Đa dạng hóa kinh doanh, hiệu quả và rủi ro

Đa dạng hóa kinh doanh trong nghiên cứu này được chia làm hai loại là đa dạng hóa kinh doanh ngành có liên

quan và đa dạng hóa kinh doanh ngành không liên quan. Hai loại đa dạng hóa kinh doanh vừa nêu có những đặc

điểm khác nhau nên tác động của chúng tới hiệu quả và rủi ro là không đồng nhất. Mục tiêu của nghiên cứu là xem

xét tác động của đa dạng hóa kinh doanh đến hiệu quả và rủi ro của các doanh nghiệp trên sàn chứng khoán Việt

Nam. Đa dạng hóa kinh doanh ngành có liên quan được giả định là tác động dương tới hiệu quả và rủi ro; trong khi

đó, đa dạng hóa kinh doanh ngành không liên quan được giả định ngược lại. Khi đó, mô hình lý thuyết được đề xuất

là “mô hình dường như không liên quan” (SUR) và đây được coi là một dạng của mô hình cấu trúc tuyến tính

(SEM). Dữ liệu nghiên cứu là những doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ

2008 tới 2015 với tổng số 3760 quan sát. Kết quả cho thấy các biến trên đã tác động đúng như kỳ vọng. Tuy nhiên,

mức tác động biên tới rủi ro của biến đa dạng hóa kinh doanh ngành có liên quan và không liên quan là rất thấp.

Ngoài ra, mức tác động biên tới hiệu quả của biến đa dạng hóa kinh doanh ngành có liên quan cao hơn biến đa dạng

hóa kinh doanh ngành không liên quan.

pdf 14 trang kimcuc 14520
Bạn đang xem tài liệu "Đa dạng hóa kinh doanh, hiệu quả và rủi ro", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đa dạng hóa kinh doanh, hiệu quả và rủi ro

