Đặc điểm chữ Hán và phương pháp dạy học chữ Hán giai đoạn cơ sở

Học tốt chữ Hán từ những con chữ đầu tiên có ý nghĩa then chốt, là tiền đề quan trọng để hình thành và

phát triển năng lực thực hành tiếng tổng hợp của người học ở các giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, hiệu

quả dạy học chữ Hán hiện nay nhìn chung chưa được cao như mong muốn. Điều này có cả nguyên nhân

khách quan lẫn chủ quan, trong đó không thể không nhắc đến là mảng nghiên cứu lý luận và tổng kết

thực tiễn dạy học chữ Hán chưa được quan tâm và định vị đúng mức. Bài viết này xin đi sâu phân tích đặc

điểm của chữ Hán, đồng thời tổng kết một số phương pháp dạy học chữ Hán dành cho giai đoạn Hán

ngữ cơ sở. Hy vọng có thể bổ sung thêm một số kiến giải hữu ích cho địa hạt nghiên cứu trọng yếu này.

pdf 7 trang kimcuc 4060
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm chữ Hán và phương pháp dạy học chữ Hán giai đoạn cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm chữ Hán và phương pháp dạy học chữ Hán giai đoạn cơ sở

Đặc điểm chữ Hán và phương pháp dạy học chữ Hán giai đoạn cơ sở
88 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Ấn tượng ban đầu của những người chưa từng học hoặc mới bắt đầu học tiếng Hán (tiếng Trung) thường là “chữ Hán thật phức tạp, chữ 
Hán thật khó viết”, từ đó nảy sinh tâm lý “tiếng Hán 
thật khó học”. Vậy tại sao chữ Hán lại khó học? Tại sao 
hiệu quả dạy học chữ Hán giai đoạn Hán ngữ cơ sở 
chưa được cao như mong muốn? Đứng từ góc độ lý 
luận, chúng tôi nhận thấy có hai nguyên nhân chính, 
thứ nhất là do bản thân hệ thống chữ Hán có kết cấu 
đa dạng, lại trải qua quá trình diễn tiến lâu dài, hình 
thành những quy luật phức tạp cả về hình-âm-nghĩa, 
không dễ nắm bắt và khái quát. Cũng chính vì điều 
này mà hiện nay ngay cả ở Trung Quốc vẫn còn thiếu 
những công trình nghiên cứu một cách hệ thống, 
toàn diện về chữ Hán. Thứ hai là mảng nghiên cứu đối 
với sách dạy học chữ Hán vẫn chưa được quan tâm và 
định vị đúng mức, thiếu những nghiên cứu chuyên 
ĐẶC ĐIỂM CHỮ HÁN VÀ 
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC 
CHỮ HÁN GIAI ĐOẠN CƠ SỞ
BÙI HUY CƯỜNG
Học viện Khoa học Quân sự
TÓM TẮT
Học tốt chữ Hán từ những con chữ đầu tiên có ý nghĩa then chốt, là tiền đề quan trọng để hình thành và 
phát triển năng lực thực hành tiếng tổng hợp của người học ở các giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, hiệu 
quả dạy học chữ Hán hiện nay nhìn chung chưa được cao như mong muốn. Điều này có cả nguyên nhân 
khách quan lẫn chủ quan, trong đó không thể không nhắc đến là mảng nghiên cứu lý luận và tổng kết 
thực tiễn dạy học chữ Hán chưa được quan tâm và định vị đúng mức. Bài viết này xin đi sâu phân tích đặc 
điểm của chữ Hán, đồng thời tổng kết một số phương pháp dạy học chữ Hán dành cho giai đoạn Hán 
ngữ cơ sở. Hy vọng có thể bổ sung thêm một số kiến giải hữu ích cho địa hạt nghiên cứu trọng yếu này. 
Từ khoá: chữ Hán, dạy viết, phương pháp, tiếng Trung
sâu về lỗi sai trong thụ đắc chữ Hán của người học, từ 
đó đưa ra những kiến giải về phương pháp dạy học 
và biên soạn giáo trình tài liệu phù hợp cho từng đối 
tượng người học.
