nến khớp 1 (3,2%) 0 (0%) 1,000 
Đỏ da toàn 
thân 5 (16,1%) 0 (0%) 1,000 
Tổn thương 
móng** 10 (32,3%) 0 (0%) 0,303 
Lưỡi bản đổ 13 (41,9%) 2 (50%) 1,000 
* Phép kiểm Fisher 
** Tổn thương móng bao gồm tăng sừng dưới móng, rỗ 
móng, vết dầu loang 
Về các thay đổi trên cận lâm sàng, tỉ lệ 
bệnh nhân có tăng bạch cầu máu và tốc độ 
lắng máu cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm 
vảy nến mủ toàn thân so với nhóm vảy nến 
mủ khu trú(Bảng 4). 
Bảng 4: Đặc điểm cận lâm sàng của 2 thể lâm sàng 
vảy nến mủ 
Đặc điểm VNM toàn thân VNM khu trú Chỉ số p
* 
Bạch cầu tăng 21 (67,7%) 0 (0%) 0,019 
ESR giờ 1 tăng 31 (100%) 0 (0%) <0,001 
ESR giờ 2 tăng 31 (100%) 0 (0%) <0,001 
ALT tăng 8 (25,8%) 0 (0%) 0,553 
AST tăng 5 (16,1%) 0 (0%) 1,000 
Albumin giảm 12 (38,7%) 0 (0%) 0,275 
Canxi giảm 14 (45,1%) 3 (75%) 0,338 
* Phép kiểm Fisher 
VNM: vảy nến mủ; ESR: Tốc độ lắng máu; 
AST:aspartate transaminase; 
ALT:alaninetransaminase 
Chúng tôi cũng tiến hành so sánh các đặc 
điểm lâm sàng và cận lâm sàng của 2 nhóm bệnh 
nhân vảy nến mủ có và không có thương tổn 
vảy nến mảng. Kết quả cho thấy, bệnh nhân vảy 
nến mủ có kèm vảy nến mảng thì tỉ lệ bị đỏ da 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019
 48
toàn thân và các tổn thương móng cao hơn ở 
nhóm bệnh nhân không có thương tổn vảy nến 
mảng. Ngược lại, tỉ lệ bệnh nhân có thương tổn 
lưỡi bản đồ cao hơn ở nhóm bệnh nhân không 
có thương tổn vảy nến mảng so với nhóm bệnh 
nhân có thương tổn này (Bảng 5). 
Bảng 5: Mối liên quan giữa đặc điểm có tổn thương 
vảy nến mảng với các yếu tố khác 
Đặc điểm 
Có vảy nến 
mảng 
Không có vảy 
nến mảng 
Chỉ số p
*
Sốt 3 (25%) 13 (56,5%) 0,152 
Triệu chứng toàn 
thân khác 6 (50%) 11 (47,8%) 1,000 
Đỏ da toàn thân 4 (33,3%) 1 (4,4%) 0,038 
Tổn thương móng 9 (75%) 1 (4,4%) <0,001 
Lưỡi bản đồ 0 (0%) 15 (65,2%) <0,001 
Bạch cầu tăng 7 (58,3%) 14 (60,8%) 1,000 
Tốc độ lắng máu tăng 12 (100%) 19 (82,6%) 0,275 
ALT tăng 2 (16,7%) 6 (26,1%) 0,685 
AST tăng 0 (0%) 3 (13%) 0,536 
Albumin giảm 3 (25%) 9 (39,1%) 0,476 
Canxi giảm 6 (50%) 11 (47,8%) 1,000 
* Phép kiểm Fisher, AST: aspartate transaminase; 
ALT: alanine transaminase 
BÀN LUẬN 
Các đặc điểm về dịch tễ của bệnh nhân vảy 
nến mủ trong nghiên cứu của chúng tôi tương 
đồng với các nghiên cứu khác trên thế giới, 
ngoại trừ tuổi khởi phát bệnh trong nghiên cứu 
của chúng tôi trẻ hơn(1,2,3). 
Về tiền căn gia đình, chỉ có một tỉ lệ nhỏ 
bệnh nhân vảy nến mủ có người thân trong gia 
đình bị vảy nến mủ hoặc vảy nến mảng. Điều 
này cũng tương tự như trong các y văn thế 
giới(2,5). 