Đa dạng hóa kinh doanh, hiệu quả và rủi ro
16 Vũ Hữu Thành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 16-29 
ĐA DẠNG HÓA KINH DOANH, HIỆU QUẢ VÀ RỦI RO 
VŨ HỮU THÀNH 
Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh – thanh.vh@ou.edu.vn 
NGUYỄN MINH HÀ 
Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh – ha.nm@ou.edu.vn 
NGUYỄN MINH KIỀU 
Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh – kieu.nm@ou.edu.vn 
(Ngày nhận: 29/12/2017; Ngày nhận lại: 04/01/2018; Ngày duyệt đăng: 04/01/2018) 
TÓM TẮT 
Đa dạng hóa kinh doanh trong nghiên cứu này được chia làm hai loại là đa dạng hóa kinh doanh ngành có liên 
quan và đa dạng hóa kinh doanh ngành không liên quan. Hai loại đa dạng hóa kinh doanh vừa nêu có những đặc 
điểm khác nhau nên tác động của chúng tới hiệu quả và rủi ro là không đồng nhất. Mục tiêu của nghiên cứu là xem 
xét tác động của đa dạng hóa kinh doanh đến hiệu quả và rủi ro của các doanh nghiệp trên sàn chứng khoán Việt 
Nam. Đa dạng hóa kinh doanh ngành có liên quan được giả định là tác động dương tới hiệu quả và rủi ro; trong khi 
đó, đa dạng hóa kinh doanh ngành không liên quan được giả định ngược lại. Khi đó, mô hình lý thuyết được đề xuất 
là “mô hình dường như không liên quan” (SUR) và đây được coi là một dạng của mô hình cấu trúc tuyến tính 
(SEM). Dữ liệu nghiên cứu là những doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ 
2008 tới 2015 với tổng số 3760 quan sát. Kết quả cho thấy các biến trên đã tác động đúng như kỳ vọng. Tuy nhiên, 
mức tác động biên tới rủi ro của biến đa dạng hóa kinh doanh ngành có liên quan và không liên quan là rất thấp. 
Ngoài ra, mức tác động biên tới hiệu quả của biến đa dạng hóa kinh doanh ngành có liên quan cao hơn biến đa dạng 
hóa kinh doanh ngành không liên quan. 
Từ khóa: Đa dạng hóa kinh doanh ngành không liên quan; Đa dạng hóa kinh doanh ngành có liên quan; Đa 
dạng hóa kinh doanh; Hiệu quả; Rủi ro phá sản. 
The relationship between diversification strategies and risk, performance. Evidence 
from Vietnam’s listed non-financial firms 
ABSTRACT 
Diversification strategies are classified into two types: related diversification and unrelated diversification. 
Related diversification is supposed to have a positive impact on risk and performance; on the other hand, unrelated 
diversification is supposed to affect them in reverse. Therefore, the proposed theoretical model is called a 
"seemingly unrelated model" (SUR), and it is considered as a form of linear structural equation model (SEM). The 
data was collected from non-financial firms listed on Vietnam's stock market from 2008 to 2015 with a total of 3760 
observations. The results of empirical research show that the impact of related and unrelated diversifications on risk 
and performance is consistent with our expectation. However, the level of the marginal effects of the diversification 
strategies on risk is very low. In addition, the marginal effects of the related diversification on performance are 
greater than those of the unrelated diversification. It implies that firms, which have an abundance of resources and 
priority in enhancing performance, may implement a strategy of diversifying businesses into related industries. 
Keywords: Diversification strategies; Performance; Related diversification; Risk of bankruptcy; Unrelated 
diversification. 
1. Giới thiệu 
Đa dạng hóa được coi là một trong những 
hoạt động mang tính chiến lược của doanh 
nghiệp, nó đại diện cho những quyết định 
quản trị chiến lược quan trọng nhất và có liên 
hệ mật thiết tới các kết quả đầu ra của doanh 
nghiệp (Ramanujam và Varadarajan, 1989). 
Knecht (2013) cũng khẳng định rằng đa dạng 
 Vũ Hữu Thành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 16-29 17 
hóa có những ảnh hưởng to lớn tới hiệu quả 
của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đa dạng hóa 
vốn là con dao hai lưỡi: có thể phá hủy hoặc 
gia tăng hiệu quả và nhiều nghiên cứu thực 
nghiệm đã chứng minh nhận định trên (Palich 
và ctg, 2000). 
Bên cạnh hiệu quả, rủi ro cũng là một 
biến được đặc biệt quan tâm trong quản trị 
chiến lược của doanh nghiệp. Mối liên hệ giữa 
đa dạng hóa và rủi ro đã sớm được quan tâm 
bởi Bettis và Hall (1982) và từ đó hình thành 
nên một hướng nghiên cứu cho tới ngày nay. 
Tác động của đa dạng hóa tới rủi ro cũng khá 