Theo thống kê của tác giả Trương Đức Hâm (张德鑫) 
(2006) về số lượng các bài báo cáo tham luận trong 7 
kỳ Hội thảo Dạy học Hán ngữ Quốc tế, số lượng báo 
cáo về dạy học chữ Hán chỉ chiếm tỉ lệ 5.5%. Hoặc 
theo thống kê của chúng tôi dựa trên Kỷ yếu Hội thảo 
Khoa học quốc tế “50 năm giảng dạy và nghiên cứu 
tiếng Trung Quốc” tổ chức tại Đại học Hà Nội năm 
2009, chỉ có 3/47 bài tham luận của hội thảo này bàn 
về vấn đề dạy học chữ Hán, tỉ lệ này còn khá khiêm 
tốn so với các bài báo cáo tham luận về dạy học từ 
vựng, ngữ pháp. Trong khi đó, dạy học chữ Hán trên 
thực tế còn rất nhiều vấn đề cần đi sâu nghiên cứu 
89KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
cả về lý luận lẫn thực tiễn. Trong khuôn khổ của bài 
viết này, chúng tôi chủ yếu đi sâu phân tích, làm rõ 
đặc điểm, thuộc tính của chữ Hán và tổng kết một số 
phương pháp, kỹ xảo dạy học chữ Hán mà chúng tôi 
đã đúc rút, vận dụng tương đối hiệu quả trong thực 
tiễn giảng dạy tiếng Hán ở nhà trường.
1. ĐẶC ĐIỂM CHỮ HÁN 
1.1. Chữ Hán có quá trình diễn tiến lâu dài và ảnh 
hưởng tương đối sâu rộng 
Chữ Hán trải qua nhiều giai đoạn phát triển và hoàn 
thiện khác nhau, do vậy hình thành nhiều thể chữ hay 
kiểu chữ khác nhau. Chữ Hán cổ nhất tới nay được cho 
là chữ Giáp cốt hay còn gọi là Giáp cốt tự (甲骨字)/ 
Giáp cốt văn (甲骨文). Loại chữ này được khắc trên 
mai rùa và xương thú, xuất hiện vào thời Ân-Thương 
(殷商时期), cách nay hơn 3000 năm. Đến nay đã có 
hơn 5000 hình vẽ trên các hiện vật khảo cổ được nhận 
định là chữ Giáp cốt và có hơn 2000 chữ trong số đó 
đã được giải mã, chữ hình thanh chiếm khoảng 27%. 
Điều này cho thấy chữ Giáp cốt lúc bấy giờ đã là hệ 
thống văn tự tương đối hoàn thiện. Tiếp sau chữ Giáp 
cốt là chữ Kim hay Kim văn. Kim văn (金文) còn gọi là 
Minh văn (铭文) hoặc Chung Đỉnh văn (钟鼎文), là loại 
chữ được khắc trên đồ kim khí, mà chủ yếu là trên các 
chuông (钟) và vạc (鼎). Chữ Kim văn ra đời vào cuối 
thời nhà Thương, thịnh hành vào thời Tây Chu (thế kỷ 
thứ XI trước công nguyên đến năm 771 trước công 
nguyên). Kế tiếp chữ Kim văn là chữ Đại triện (大篆), 
sau đó là chữ Tiểu triện (小篆) còn được gọi là chữ Tần 
triện (秦篆). Sở dĩ có cách gọi này là vì Tần Thủy Hoàng 
sau khi thống nhất Trung Quốc (năm 221 trước công 
nguyên) đã thống nhất sử dụng chữ Tiểu triện và nó 
được sử dụng đến thời Tây Hán (năm 206 trước công 
nguyên đến năm 08 sau công nguyên). 
Lệ thư (隶书) là kiểu chữ được giản tiện từ Triện thư, 
có cách viết khá gần với chữ viết Trung Quốc hiện đại, 
nó cũng đặt dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát 
triển của chữ Hán. Quá trình phát triển của Lệ thư có 
thể chia làm 2 thời kì là Tần Lệ và Hán Lệ. Tần Lệ còn 
chịu nhiều ảnh hưởng từ Triện thư. Hán Lệ dần cởi bỏ 
được những ảnh hưởng đó để phát triển thành loại 
chữ có tính ước lệ cao, được sử dụng thông dụng 
dưới thời nhà Hán, cụ thể là đạt đến đỉnh cao ở thời 
Đông Hán (năm 25 đến năm 220 sau công nguyên). 
Khải thư (楷书) hay còn gọi là Chính thư (正书) hoặc 
Chân thư (真书), được cải biên từ chữ Lệ thư, xuất 
hiện vào thời nhà Hán và bắt đầu sử dụng phổ biến 
vào khoảng thế kỷ thứ III sau công nguyên. Khải thư 
là sự phát triển đỉnh cao của chữ Hán, là kiểu chữ có 
kết cấu chặt chẽ, nét bút quy phạm, lại đơn giản dễ 
viết, do vậy kiểu chữ này cho đến nay vẫn được sử 
dụng rộng rãi. Thảo thư (草书) và Hành thư (行书) có 
thời gian ra đời gần như song hành với Khải thư, do 
vậy hai kiểu chữ này thực chất không hẳn là dấu mốc 
trong quá trình diễn tiến của chữ Hán, nhưng chúng 
lại là dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của 
thư pháp chữ Hán. Thảo thư là một thể chữ Hán được 
viết theo kiểu “tốc ký”, nó thường tuân theo những 
quy ước chung để mọi người có thể đọc được. Hành 
Hình 1: Các kiểu chữ Hán theo tuyến lịch đại (Nguồn: Image.baidu.com)
90 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
thư là kiểu chữ viết tương đối tự do, viết ngoáy hơn so 
với chữ Khải, nhưng không được phóng khoáng như 
chữ Thảo, nên Hành thư là kiểu chữ được sử dụng phổ 
biến trong chép tay văn bản tiếng Hán.