Vảy nến mủ là bệnh lý có xu hướng mạn 
tính, tái đi tái lại và nhiều tác giả cho rằng có liên 
quan yếu tố khởi phát. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, ghi nhận một số yếu tố nghi ngờ có 
liên quan tới đợt bệnh như sử dụng thuốc đông 
y không rõ nguồn gốc, nhiễm trùng, 
corticosteroid. Các yếu tố này cũng được ghi 
nhận trong các nghiên cứu của các tác giả Siew 
Eng Choon, Hyun JIN(3,5). Tuy nhiên, việc xác 
định yếu tố khởi phát chỉ được tiến hành qua hỏi 
bệnh, một số ít qua tra cứu hồ sơ y khoa, do vậy, 
đa số bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi 
không xác định được chính xác yếu tố khởi phát 
bệnh. Đây là nhược điểm chung của việc quản lý 
hồ sơ y khoa tại Việt Nam. 
Qua thăm khám, chúng tôi ghi nhận các 
triệu chứng sốt, mệt mỏi, chán ăn ở 67,7% 
bệnh nhân vảy nến mủ toàn thân, trong khi đó 
không có bệnh nhân nào ở nhóm vảy nến mủ 
khu trú biểu hiện các triệu chứng này. Sự khác 
biệt này khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p=0,109; Bảng 3). Điều này cho thấy bệnh 
nhân thể vảy nến mủ toàn thân, đáp ứng viêm 
không chỉ lan tỏa ở da mà còn ảnh hưởng về 
mặt lâm sàng lên sức khỏe tổng quát. Để 
khẳng định thêm điều này, chúng tôi đã thực 
hiện các xét nghiệm cận lâm sàng. Kết quả cho 
thấy đa số bệnh nhân vảy nến mủ toàn thân có 
bạch cầu máu tăng và tốc độ lắng máu tăng. 
Trong khi đó, đặc điểm này không được ghi 
nhận ở các bệnh nhân vảy nến mủ khu trú. Sự 
khác biệt này có ý nghĩa thống kê (Bảng 5). 
Một số đặc điểm khác về lâm sàng và cận 
lâm sàng dù không có ý nghĩa thống kê nhưng 
có khuynh hướng thường gặp hơn ở nhóm vảy 
nến mủ toàn thân hơn so với nhóm vảy nến mủ 
khu trú, chẳng hạn như như thương tổn vảy nến 
mảng, vảy nến khớp, đỏ da toàn thân, tổn 
thương móng, tăng men gan, giảm albumin 
máu, giảm canxi máu. Các đặc điểm này cũng 
được ghi nhận ở các bệnh nhân vảy nến mủ 
trong y văn(4,5,8). 
Từ những phát hiện trên, nghiên cứu khẳng 
định trong thể bệnh vảy nến mủ toàn thân, phản 
ứng viêm mang tính hệ thống được biểu hiện 
qua lâm sàng và cận lâm sàng. Phát hiện này 
cũng phù hợp với các nghiên cứu khác. Về cơ 
chế bệnh sinh của vảy nến mủ ảnh hưởng lên 
toàn thân còn nhiều điều chưa rõ. Tình trạng 
tăng men gan được một số tác giả cho là biểu 
hiện của tình trạng viêm đường mật thấm nhập 
bạch cầu đa nhân trung tính, và đây có thể được 
xem là một biểu hiện ngoài biểu hiện tại da của 
bệnh vảy nến mủ toàn thân(10). Tình trạng giảm 
albumin máu được cho là do tình trạng tróc vảy 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
 49
da diện rộng sau khi mụn mủ khô và ăn uống 
kém trong quá trình bị bệnh(3). Giảm canxi máu 
được ghi nhận ở cả 2 nhóm bệnh nhân vảy nến 
mủ toàn thân và khu trú. Tình trạng giảm canxi 
máu ở bệnh nhân vảy nến mủ toàn thân được 
cho là thứ phát do tình trạng giảm albumin máu 
và rối loạn hấp thu. Tuy nhiên một số báo cáo ca 
gần đây ghi nhận bệnh vảy nến mủ toàn thân 
khởi phát do tình trạng giảm canxi máu ở các 
bệnh nhân suy tuyến cận giáp sau khi được 
phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp. Ở các bệnh nhân 
này thì nồng độ albumin máu bình thường. Do 
đó, hiện nay vai trò của canxi trong bệnh vảy 
nến mủ chưa được xác định rõ, và cần có những 
nghiên cứu tiếp theo để đánh giá chính xác tình 
trạng này(6). 