phức tạp. Tính phức tạp này là do sự đa dạng 
về loại hình đa dạng hóa của doanh nghiệp, 
từng loại hình đa dạng hóa lại được phân chia 
thành các loại hình đa dạng hóa cấp thấp hơn 
căn cứ vào các đặc điểm phân chia khác nhau. 
Các loại hình đa dạng hóa ở cấp thấp hơn lại 
có chiều hướng tác động khác biệt nhau tới rủi 
ro và chính bản thân từng loại hình đa dạng 
hóa này có thể có những mối liên hệ nhất định 
với nhau. Ví dụ, trong doanh nghiệp, đa dạng 
hóa kinh doanh được chia thành hai loại hình 
đa dạng có đặc điểm khác biệt nhau là đa dạng 
hóa kinh doanh ngành có liên quan và đa dạng 
hóa kinh doanh ngành không liên quan tới 
ngành kinh doanh chính. Đa dạng hóa kinh 
doanh ngành có liên quan có thể làm gia tăng 
hiệu quả (Palich và ctg, 2000) nhưng đồng 
thời cũng làm gia tăng rủi ro đặc thù (Bettis 
và Hall, 1982). Trong khi đó, đa dạng hóa lĩnh 
vực không liên quan có tác động ngược lại. 
Nghiên cứu này thay vì đi tìm hiểu tác 
động riêng rẽ của từng loại hình đa dạng hóa 
tới hiệu quả và rủi ro thì sẽ tìm hiểu tác động 
đồng thời của đa dạng hóa kinh doanh ngành 
có liên quan và đa dạng hóa kinh doanh ngành 
không liên quan tới hiệu quả và rủi ro trong 
cùng một mô hình cấu trúc tuyến tính SEM. 
2. Cơ sở lý thuyết 
2.1. Đa dạng hóa và hiệu quả 
Đa dạng hóa 
Kenny (2009) đã nhận định rằng việc trả 
lời cho câu hỏi thế nào là đa dạng hóa là 
không dễ dàng đối với cả các nhà nghiên cứu 
và nhà quản lý. Tính phức tạp của nó 
còn được thể hiện bởi nhận định của Hall và 
St John (1994), Lang và Stulz (1993), 
M. Lubatkin và ctg (1993), hay Robins và 
Wiersema (2003) khi các tác giả cho rằng đa 
dạng hóa được coi là một thang đo đa hướng, 
nó được cấu thành bởi rất nhiều các thang đo 
thành phần. Đa dạng hóa của Rumelt (1974) 
được sử dụng rộng rãi trong nhiều nghiên cứu 
thực nghiệm sau này vì quan điểm của tác giả 
là không quan tâm tới việc doanh nghiệp thay 
đổi bên trong nội bộ như thế nào khi tiến hành 
đa dạng hóa. Rumelt (1974) chỉ căn cứ vào 
đặc tính của sản phẩm đầu ra và tỷ trọng 
doanh thu của những loại hình sản phẩm này 
so với tổng số để xác định đa dạng hóa. 
Nghiên cứu sẽ tiếp cận đa dạng hóa kinh 
doanh theo phân loại của Rumelt (1974) 
nhưng chia thành hai loại chính là đa dạng 
hóa lĩnh vực có liên quan và đa dạng hóa lĩnh 
vực không liên quan. Hai loại hình đa dạng 
hóa này được sử dụng phổ biến trong các 
nghiên cứu thực nghiệm về mối liên hệ giữa 
đa dạng hóa kinh doanh, hiệu quả và rủi ro. 
Đa dạng hóa kinh doanh ngành có liên 
quan: Doanh nghiệp kinh doanh những sản 
phẩm khác ngành cấp 3 nhưng cùng ngành 
cấp 2 của ngành kinh doanh chính (Rumelt, 
1982). 
Đa dạng hóa kinh doanh ngành không 
liên quan: Doanh nghiệp kinh doanh những 
sản phẩm khác ngành cấp hai của ngành kinh 
doanh chính (Rumelt, 1982). 
Hiệu quả của doanh nghiệp 
Hiệu quả của doanh nghiệp có thể được 
hiểu như là kết quả đầu ra của các hoạt động 
trong doanh nghiệp và kết quả này cần định 
lượng được (Neely và ctg, 1995). Trong 
doanh nghiệp, có rất nhiều các hoạt động khác 
nhau vì thế có rất nhiều góc nhìn khác nhau về 
hiệu quả và vấn đề đặt ra ở đây là “hiệu quả” 
dùng để làm gì? (Santos và Brito, 2012). Hitt 
(1988) đưa ra ý kiến rằng “hiệu quả” phải 
luôn được đo lường và kết quả đo lường này 
18 Vũ Hữu Thành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 16-29 
là để phục vụ cho các bên liên quan 
(stakeholders) như cổ đông, nhà quản lý, xã 
hội, công nhân... Với mỗi bên liên quan khác 
nhau thì các nhìn nhận về hiệu quả dưới góc 
độ đo lường là khác nhau. Nghiên cứu sẽ tiếp 
cận khái niệm hiệu quả của doanh nghiệp 
dưới góc độ của cổ đông (một bên liên quan 
của doanh nghiệp) và tương ứng với góc nhìn 
này là hiệu quả về tài chính của doanh nghiệp. 
Đa dạng hóa và hiệu quả 
Lý thuyết về tính kinh tế theo phạm vi 
(economies of scope) đề cập tới sự thay đổi 
chi phí sản xuất trung bình khi doanh nghiệp 
mở rộng sản xuất sản phẩm. Khi doanh 
nghiệp thực hiện tính kinh tế theo quy mô hay 
nói cách khác doanh nghiệp đa dạng hóa 
những sản phẩm mà việc đa dạng hóa này có 
sử dụng những nguồn lực dùng chung và giúp 
cho chi phí kết hợp giảm xuống. Kết quả là 
lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng lên. 
Thông thường, tính phi kinh tế theo phạm vi 
diễn ra khi doanh nghiệp thực hiện đa dạng 