Hình 1 là ví dụ về cách viết của 4 chữ 日 (nhật), 月 
(nguyệt), 车 (xa), 马 (mã) theo 7 kiểu chữ khác nhau. 
Theo cột dọc từ trái qua phải, lần lượt là các kiểu chữ 
Giáp cốt văn (甲骨文), Kim văn (金文), Tiểu triện (小
篆), Lệ thư (隶属), Khải thư (楷书), Thảo thư (草书), 
Hành thư (行书).
Trên phương diện văn hoá, chữ Hán có vị trí quan trọng 
và ảnh hưởng xuyên suốt tới nền văn hoá Trung Hoa. 
Ngoài ra, trong suốt quá trình phát triển của mình, 
chữ Hán còn có ảnh hưởng tương đối lớn tới nhiều 
quốc gia khu vực châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, 
Việt Nam, đây là một thực tế khách quan không thể 
phủ nhận. Số lượng chữ Hán hiện sử dụng phổ biến 
trong tiếng Nhật lên tới 2136 chữ. Ở Việt Nam hiện 
nay, chữ Hán vẫn tồn tại đây đó trong đời sống văn 
hoá dân gian, như tập tục dán chữ Hỷ trong hôn lễ, 
tục treo hoành phi-câu đối chữ Hán và chữ Nôm (chữ 
được ông cha ta sáng tạo dựa trên chữ Hán để ghi 
lại âm tiết tiếng Việt), nghệ thuật thư pháp chữ Hán. 
Phần lớn người Việt Nam hiện tại không nhận ra mặt 
chữ những chữ Hán và chữ Nôm trong các bức thư 
pháp, hoành phi-câu đối nói trên, nhưng vẫn cảm 
thấy chúng tương đối thân thuộc trong đời sống tinh 
thần. Đặc biệt là theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ 
có khoảng hơn 60% số từ vựng của tiếng Việt là từ vay 
mượn của tiếng Hán (Lê Đình Tư (2010)). Những yếu 
tố vay mượn từ ngôn ngữ Hán và sau đó được bản địa 
hoá này đã góp phần làm cho tiếng Việt của chúng ta 
thêm phong phú, giàu đẹp hơn, đồng thời cũng thể 
hiện trí tuệ và sự sáng tạo tuyệt vời của ông cha ta 
trong tiếp xúc và ứng xử với các yếu tố ngôn ngữ, văn 
hoá ngoại lai. Các từ ngữ gốc Hán kể trên, nhìn chung 
là lợi thế không nhỏ đối với sinh viên Việt Nam khi học 
chữ Hán nói riêng và học tiếng Trung Quốc nói chung. 
1.2. Chữ Hán là sự kết hợp giữa hình-âm-nghĩa
Chữ Hán là sự kết hợp giữa ba yếu tố hình-âm-nghĩa, 
tức là mỗi chữ Hán đều có mối liên hệ giữa âm đọc, 
hình dạng và ý nghĩa. Tuy vậy, mối liên hệ giữa các 
thành tố này không phải là đồng đẳng. Trải qua quá 
trình diễn tiến lâu dài, mối liên hệ giữa hình ảnh (mặt 
chữ) với ngữ nghĩa nhìn chung tương đối ổn định và 
bền vững, nhưng mối liên hệ với ngữ âm thì không 
được như vậy. Sự biến đổi của âm tiết cũng thường 
diễn ra nhanh hơn sự biến đổi về ý nghĩa của ngữ tố. 