Y văn hiện nay vẫn cho cho rằng vảy nến mủ 
là một thể lâm sàng của bệnh vảy nến. Tuy 
nhiên, các nghiên cứu sinh học phân tử gần đây 
cho rằng vảy nến mủ là một bệnh da khác có 
tính chất di truyền(7,8,9). Nghiên cứu của tác giả 
K.Sugiura xác định đột biến gen IL36RN ở 9/11 
bệnh nhân vảy nến mủ đơn thuần, song chỉ xác 
định được đột biến gen này ở 2/20 bệnh nhân 
vảy nến mủ có kèm vảy nến mảng thông 
thường. Tác giả cho rằng vảy nến mủ đơn thuần 
là bệnh lý di truyền liên quan tới đột biến gen 
IL36RN. Kết quả từ nghiên cứu của chúng tôi 
cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về 
một số đặc điểm lâm sàng giữa nhóm bệnh nhân 
có kèm vảy nến mảng hoặc không. Cụ thể, bệnh 
nhân vảy nển mủ mà có kèm vảy nến mảng thì 
có tỉ lệ bị đỏ da toàn thân và các tổn thương 
móng cao hơn các bệnh nhân không có tổn 
thương vảy nến mảng. Ngược lại, những bệnh 
nhân vảy nến mủ mà không có vảy nến mảng thì 
có tổn thương lưỡi bản đồ nhiều hơn các bệnh 
nhân vảy nến mủ không có vảy nến mảng (Bảng 
5). Sự khác biệt này phù hợp với giả thuyết vảy 
nến mủ đơn thuần và vảy nến mủ trên bệnh 
nhân vảy nến mảng có thể là 2 thể bệnh khác 
nhau. Chúng tôi sẽ thực hiện nghiên cứu về đột 
biến gen để góp phần tìm hiểu nguyên nhân và 
cơ chế bệnh sinh phức tạp của bệnh vảy nến mủ. 
KẾT LUẬN 
Vảy nến mủ có biểu hiện lâm sàng, cận lâm 
sàng đa dạng và khác nhau giữa các thể bệnh. 
Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàngtổng quát 
thường gặp hơn ở thể vảy nến mủ toàn thân. 
Ngoài ra, có sự khác biệt về đặc điểm lâm sàng 
giữa 2 nhóm bệnh nhân vảy nến mủ có hoặc 
không có vảy nến mảng, gợi ý đây có thể là 2 thể 
bệnh khác nhau. Chúng tôi kiến nghị cần có cách 
tiếp cận và xử trí đặc hiệu cho từng thể bệnh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Baker H, Ryan TJ (1968). Generalized pustular psoriasis: a 
clinical and epidemiologicai. study of 104 cases. British Journal of 
Dermatology, 80 (12):pp.771-793. 
2. Borges Costa J, Silva R, Goncalves L et al (2011). Clinical and 
laboratory features in acute generalized pustular psoriasis: a 
retrospective study of 34 patients. Am J Clin Dermatol, 
12(4):pp.271-276. 
3. Choon SE, Lai NM, Mohammad NA et al (2014). Clinical profile, 
morbidity, and outcome of adult-onset generalized pustular 
psoriasis: analysis of 102 cases seen in a tertiary hospital in 
Johor. Malaysia.Int J Dermatol, 53 (6):pp.676-684. 
4. Dawson TAJ (1974). Tongue lesions in generalized pustular 
psoriasis. British Journal of Dermatology, 91(4):pp.419-424. 
5. Jin H, Cho HH, Kim WJ et al (2015). Clinical features and course 
of generalized pustular psoriasis in Korea. J Dermatol, 
42(7):pp.674-678. 
6. Knuever J, TantchevaPoor I (2017). Generalized pustular 
psoriasis: A possible association with severe hypocalcaemia due 
to primary hypoparathyroidism. The Journal of Dermatology, 
44(12):pp.1416-1417. 
7. Li X, Chen M, Fu X et al (2014). Mutation analysis of the IL36RN 
gene in Chinese patients with generalized pustular psoriasis 
with/without psoriasis vulgaris. J Dermatol Sci, 76(2):pp.132-138. 
8. Liang J, Huang P, Li H et al (2017). Mutations in IL36RN are 
associated with geographic tongue. Human genetics, 
136(2):pp.241-252. 
9. Sugiura K, Takemoto A, Yamaguchi M et al (2013). The majority 
of generalized pustular psoriasis without psoriasis vulgaris is 
caused by deficiency of interleukin-36 receptor antagonist. J 
Invest Dermatol, 133(11):pp.2514-2521. 
10. Viguier M, Allez M, Zagdanski AM et al (2004). High frequency 
of cholestasis in generalized pustular psoriasis: Evidence for 
neutrophilic involvement of the biliary tract. Hepatology, 
40(2):pp.452-458. 
Ngày nhận bài báo: 8/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_lam_sang_va_can_lam_sangcua_benh_nhan_vay_nen_mu_ta.pdf