hóa theo chiều dọc hay đa dạng hóa ở ngành 
kinh doanh không liên quan (Pils, 2009). 
Ngoài ra nếu doanh nghiệp thực hiện đa dạng 
hóa quá mức hay kinh doanh ở nhiều lĩnh vực 
khác nhau (dù có liên quan hay không liên 
quan tới lĩnh vực kinh doanh chính) sẽ khiến 
cho việc chia sẻ những nguồn lực dùng chung 
trở nên khó khăn và tính hiệu quả sẽ giảm 
(Palichvà ctg, 2000). Lý thuyết này được 
dùng để lý giải mối liên hệ tích cực giữa đa 
dạng hóa kinh doanh ngành có liên quan tới 
hiệu quả kinh doanh. Khi doanh nghiệp đa 
dạng hóa kinh doanh có ngành liên quan, 
doanh nghiệp sẽ có cơ hội sử dụng các nguồn 
lực dùng chung và từ đó tiết giảm được chi 
phí. Kết quả là hiệu quả kinh doanh của 
doanh nghiệp có thể tăng lên. 
Wernerfelt (1984) và Barney (1991) phát 
triển lý thuyết về quan điểm phát triển dựa 
vào nguồn lực (theory of resource-based view 
– RBV) từ lý thuyết tăng trưởng doanh nghiệp 
của Penrose (1959). Lý thuyết này nhận định 
khi các nguồn lực của doanh nghiệp trở nên 
dư thừa và dòng tiền tự do ngày càng lớn, 
doanh nghiệp sẽ tiến hành đa dạng hóa. Lúc 
đó, những tài sản đặc thù nằm trong nguồn lực 
sẵn có của doanh nghiệp tuy tạo ra lợi thế 
cạnh tranh bền vững nhưng chính nó lại là trở 
ngại trong việc chuyển đổi nguồn lực sang 
khía cạnh kinh doanh mới. Do vậy giá trị mà 
đa dạng hóa đem lại sẽ phụ thuộc vào sự phù 
hợp giữa một bên là nguồn lực sẵn có của 
doanh nghiệp và một bên là lĩnh vực kinh 
doanh mà doanh nghiệp sẽ thâm nhập. Lý 
luận này gợi ý rằng doanh nghiệp nên đa dạng 
hóa vào những ngành có liên quan để sự 
chuyển đổi nguồn lực diễn ra dễ dàng. Ngược 
lại, việc đa dạng hóa vào những ngành không 
liên quan sẽ khiến cho việc chuyển đổi trở nên 
khó khăn hơn và kéo theo hiệu quả sẽ giảm 
(Wan và ctg, 2010). 
Căn cứ vào các nghiên cứu lý thuyết và 
thực nghiệm, Nghiên cứu đưa ra giả thuyết về 
mối liên hệ giữa đa dạng hóa kinh doanh và 
hiệu quả như sau: 
Giả thuyết H1: Đa dạng hóa kinh doanh 
ngành có liên quan có xu hướng tác động 
dương đối với hiệu quả kinh doanh của 
doanh nghiệp. 
Giả thuyết H2: Đa dạng hóa kinh 
doanh ngành không liên quan có xu hướng 
tác động âm tới hiệu quả kinh doanh của 
doanh nghiệp. 
2.2. Đa dạng hóa kinh doanh và rủi ro 
Rủi ro 
Có rất nhiều các loại rủi ro khác nhau 
trong doanh nghiệp trong đó rủi ro phá sản là 
loại rủi ro được quan tâm nhiều nhất vì nó ảnh 
hưởng tới nhiều bên liên quan như cổ đông, 
đối tác, hay người cho vay Nghiên cứu này 
sẽ tiếp cận rủi ro theo hướng rủi ro phá sản 
của doanh nghiệp. Phá sản thường bắt đầu từ 
tình huống khó khăn về tài chính và sau đó là 
tới sự can thiệp của luật pháp nếu sự khó khăn 
đó khiến cho doanh nghiệp không có khả 
năng trả được nợ (Karels và Prakash, 1987). 
Việc đo lường rủi ro của doanh nghiệp 
phụ thuộc vào phân loại rủi ro, có nghĩa là rủi 
 Vũ Hữu Thành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 16-29 19 
ro được nhìn ở góc độ nào thì sẽ có cách tính 
toán tương ứng. Theo Peirson và ctg (2014), 
rủi ro của doanh nghiệp, về mặt tổng quát, có 
thể được phân làm hai loại: (i) rủi ro hệ thống 
(systematic risk) và (ii) rủi ro phi hệ thống 
(unsystematic risk). Nghiên cứu này sẽ tiếp 
cận đo lường rủi ro theo hướng rủi ro phi hệ 
thống và cụ thể hơn đó là rủi ro phá sản được 
đo lường thông qua các chỉ số tài chính, một 
loại rủi ro đặc thù của doanh nghiệp. Thêm 
vào đó, rủi ro phá sản vốn được quan tâm phổ 
biến và sẵn có nhiều mô hình đo lường khác 
nhau. Nghiên cứu này lựa chọn mô hình đo 
lường Merton – KMV để tính toán xác suất 
phá sản trong một khoảng thời gian cụ thể 
thông qua việc tính toán “khoảng cách tới 
thời điểm phá sản”. Mô hình đã được Merton 
(1974) xây dựng và được ba tác giả Kealhofer 
(Kealhofer và Bohn, 1998), McQuown 
(McQuown, 1997) và Vasicek (Vasicek, 
1984) phát triển. 
Đa dạng hóa và rủi ro 
Sự tác động của đa dạng hóa tới rủi ro 
phá sản khá phức tạp vì đa dạng hóa được 
phân thành hai loại là đa dạng hóa có liên 
quan và đa dạng hóa không liên quan. Nghiên 
cứu sẽ lần lượt tìm hiểu góc nhìn của 
Lubatkin và Chatterjee (1994) và Bettis và 
Hall (1982) về rủi ro của đa dạng hóa. 
(i). Nghiên cứu của Lubatkin và 
Chatterjee (1994) 
Lubatkin và Chatterjee (1994) đã kết luận 
rằng đa dạng hóa kinh doanh ngành có liên 
quan sẽ làm giảm rủi ro phi hệ thống; ngược 
lại, đa dạng hóa ngành không liên quan sẽ làm 