Có thể chia chữ Hán làm 4 nhóm là chữ tượng hình, 
chữ chỉ sự, chữ hội ý, chữ hình thanh. Chữ Hán từ xa 
xưa được sáng tạo dựa trên việc quan sát đồ vật xung 
quanh và vẽ lại thành những chữ mang ý nghĩa, gọi 
là chữ “Tượng hình” (VD: 山, 羊, 耳). “Chỉ sự” là phương 
thức tạo chữ dựa trên việc sử dụng những ký hiệu 
mang tính biểu trưng hoặc ước lệ (VD: 三, 中, 上); “Hội 
ý” là cách dùng hai hoặc nhiều bộ thủ để tạo ra một 
chữ mới (VD: 打, 闷, 宿); “Hình thanh” là cách tạo chữ 
trên cơ sở phối hợp giữa hai bộ phận: bộ phận biểu ý 
(hình bàng) biểu thị ý nghĩa của chữ và bộ phận biểu 
âm (thanh bàng) biểu thị âm đọc của chữ, chữ hình 
thanh chiếm khoảng 90% trong hệ thống chữ Hán 
(VD: 清, 芽, 圆). 
Chữ Hán là ký hiệu ngôn ngữ của tiếng Hán, nó vừa có 
thuộc tính biểu âm lại vừa có thuộc tính biểu ý, trong 
đó thuộc tính biểu ý là thuộc tính cơ bản. Không khó 
để nhận thấy thuộc tính biểu ý này của chữ Hán, bởi 
lẽ ở Trung Quốc có rất nhiều phương ngữ khác nhau, 
cùng một chữ Hán ở các phương ngữ khác nhau lại 
có thể có những cách phát âm khác nhau, nhưng ý 
nghĩa cơ bản của chữ Hán đó vẫn được giữ nguyên. 
Đây cũng chính là sự khác biệt lớn nhất giữa chữ Hán 
với chữ phiên âm Latinh – loại chữ thông qua ngữ âm 
làm trung gian gián tiếp biểu ý, còn chữ Hán có thể 
trực tiếp biểu ý thông qua hình ảnh, hoặc phân tích 
hình ảnh, cũng có cả cách thức lấy ngữ âm làm trung 
gian biểu ý.
1.3. Số lượng chữ Hán nhiều, kết cấu phức tạp
Theo học giả Châu Kiện (周健) (2007), thì số lượng 
chữ Hán nhiều, kết cấu phức tạp, nét bút đa dạng là 
một trong những nguyên nhân khiến chữ Hán khó 
học. Theo Tô Anh Hà (苏英霞) trong tiếng Hán chỉ tính 
riêng số lượng chữ giản thể thông dụng cũng đã có 
khoảng 7000 chữ, với tổng số 75290 nét, bình quân 
mỗi chữ là 10.75 nét, trong đó các chữ từ 9-11 nét 
chiếm số lượng nhiều nhất (2272 chữ, khoảng 33%). 
Nhiều chữ Hán thông dụng có số lượng nét chữ nhiều 
(VD: 戴 (17 nét), 赢 (17 nét), 警 (19 nét)). Các bộ phận 
91KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
cấu thành chữ bao gồm: 6 nét cơ bản, 25 nét phái 
sinh, 214 bộ thủ, 560 bộ kiện cơ bản (bộ kiện là bộ 
phận cấu thành chữ, nó có thể là nét hoặc bộ thủ). Hai 
chữ Hán có thể phân biệt với nhau thông qua một bộ 
thủ, một nét chữ, qua cách thức trình bày ngang dọc 
hoặc qua kích thước trình bày dài ngắn khác nhau.
Về kết cấu chỉnh thể, chữ Hán lại được phân thành 
2 loại là chữ độc thể (do 1 bộ kiện tạo thành, VD: 本, 
重, 大, 里, 女) và chữ hợp thể (do hai bộ kiện trở lên 
ghép thành, VD: 体, 懂, 休, 理, 妇). Mối liên hệ giữa 
các nét có thể là song song, giao nhau, nối tiếp nhau. 
Phương thức kết hợp giữa các các bộ kiện có thể là 
trên dưới, trái phải, trong ngoài. Chỉ tính riêng cách 
thức tổ hợp của chữ hình thanh cũng có tới 6 cách, đó 
là: Trái biểu ý, phải biểu âm (VD: 材, 桐, 评); phải biểu 
ý, trái biểu âm ( VD: 攻, 鸠, 期); trên biểu ý, dưới biểu 
âm (VD: 芽, 霜, 竿); dưới biểu ý, trên biểu âm (VD: 盒, 
忠, 驾); ngoài biểu ý, trong biểu âm (VD: 阂, 圆, 病); 
trong biểu ý, ngoài biểu âm (VD: 问, 闷, 辩). 
Các quy tắc viết chính tả cơ bản của chữ Hán, bao 
gồm: phẩy trước mác sau (VD: 人, 八, 入); ngang trước 
sổ sau (VD: 十, 干, 王); trên trước dưới sau (VD: 三, 竟, 
音) ; trái trước phải sau (VD: 理, 湖, 谢); ngoài trước 
trong sau (VD:同, 风, 周); vào nhà trước đóng cửa sau 
(VD: 国, 圆, 园); giữa trước hai bên sau (VD: 小, 水, 办). 
Ngoài 7 quy tắc này còn có một số quy tắc bổ sung. Ví 
dụ, đối với những chữ được vây kín 3 mặt sẽ có thêm 
các quy tắc như: khuyết bên trên – trong trước ngoài 
sau (VD: 凶, 幽); khuyết bên phải – trên trước trong sau 
rồi đến trái và dưới (VD: 巨, 医, 区). Đối với những chữ 
có nét chấm: những chữ có nét chấm bên trên chính 
giữa hoặc bên trái thường thì nét chấm viết trước (VD: 
六, 义, 门); những chữ có nét chấm bên phải phía trên 
thường thì nét chấm viết sau (VD: 我, 书, 发); những 
chữ có nét chấm bên trong thường thì nét chấm viết 
sau (VD: 叉, 丹, 鸟). Do vậy, có thể nhận thấy phương 
thức tổ hợp và kết cấu chữ Hán đa dạng, phức tạp hơn 
rất nhiều lần so với các văn tự chỉ đơn thuần biểu âm.
2. CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHỮ HÁN CƠ BẢN 
GIAI ĐOẠN CƠ SỞ
2.1. Kết hợp dạy chữ theo nét với bộ kiện, bộ thủ
Bản chất của phương pháp này là vừa chú trọng đến 
quy phạm chính tả, vừa chú trọng tới lý giải ý nghĩa 
của các bộ phận cấu thành nên chữ, từ đó lý giải ý 
nghĩa chỉnh thể của chữ. Hệ thống chữ Hán có 214 
bộ thủ, người dạy không nhất thiết phải giảng giải ý 
nghĩa của tất cả 214 bộ thủ này, nhưng cần phải giới 
thiệu cho người học các bộ thủ cơ bản, thường gặp, 
như: 十 (thập), 亻 (nhân), 八 (bát ), 力 (lực), 讠(ngôn), 
又 (hựu) , 氵(chấm thuỷ), 口 (khẩu), 土 (thổ), 女 (nữ), 
山 (sơn), 大 (đại), 扌(thủ) , 心 (tâm), 忄(tâm đứng), 马 
(mã), 日 (nhật ), 曰 (viết), 月 (nguyệt ), 木 (mộc), 车 
(xa), 火 (hoả), 贝 (bối), 目 (mục), 田 (điền ), 禾 (hoà), 
白 (bạch), 立 (lập), 米 (mễ)... Từ đó giúp cho người 
học hình thành ý thức tìm hiểu, khám phá nội hàm ẩn 
chứa trong mỗi bộ thủ, mỗi con chữ và hình thành ý 
thức nhớ chữ, học chữ theo bộ thủ.
Về bình diện nét chữ, chữ Hán có thể được tạo bởi các 
nét cơ bản và nét phái sinh. Việc nhớ tên các nét cơ 
bản và các nét phái sinh thông dụng là điều bắt buộc 
đối với người học. Trong bài giảng nhập môn, người 
dạy cần khái quát cho người học về tính cân đối của 
chữ Hán, bất luận là chữ một nét hay mấy chục nét 
cũng đều nằm trọn trong một ô vuông. Ngoài ra cần 
cung cấp và giảng giải cho người học 6 nét cơ bản 
(ngang, sổ, phẩy, mác, chấm, hất), một số nét phái 
sinh thông dụng (ngang gập, ngang móc, sổ gập, sổ 
móc, sổ hất) và một số bộ thủ cơ bản, qua đó giúp 
người học hình hành nhận thức tổng quan về chữ 
Hán. Nét là đơn vị cơ bản nhất, nét cấu thành bộ, bộ 
cấu thành chữ Hán. Dạy học chữ Hán theo đơn vị bộ 
thủ là sự kết hợp giảng giải hình thức và ý nghĩa; dạy 
học theo nét thì chú trọng đến quy phạm chính tả. 
Dạy học theo nét kết hợp với phân tích, giảng giải bộ 
kiện, bộ thủ không những không có mâu thuẫn với 
nhau, mà còn có tác dụng bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, 
nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học chữ Hán.
Cũng cần phải nhấn mạnh thêm, ở giai đoạn Hán 
ngữ cơ sở, nhất là ở những bài giảng đầu tiên, “Giáo 
viên nêu gương trong việc viết chữ đúng quy tắc” là 
một trong những nguyên tắc cần được thực hiện triệt 
để. Viết đúng quy tắc ở đây tập trung ở việc viết chữ 
cân đối và đúng thứ tự các nét, các bộ kiện. Người 
dạy chỉn chu trong trình bày từng nét chữ sẽ có tác 
dụng làm cho người học hình thành tính cẩn thận, tỉ 
mỉ trong học viết chữ. Ngược lại, nếu như người dạy 
hay viết ngoáy hoặc viết chữ không cân đối, không 
chỉn chu sẽ làm cho người học mô phỏng sai, hoặc 
92 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
sao nhãng các quy tắc chính tả chữ Hán, ảnh hưởng 
tiêu cực tới chất lượng dạy học chữ Hán giai đoạn Hán 
ngữ cơ sở.