tăng rủi ro phi hệ thống. Nghiên cứu giải thích 
rằng khi thực hiện đa dạng hóa có liên quan, 
doanh nghiệp vốn sở hữu những nguồn lực 
có mối liên hệ tương hỗ (synergistic 
interrelationship). Những mối liên hệ này bao 
gồm mối liên hệ hữu hình và vô hình đã bổ 
sung cho nhau trong quá trình mở rộng kinh 
doanh và giúp cho doanh nghiệp giảm thiểu 
rủi ro đặc thù. Ngược lại, khi doanh nghiệp 
mở rộng hoạt động kinh doanh sang những 
ngành không liên quan thì các nguồn lực được 
sử dụng để đầu tư rất khó có mối liên hệ hỗ 
trợ lẫn nhau và vì vậy sẽ làm gia tăng rủi ro 
phi hệ thống. 
(ii). Lý thuyết của Bettis và Hall (1982) 
về rủi ro đa dạng hóa 
Nghiên cứu lý thuyết của Bettis và Hall 
(1982) về tác động của đa dạng hóa kinh 
doanh và rủi ro đã phân chia tác động của hai 
loại hình đa dạng hóa là đa dạng hóa có liên 
quan và đa dạng hóa không liên quan tới rủi 
ro đặc thù và mỗi loại hình đa dạng hóa có 
hình thức tác động khác nhau. Khi doanh 
nghiệp cùng kinh doanh ở hai lĩnh vực có liên 
quan tới nhau thì lợi nhuận có xu hướng di 
chuyển cùng chiều với nhau và tạo ra hệ số 
tương quan dương. Nếu doanh nghiệp kinh 
doanh ở hai ngành không liên quan thì do ảnh 
hưởng của yếu tố chu kỳ kinh doanh hoặc đặc 
điểm ngành mà lợi nhuận ở hai ngành sẽ có 
xu hướng di chuyển ngược chiều nhau và hệ 
số tương quan sẽ âm. Do vậy Bettis và Hall 
(1982) đã đưa ra giả thuyết rằng doanh nghiệp 
đa dạng hóa kinh doanh ở lĩnh vực có liên 
quan sẽ làm tăng rủi ro trong khi đó doanh 
nghiệp đa dạng hóa kinh doanh ở lĩnh vực 
không liên quan lại làm giảm rủi ro đặc thù 
của doanh nghiệp. 
Nghiên cứu của Lubatkin và Chatterjee 
(1994) và Bettis và Hall (1982) có cách tiếp 
cận khác nhau và đưa ra kết luận trái ngược 
nhau. Lubatkin và Chatterjee (1994) nhận định 
rằng đa dạng hóa sang ngành kinh doanh có 
liên quan làm giảm rủi ro đặc thù và đa dạng 
dạng hóa sang ngành kinh doanh không liên 
quan làm tăng rủi ro đặc thù. Bettis và Hall 
(1982) đưa ra cách nhìn ngược lại. Nghiên cứu 
nhận thấy kết luận của Bettis và Hall (1982) 
phù hợp với hoạt động đa dạng hóa hướng r ... 
được chi phí theo quy mô (nghiêm trọng hơn, 
chi phí có thể sẽ tăng theo quy mô ở giai đoạn 
đầu của đa dạng hóa ngành không liên quan). 
Tác động của UB_DIV tới RISK 
Kết quả ước lượng đã ủng hộ giả thuyết 
H4 khi hệ số hồi quy có giá trị -0.00376 và có 
ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Khi đó, nếu mức 
độ đa dạng hóa ngành không liên quan tăng 1 
bit thì rủi ro phá sản giảm 0.376%, hay mức 
rủi ro này sẽ giảm 0.0376% nếu mức độ đa 
26 Vũ Hữu Thành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 16-29 
dạng hóa tăng 0.1 bit. Mức tác động như vừa 
nêu là không lớn nhưng phần nào cũng cho 
thấy việc đa dạng sang ngành kinh doanh khác 
ngành kinh doanh chính giúp cho doanh 
nghiệp giảm được rủi ro biến động của chu kỳ 
kinh doanh. Các ngành kinh doanh khác nhau 
thường có chu kỳ kinh doanh khác nhau nên 
rủi ro chu kỳ sẽ giảm và từ đó góp phần làm 
cho rủi ro phá sản giảm đi. 
5. Kết luận và hàm ý quản trị 
5.1. Kết luận 
Căn cứ vào cơ sở lý thuyết và các nghiên 
cứu thực nghiệm trước, nghiên cứu đã xây 
dựng các giả thuyết nghiên cứu về tác động 
của hai loại hình đa dạng hóa kinh doanh tới 
hiệu quả và rủi ro. Và để ước lượng được mối 
liên hệ trên ở thực nghiệm, nghiên cứu đã sử 
dụng mô hình ước lượng SEM được điều 
chỉnh cho dữ liệu bảng cùng với các kiểm 
định sai phạm mô hình cần thiết. Kết quả ước 
lượng có một số điểm đáng lưu ý như sau: 
Thứ nhất, mô hình ước lượng SEM trong 
nghiên cứu đã thỏa mãn hầu hết các kiểm định. 
Thứ hai, xét riêng tác động của RB_DIV 
tới ROE, hệ số hồi quy mang dấu dương và có 
ý nghĩa thống kê ở mức 1% và hệ số tác động 
là 0.095. Nghiên cứu đã nhận định rằng có thể 
các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu đã 
tận dụng tốt được các nguồn lực dùng chung 
để tạo ra được hiệu quả theo quy mô và từ đó 
có được hiệu quả hoạt động cao hơn. Ở góc 
độ tác động tới RISK, hệ số tác động biên 
bằng 0.00678 và có ý nghĩa thống kê ở mức 
1% và như vậy doanh nghiệp có doanh thu ở 
những ngành gần nhau sẽ có chu kỳ kinh 
doanh dao động khá tương đồng nhau, khi đó 
rủi ro sẽ tăng cao. Từ kết quả tác động, có thể 
nhận định rằng việc doanh nghiệp đa dạng hóa 
sang ngành kinh doanh có liên quan sẽ mang 