2.2. Kết hợp dạy viết chữ với dạy từ mới, cung cấp 
phiên âm và giải nghĩa Hán Việt 
Ngoài mục đích nhớ chữ, thuộc chữ, thì giao tiếp 
cũng là mục đích quan trọng hàng đầu của dạy học 
tiếng Hán. Khi người học có khả năng giao tiếp tốt, họ 
sẽ có sự tự tin trong học viết chữ Hán. Hiện nay, phần 
lớn các trường ở Việt Nam đều chọn phương án giảng 
dạy chữ Hán lồng ghép trong bộ môn thực hành 
tiếng, mà không tách thành bộ môn riêng. Cụ thể là 
dạy viết chữ Hán được lồng ghép trong phần dạy từ 
mới, phương án này là khả thi và nó cũng đã cho thấy 
nhiều ưu điểm nhất định. Tuy vậy, phương pháp này 
cũng đặt ra yêu cầu rất khắt khe đối với người dạy 
trong việc xây dựng kế hoạch bài giảng, đó là phải 
chú ý cân đối giữa truyền thụ kiến thức chữ Hán với 
kiến thức giao tiếp. Trên thực tế, để giảm bớt gánh 
nặng, áp lực trong việc học chữ Hán và kích thích 
năng lực giao tiếp, người dạy có thể kết hợp dạy viết 
chữ với cung cấp một số từ mới mở rộng dưới dạng 
phiên âm cho người học, để tạo không khí vui vẻ, tinh 
thần hứng khởi trong học tập.
 Ví dụ, bài 8 Giáo trình Hán ngữ 1《苹果多少钱一
斤》(Nửa kg táo bao nhiêu tiền), xuất hiện từ mới “
苹果” (quả táo), người dạy có thể mở rộng thêm vốn 
từ cho người học dưới dạng cung cấp phiên âm chữ 
“Píngguǒ shǒujī” (điện thoại quả táo/Iphone), bởi từ 
này khá phổ biến trong cuộc sống hiện nay và cũng 
gây sự hứng thú với giới trẻ. Hoặc cũng có thể tìm 
những bài hát tiếng Hán có mẫu câu đơn giản, in lời 
bài hát dưới dạng phiên âm cho người học tập hát 
trong giờ ôn tập với thời lượng giới hạn nhất định hoặc 
trong giờ nghỉ giải lao nếu người học cảm thấy hứng 
thú, qua đó có thể khơi gợi niềm đam mê học tập cho 
người học. Tuy nhiên, vẫn phải nhấn mạnh thêm, ở 
giai đoạn Hán ngữ cơ sở, tính mô phạm trong dạy chữ 
là rất quan trọng. Người dạy có thể cung cấp một khối 
lượng kiến thức mở rộng dưới dạng phiên âm, nhưng 
tuyệt đối không được lạm dụng phương thức này.
Người dạy cũng có thể kết hợp dạy viết với cung cấp 
nghĩa Hán-Việt của một số chữ Hán cho người học. 
Lý giải nghiã Hán-Việt của chữ Hán sẽ giúp người học 
hiểu chữ sâu hơn, nhớ chữ lâu hơn và phát triển vốn 
từ nhanh hơn. Cách dạy học này thông qua lợi thế của 
việc lý giải ý nghĩa những ngữ tố và từ ngữ gốc Hán 
trong tiếng Việt để lý giải ý nghĩa chữ Hán tốt hơn. 
Cách dạy học này cũng không phải mới mẻ, mà từ 
xa xưa đã được ông cha ta đúc rút và vận dụng hiệu 
quả trong dạy học chữ Hán. Ông cha ta thông qua sử 
dụng lối văn vần và đối ngẫu để đưa ra những cách 
giảng giải gần gũi, dễ đọc, dễ nhớ về chữ Hán, ví dụ: 
“Gia – nhà, quốc – nước,
Tiền – trước, hậu – sau,
Ngưu – trâu, mã – ngựa”
Hoặc là: 
“Thiên – trời, địa – đất
Cử – cất, tồn – còn
Tử – con, tôn – cháu
Lục – sáu, tam – ba”
Phương pháp dạy viết chữ Hán kết hợp với giải thích 
ý nghĩa Hán-Việt của một số chữ Hán đặt ra yêu cầu 
rất cao cho người dạy trong việc tìm hiểu nghĩa từ 
Hán-Việt, để truyền thụ một cách chính xác tới người 
học. Ở góc độ này, dạy học chữ Hán còn góp phần 
nâng cao trình độ lý giải ý nghĩa từ ngữ Hán-Việt cho 
người học.
2.3. Vận dụng các trò chơi trong dạy học chữ Hán
Thiết kế và áp dụng một số trò chơi chữ Hán cũng là 
phương pháp dạy học chữ Hán tích cực theo hướng 
lấy người học làm trung tâm. Trò chơi chữ Hán nếu 
được thiết kế và sử dụng hợp lý sẽ giúp nâng cao hiệu 
quả dạy học chữ Hán. Trong bài giảng giai đoạn Hán 
ngữ cơ sở, người dạy có thể thiết kế, tổ chức một số 
trò chơi nhằm tạo ra không khí học tập sôi nổi, vui 
vẻ, giúp cho người học có thể vượt qua tâm lý ngại 
ngùng, trở nên linh hoạt và chủ động hơn trong tiếp 
thu kiến thức. Các trò chơi có thể sử dụng như: viết 
chữ đã học theo 1 bộ thủ cho trước, trò chơi thêm 
một nét tạo chữ mới, trò chơi viết những chữ đồng 
âm khác nghĩa, trò chơi đố vui, trò chơi giải ô chữ
Ví dụ, về trò chơi viết chữ Hán đã học theo bộ thủ cho 
trước: sau khi học xong Quyển 1 của bộ Giáo trình 
Hán ngữ, khi tiến hành ôn tập kiến thức cũ, giảng viên 
93KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
có thể yêu cầu học viên viết lại các chữ Hán đã học có 
xuất hiện bộ khẩu (口), vì nó là bộ thủ có tần suất sử 
dụng tương đối cao và tham gia tổ hợp thành nhiều 
từ mới nhất ở Quyển 1. Có thể mời 1-2 học viên lên 
bảng viết, các học viên còn lại ngồi tại chỗ viết đáp 
án ra giấy, thời gian quy định là 8 phút. Trong lúc học 
viên viết chữ trên bảng, giảng viên cũng có thể xuống 
từng bàn để nắm xem trình độ viết chữ của học viên 
trong lớp thế nào (viết chữ có tuân thủ quy phạm và 
mỹ quan hay không). Sau 8 phút giảng viên tiến hành 
chữa và chấm điểm cho học viên trên bảng, các bạn ở 
dưới theo dõi, nhận xét, bổ sung. Sau đó có thể nắm 
xem học viên nào trong lớp viết được nhiều chữ nhất; 
có bao nhiêu học viên viết được trên 10 chữ, bao 
nhiêu học viên viết được 8-10 chữ, bao nhiêu học viên 
viết được 5-7 chữ, bao nhiêu học viên viết được dưới 
5 chữ qua đó cũng có thể nắm được sơ bộ về khả 
năng nhớ chữ của từng học viên và mặt bằng chung 
của lớp để điều chỉnh phương pháp dạy học phù hợp 
hơn ở giai đoạn tiếp theo. Giảng viên biểu dương và 
cả lớp vỗ tay khen ngợi học viên viết được nhiều chữ 
chính xác nhất.
Ví dụ, về trò chơi thêm một nét tạo chữ mới: Giảng 
viên có thể lựa chọn một số chữ Hán viết lên bảng. 
Trước tiên cho học viên nhận đọc chữ Hán đó, sau đó 
yêu cầu học viên thêm 1 nét để tạo thành chữ mới có 
ý nghĩa. Các chữ Hán mà giảng viên có thể lựa chọn 
để cung cấp cho học viên như:
TT Chữ ban đầu Chữ mới
1 人 个,大
2 王 玉
3 头 买
4 牛 生
5 白 百
6 休 体
7 天 夫
8 名 各
9 古 舌
10 叶 吐
11 几 凡
12 火 灭
13 尤 龙
14 亚 严
15 从 丛
16 曰 白, 田,甲, 由,申, 电, 旦
Ví dụ, về trò chơi viết các chữ đồng âm khác nghĩa 
theo phiên âm cho trước: giảng viên cung cấp lên 
bảng phiên âm chữ “lì”, yêu cầu học viên viết ra 5 chữ 
Hán có âm đọc “lì”. Giảng viên gọi 1 học viên lên bảng 
theo tinh thần xung phong, các học viên khác ngồi 
tại chỗ viết đáp án ra vở nháp. Học viên có thể đưa ra 
đáp án như “力”, “立”, “利”, “历”, “厉” Khi học viên 
đưa ra đáp án sai, như đưa ra các chữ “李” (lǐ) , “梨” (lí) 
thì giảng viên cần gợi mở để học viên nhận thấy lỗi 
sai và sửa trực tiếp. Sau khi học viên viết xong, có thể 
hỏi học viên về các chữ đã viết, ví dụ: chữ “立” được tổ 
hợp trong những chữ nào, chữ “利” được tổ hợp trong 
những chữ nào. 