tính đánh đổi giữa hiệu quả và rủi ro phá sản 
nhưng mức đánh đổi này có vẻ không lớn. 
Thứ ba, xét riêng tác động của biến 
UB_DIV tới ROE, hệ số hồi quy mang dấu 
âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 1% và mức 
tác động biên bằng 0.123. Ở góc độ tác động 
tới RISK, hệ số hồi quy có giá trị -0.00376 và 
có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Từ đây, có thể 
nhận định rằng việc doanh nghiệp đa dạng hóa 
sang ngành kinh doanh không liên quan cũng 
sẽ mang tính đánh đổi giữa hiệu quả và rủi ro 
phá sản nhưng mức đánh đổi này cũng không 
thực sự đáng kể. 
5.2. Hàm ý quản trị 
Căn cứ vào các kết quả phân tích, nghiên 
cứu đưa ra một số kiến nghị liên quan tới hoạt 
động đa dạng hóa kinh doanh của doanh 
nghiệp như sau: 
Thứ nhất, đa dạng hóa kinh doanh, dù ở 
khía cạnh có liên quan hay không liên quan tới 
ngành kinh doanh chính đều có tác động nhất 
định tới hiệu quả và rủi ro phá sản. Nếu doanh 
nghiệp mở rộng kinh doanh vào các ngành có 
liên quan tới ngành kinh doanh chính thì ROE 
được cải thiện nhưng RISK lại tăng lên. 
Ngược lại, mở rộng kinh doanh sang các 
ngành không liên quan sẽ giảm RISK nhưng 
cũng giảm ROE. Nếu ngành kinh doanh chính 
của doanh nghiệp đang có rủi ro cao, doanh 
nghiệp có thể xem xét đa dạng hóa kinh doanh 
ở các ngành không liên quan để giảm thiểu 
RISK và chấp nhận đánh đổi lại là ROE sẽ 
giảm đi. Nếu ngành kinh doanh chính của 
doanh nghiệp có chiều hướng đi xuống hoặc 
có mức độ rủi ro ít thì doanh nghiệp nên mở 
rộng kinh doanh sang các ngành có liên quan. 
Thứ hai, xét ở mặt tổng thể, tác động của 
hai loại hình đa dạng hóa tới ROE và RISK 
tuy mang tính đánh đổi nhưng việc đánh đổi 
không mang tính cân xứng. Nếu RB_DIV 
tăng 0.1 bit thì ROE sẽ tăng 0.95% và RISK 
chỉ tăng 0.0678%. Ngược lại, UB_DIV tăng 
0.1 bit thì ROE sẽ giảm 1.23% và RISK chỉ 
giảm 0.0376%. Có nghĩa, việc gia tăng 0.1 bit 
ở RB_DIV có lợi hơn so với việc gia tăng 0.1 
bit ở UB_DIV. Hơn nữa, việc gia tăng này 
không làm gia tăng RISK đáng kể. Như vậy, 
doanh nghiệp khi đang ở trạng thái hoạt động 
kinh doanh bình thường thì nên mở rộng sang 
những ngành kinh doanh có liên quan tới 
ngành kinh doanh chính 
 Vũ Hữu Thành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 16-29 27 
Tài liệu tham khảo 
Afza, T., & Nazir, M. S. (2007). Is it better to be aggressive or conservative in managing working capital. Journal of 
quality and technology management, 3(2), 11-21. 
Alavifar, A., Karimimalayer, M., & Anuar, M. K. (2012). Structural equation modeling vs multiple regression. 
Engineering Science and Technology: An International Journal, 2(2), 326-329. 
Anderson, J. C., & Gerbing, D. W. (1988). Structural equation modeling in practice: A review and recommended 
two-step approach. Psychological bulletin, 103(3), 411. 
Andreß, H.-J., Golsch, K., & Schmidt, A. W. (2013). Applied panel data analysis for economic and social surveys: 
Springer Science & Business Media. 
Appuhami, B. R. (2008). The impact of firms' capital expenditure on working capital management: An empirical 
study across industries in Thailand. International Management Review, 4(1), 8. 
Barney, J. (1991). Firm resources and sustained competitive advantage. Journal of Management, 17(1), 99-120. 
BenZion, U., & Shalit, S. S. (1975). Size, leverage, and dividend record as determinants of equity risk. The Journal 
of Finance, 30(4), 1015-1026. 
Berrington, A., Smith, P., & Sturgis, P. (2006). An overview of methods for the analysis of panel data. 
Bettis, R. A., & Hall, W. K. (1982). Diversification strategy, accounting determined risk, and accounting determined 
return. Academy of Management Journal, 25(2), 254-264. 
Blum, M. (1974). Failing company discriminant analysis. Journal of Accounting Research, 1-25. 
Brush, T. H., Bromiley, P., & Hendrickx, M. (2000). The free cash flow hypothesis for sales growth and firm 
performance. Strategic Management Journal, 455-472. 
Castagna, A., & Matolcsy, Z. (1978). The relationship between accounting variables and systematic risk and the 
prediction of systematic risk. Australian Journal of Management, 3(2), 113-126. 
Chakravarthy, B. S. (1986). Measuring strategic performance. Strategic Management Journal, 7(5), 437-458. 
Chang, Y., & Thomas, H. (1989). The impact of diversification strategy on risk-return performance. Strategic 