Để trò chơi phát huy hiệu quả cao nhất, giảng viên 
khi thiết kế và áp dụng các trò chơi trong dạy học chữ 
Hán cần bám sát chương trình môn học để có thể 
đưa ra những trò chơi phù hợp, sát với nội dung bài 
học, tránh đưa ra những trò chơi quá khó (kiến thức 
vượt quá khả năng của học viên). Đồng thời giảng 
viên cũng cần chuẩn bị đầy đủ, chu đáo về phương 
tiện, giáo cụ cần thiết và sắp xếp, sử dụng thời gian 
linh hoạt khi tổ chức trò chơi chữ Hán. Tích cực tham 
gia các trò chơi chữ Hán, giúp học viên hiểu bài sâu 
hơn, tự nhiên và mạnh dạn hơn. Lý Tuyền (李泉) và 
Nguyễn Sướng (阮畅) (2012) cũng chỉ ra yêu cầu xây 
dựng quan niệm đúng đắn về chữ Hán và dạy học 
chữ Hán, như xác lập quan niệm lạc quan và nhân văn 
trong dạy học, từ đó giúp học viên có thêm tự tin và 
nghị lực để học tốt chữ Hán.
3. KẾT LUẬN
Trong thực tiễn dạy học, các phương pháp dạy học 
chữ Hán nêu trên thường không thực hiện một cách 
đơn lẻ mà được thực hiện đan xen lẫn nhau, qua đó 
có thể hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Người dạy một mặt 
cần chú trọng khâu dạy viết chữ trên lớp, tăng cường 
kiểm tra việc hoàn thành bài tập của người học; 
thường xuyên tiến hành thu vở bài tập, chữa lỗi sai và 
phê duyệt; mặt khác cũng cần cải tiến phương pháp 
giảng dạy, thiết kế các bài giảng sinh động, hấp dẫn; 
thường xuyên động viên, khích lệ, biểu dương đối với 
những tiến bộ dù là nhỏ trong viết chữ của người học, 
từ đó giúp người học vượt qua mặc cảm, tiếp tục kiên 
trì để học tập chữ Hán tốt hơn. Chúng tôi tin rằng, 
trong thực tế giảng dạy chữ Hán ở nhà trường, còn có 
rất nhiều những phương pháp, kỹ xảo dạy học hay đã 
94 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 3 - 9/2016
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
được các thầy cô giáo vận dụng rất hữu hiệu, nhưng 
chưa được tổng kết hoặc đưa ra thảo luận. Do vậy 
nghiên cứu chữ Hán và tổng kết các phương pháp, kỹ 
xảo dạy học chữ Hán cùng các giải pháp dạy học khác 
vẫn sẽ là vấn đề cần được chú trọng và tiếp tục đi sâu 
nghiên cứu trong thời gian tới./.
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Đình Tư (2010), Ảnh hưởng của tiếng Hán đối với 
sự phát triển của từ vựng tiếng Việt, <https://ngnnghc.
wordpress.com>.
2. 李泉, 阮畅.2012.汉字难学”之教学对策[J].汉语学
习(4).
3. 苏英霞.2015.国际汉语教学: 汉字教学方法与技巧
[M].北京:北京语言大学出版社.
4. 张德鑫.2006.从“词本位”到“字中心”一一对
外汉语教学的战略转移[J].汉语学报(2).
5. 周健.2007.汉字教学理论与方法[M].北京:北京大
学出版社.
CHARACTERISTICS OF HAN ZI AND THE METHODS OF LEARNING HAN ZI AT BASIC LEVEL
BUI HUY CUONG
Abstracts: learning Han zi well at the beginning has a key determiner of developing language practice at 
higher levels. However, the effectiveness of teaching Han zi is currently not high standard. This is rooted 
from both objective and subjective causes, in which theoretical research and practice synthesis about Han zi 
teaching has not been paid enough attention. The article will provide an insight into characteristics of Han zi 
and synthesize several methods of teaching Han zi for the elementary level. It aims at supplementing some 
useful knowledge for this crucial field of study. 
Keywords: Han zi, teaching writing, methodology, mandarin
Ngày nhận: 04/8/2016
Ngày phản biện: 04/9/2016
Ngày duyệt đăng: 20/9/2016

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_chu_han_va_phuong_phap_day_hoc_chu_han_giai_doan_co.pdf