Management Journal, 10(3), 271-284. 
Cho, H.-J., & Pucik, V. (2005). Relationship between innovativeness, quality, growth, profitability, and market 
value. Strategic Management Journal, 26(6), 555-575. 
Claessens, S., Djankov, S., & Nenova, T. (2001). Corporate growth and risk around the world. Financial crises in 
emerging markets, 305-338. 
Connolly, T., Conlon, E. J., & Deutsch, S. J. (1980). Organizational effectiveness: A multiple-constituency 
approach. Academy of Management Review, 5(2), 211-218. 
Dambolena, I. G., & Khoury, S. J. (1980). Ratio stability and corporate failure. The Journal of Finance, 35(4), 1017-1026. 
Deakin, E. B. (1972). A discriminant analysis of predictors of business failure. Journal of Accounting Research, 
167-179. 
Deloof, M. (2003). Does working capital management affect profitability of Belgian firms? Journal of Business 
Finance & Accounting, 30(34), 573-588. 
Dempsey, M. (2010). The book-to-market equity ratio as a proxy for risk: evidence from Australian markets. 
Australian Journal of Management, 35(1), 7-21. 
Dichev, I. D. (1998). Is the risk of bankruptcy a systematic risk? The Journal of Finance, 53(3), 1131-1147. 
Fox, J. (2006). Teacher's corner: structural equation modeling with the sem package in R. Structural equation 
modeling, 13(3), 465-486. 
Giacomino, D. E., & Mielke, D. E. (1993). Cash flows: Another approach to ratio analysis. Journal of Accountancy, 
175(3), 55. 
28 Vũ Hữu Thành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 16-29 
Glancey, K. (1998). Determinants of growth and profitability in small entrepreneurial firms. International Journal of 
Entrepreneurial Behavior & Research, 4(1), 18-27. 
Hall, E. H., & St John, C. H. (1994). A methodological note on diversity measurement. Strategic Management 
Journal, 15(2), 153-168. 
Hennawy, R., & Morris, R. C. (1983). The significance of base year in developing failure prediction models. 
Journal of Business Finance & Accounting, 10(2), 209-223. 
Hitt, M. A. (1988). The measuring of organizational effectiveness: Multiple domains and constituencies. 
Management International Review, 28-40. 
Hoskisson, R. E., & Hitt, M. A. (1990). Antecedents and performance outcomes of diversification: A review and 
critique of theoretical perspectives. Journal of Management, 16(2), 461-509. 
Jansen, I. P., Ramnath, S., & Yohn, T. L. (2012). A diagnostic for earnings management using changes in asset 
turnover and profit margin. Contemporary Accounting Research, 29(1), 221-251. 
Jemison, D. B. (1981). The importance of an integrative approach to strategic management research. Academy of 
Management Review, 6(4), 601-608. 
Juan García-Teruel, P., & Martinez-Solano, P. (2007). Effects of working capital management on SME profitability. 
International Journal of managerial finance, 3(2), 164-177. 
Kaczmarek, J. (2012). The Identification and Measurement of Financial Threat Vs. The Cases of Insolvency in the 
Period of Poland's Economic Transformation. The Business & Management Review, 2(2), 255. 
Kaplan, R. S., & Cooper, R. (1998). Cost & effect: Using integrated cost systems to drive profitability and 
performance: Harvard Business Press. 
Karels, G. V., & Prakash, A. J. (1987). Multivariate normality and forecasting of business bankruptcy. Journal of 
Business Finance & Accounting, 14(4), 573-593. 
Kealhofer, S., & Bohn, J. R. (1998). Portfolio management of default risk. Net Exposure, 1(2), 12. 
Kenny, G. (2009). Diversification strategy: how to grow a business by diversifying successfully: Kogan Page 
Publishers. 
Kim, W. C., Hwang, P., & Burgers, W. P. (1993). Multinationals' diversification and the risk-return trade-off. 
Strategic Management Journal, 14(4), 275-286. 
Knecht, M. (2013). Diversification, Industry Dynamism, and Economic Performance: The Impact of Dynamic-
related Diversification on the Multi-business Firm: Springer Science & Business Media. 
Lang, L. H., & Stulz, R. M. (1993). Tobin's q, corporate diversification and firm performance: National Bureau of 
Economic Research. 
Lee, B. S., & Li, M.-Y. L. (2012). Diversification and risk-adjusted performance: A quantile regression approach. 
Journal of Banking & Finance, 36(7), 2157-2173. 
Lu, Y. (2008). Default forecasting in KMV. University of Oxford. 
Lubatkin, & Chatterjee, S. (1994). Extending modern portfolio theory into the domain of corporate diversification: 
does it apply? Academy of Management Journal, 37(1), 109-136. 
Lubatkin, M., Merchant, H., & Srinivasan, N. (1993). Construct validity of some unweighted product-count 
diversification measures. Strategic Management Journal, 14(6), 433-449. 
McNeil, A. J., Frey, R., & Embrechts, P. (2015). Quantitative risk management: Concepts, techniques and tools: 
Princeton university press. 
McQuown, J. (1997). Market versus accounting-based measures of default risk. Option Embedded Bonds.Chicago: 
Irwin Professional Publishing. 
 Vũ Hữu Thành và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 58(1), 16-29 29 
McWilliams, A., & Smart, D. L. (1993). Efficiency v. structure-conduct-performance: Implications for strategy 
research and practice. Journal of Management, 19(1), 63-78. 
Merton, R. C. (1974). On the pricing of corporate debt: The risk structure of interest rates. The Journal of Finance, 
29(2), 449-470. 
Montgomery, C. A., & Singh, H. (1984). Diversification strategy and systematic risk. Strategic Management 
Journal, 5(2), 181-191. 
Montgomery, C. A., & Wernerfelt, B. (1988). Diversification, Ricardian rents, and Tobin's q. The Rand journal of 
economics, 623-632. 
Neely, A., Gregory, M., & Platts, K. (1995). Performance measurement system design: a literature review and 
research agenda. International Journal of Operations & Production Management, 15(4), 80-116. 
Palich, L. E., Cardinal, L. B., & Miller, C. C. (2000). Curvilinearity in the diversification-performance linkage: An 
examination of over three decades of research. Strategic Management Journal, 21, 155-174. 
Pan, Y., & David, K. T. (2000). The hierarchical model of market entry modes. Journal of International Business 
Studies, 31(4), 535-554. 
Peirson, G., Brown, R., Easton, S., & Howard, P. (2014). Business finance: McGraw-Hill Education Australia. 
Penrose, E. T. (1959). Theory of the growth of the firm. Oxford University Press. 
Pils, F. (2009). Diversification, relatedness, and performance: Springer Science & Business Media. 
Ramanujam, V., & Varadarajan, P. (1989). Research on corporate diversification: A synthesis. Strategic 
Management Journal, 10(6), 523-551. 
Robins, J. A., & Wiersema, M. F. (2003). The measurement of corporate portfolio strategy: Analysis of the content 
validity of related diversification indexes. Strategic Management Journal, 24(1), 39-59. 
Rumelt, R. P. (1982). Diversification strategy and profitability. Strategic Management Journal, 3(4), 359-369. 
Santos, J. B., & Brito, L. A. L. (2012). Toward a subjective measurement model for firm performance. BAR-
Brazilian Administration Review, 9(SPE), 95-117. 
Shepherd, W. G. (1986). On the core concepts of industrial economics. Mainstreams in industrial organization (pp. 
23-67): Springer. 
Stata, A. (2015). Stata Base Reference Manual Release 14. Citeseer. 
Vasicek, O. A. (1984). Credit valuation: KMV Corporation, March. 
Venkatraman, N., & Prescott, J. E. (1990). The market share-profitability relationship: Testing temporal stability 
across business cycles. Journal of Management, 16(4), 783-805. 
Venkatraman, N., & Ramanujam, V. (1986). Measurement of business performance in strategy research: A 
comparison of approaches. Academy of Management Review, 11(4), 801-814. 
Vishnani, S., & Shah, B. K. (2007). Impact of working capital management policies on corporate performance—An 
empirical study. Global Business Review, 8(2), 267-281. 
Voelkle, M. C., Oud, J. H., Davidov, E., & Schmidt, P. (2012). An SEM approach to continuous time modeling of 
panel data: relating authoritarianism and anomia. Psychological methods, 17(2), 176. 
Wan, W. P., Hoskisson, R. E., Short, J. C., & Yiu, D. W. (2010). Resource-based theory and corporate 
diversification: Accomplishments and opportunities. Journal of Management, 0149206310391804. 
Weiss, L. W. (1979). The structure-conduct-performance paradigm and antitrust. University of Pennsylvania Law 
Review, 1104-1140. 
Wernerfelt, B. (1984). A resource-based view of the firm. Strategic Management Journal, 5(2), 171-180. 
Wooldridge, J. (2015). Introductory econometrics: A modern approach: Nelson Education. 

File đính kèm:

  • pdfda_dang_hoa_kinh_doanh_hieu_qua_va_rui_ro.pdf