Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tác động của nó tới hoạt động thông tin - thư viện

Cuộc cách mạng là thuật ngữ được dùng để chỉ một sự thay đổi mang tính đột biến

và triệt để. Kể từ khi các công nghệ mới và phương pháp nhận thức thế giới mới tạo ra sự

thay đổi sâu sắc trong các hệ thống kinh tế và kết cấu xã hội, lịch sử thế giới ghi nhận các

cuộc cách mạng công nghiệp:

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất: Năm 1775, phát minh ra động cơ hơi

nước của James Watt được công bố, đã châm ngòi cho sự bùng nổ của cuộc cách mạng

công nghiệp thế kỷ 19. Cuộc cách mạng sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới

hóa sản xuất, đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại – kỷ nguyên sản xuất cơ

khí. Cuộc cách mạng làm thay thế hệ thống kỹ thuật mang tính nông nghiệp chủ yếu dựa

vào gỗ, sử dụng sức lao động bằng hệ thống kỹ thuật mới với nguồn động lực là máy hơi

nước và nguồn nguyên vật liệu và năng lượng mới là sắt và than đá.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai, từ khoảng năm 1870 đến khi chiến tranh

thế giới lần thứ nhất diễn ra, sử dụng năng lượng điện để tạo nền sản xuất quy mô lớn. Yếu

tố quyết định của cuộc cách mạng là chuyển sang sản xuất trên cơ sở điện – cơ khí và sang

giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất, tạo ra các ngành mới trên cơ sở khoa học

thuần túy, biến khoa học thành một ngành lao động đặc biệt. Cuộc cách mạng mở ra kỷ

nguyên sản xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và dây chuyền lắp ráp.

pdf 11 trang kimcuc 5040
Bạn đang xem tài liệu "Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tác động của nó tới hoạt động thông tin - thư viện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tác động của nó tới hoạt động thông tin - thư viện

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tác động của nó tới hoạt động thông tin - thư viện
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ 
TỚI HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN - THƯ VIỆN 
Nguyễn Thị Minh Trung 
Nguyễn Lê Phương Hoài 
Tóm tắt: Bài viết giới thiệu lược sử các cuộc cách mạng công nghiệp, trình bày về cuộc 
cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tác động của nó tới hoạt động thông tin - thư viện, 
thể hiện qua những thay đổi trong phương thức cung cấp sản phẩm và dịch vụ thư viện, 
không gian và trang thiết bị thư viện, đội ngũ cán bộ thư viện, và nhu cầu sử dụng dịch vụ 
thư viện của người dùng tin. 
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ 
1.1. Lược sử về các cuộc cách mạng công nghiệp 
Cuộc cách mạng là thuật ngữ được dùng để chỉ một sự thay đổi mang tính đột biến 
và triệt để. Kể từ khi các công nghệ mới và phương pháp nhận thức thế giới mới tạo ra sự 
thay đổi sâu sắc trong các hệ thống kinh tế và kết cấu xã hội, lịch sử thế giới ghi nhận các 
cuộc cách mạng công nghiệp: 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất: Năm 1775, phát minh ra động cơ hơi 
nước của James Watt được công bố, đã châm ngòi cho sự bùng nổ của cuộc cách mạng 
công nghiệp thế kỷ 19. Cuộc cách mạng sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới 
hóa sản xuất, đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại – kỷ nguyên sản xuất cơ 
khí. Cuộc cách mạng làm thay thế hệ thống kỹ thuật mang tính nông nghiệp chủ yếu dựa 
vào gỗ, sử dụng sức lao động bằng hệ thống kỹ thuật mới với nguồn động lực là máy hơi 
nước và nguồn nguyên vật liệu và năng lượng mới là sắt và than đá. 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai, từ khoảng năm 1870 đến khi chiến tranh 
thế giới lần thứ nhất diễn ra, sử dụng năng lượng điện để tạo nền sản xuất quy mô lớn. Yếu 
tố quyết định của cuộc cách mạng là chuyển sang sản xuất trên cơ sở điện – cơ khí và sang 
giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất, tạo ra các ngành mới trên cơ sở khoa học 
thuần túy, biến khoa học thành một ngành lao động đặc biệt. Cuộc cách mạng mở ra kỷ 
nguyên sản xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và dây chuyền lắp ráp. 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, xuất hiện vào khoảng năm 1969, gắn với 
sự ra đời và lan tỏa của công nghệ thông tin, sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự 
động hóa sản xuất. Cuộc cách mạng còn được gọi là cuộc cách mạng máy tính, được thúc 
đẩy nhờ cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Cuộc cách mạng thay thế phần lớn 
 Thạc sĩ, Trưởng phòng Nghiệp vụ Thư viện, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt 
Nam 
 Thạc sĩ, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam 
chức năng của con người bằng các thiết bị máy móc tự động hóa hoàn toàn trong quá trình 
sản xuất nhất định. 
1.2. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư 
Thuật ngữ Công nghiệp 4.0 (Industry 4.0) bắt nguồn từ cuộc thảo luận Industry 4.0 
được tổ chức tại Hội chợ Hanover, Đức năm 2011. Thuật ngữ Cuộc cách mạng công nghiệp 
lần thứ tư (The Fourth Industrial Revolution – FIR) lần đầu tiên được đề cập trong báo cáo 
của một dự án trong chiến lược công nghệ cao khuyến khích việc tin học hóa sản xuất được 
Chính phủ Đức thông qua năm 2012. Theo Klaus Schwab1, FIR là một thuật ngữ bao gồm 
một loạt các công nghệ tự động hóa hiện đại, xu hướng trao đổi dữ liệu, công nghiệp chế 
tạo và sản xuất thông minh. FIR không chỉ là về các máy móc, hệ thống thông minh và 
được kết nối, mà còn có phạm vi rộng lớn hơn. Đồng thời là các làn sóng của những đột 
phá xa hơn trong các lĩnh vực khác nhau từ mã hóa chuỗi gen cho tới công nghệ nano, từ 
các năng lượng tái tạo tới tính toán lượng tử2. Theo Hồ Tú Bảo, công nghệ số là khái niệm 
cơ bản của FIR, phản ánh mối liên hệ của sản xuất tiến hành trong thế giới các thực thể 
nhưng quá trình tính toán được làm trên không gian số và kết quả tính toán này được trả 
lại dùng cho sản xuất trong thế giới các thực thể. Đây là thay đổi cơ bản về phương thức 
sản xuất của con người, sản xuất được điều khiển và hỗ trợ quyết định từ không gian số3. 
Nhiều ý kiến cho rằng, FIR là xu hướng hiện tại của tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong 
công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống mạng vật lý, mạng Internet kết nối vạn vật 
(Internet of Things – IoT) và điện toán đám mây (Cloud Computing). 
Bàn về đặc điểm của FIR, tác giả Alasdair Gilchrist trong cuốn sách Industry 4.0-
The Industrial Internet of Things cho rằng các nhà máy thông minh là cốt lõi của FIR, và 
chúng không thể hoạt động độc lập, cần phải kết nối các nhà máy thông minh, các sản 
phẩm thông minh và những hệ thống sản xuất thông minh khác4. Các nhà máy thông minh 
có các hệ thống vật lý không gian ảo giám sát quá trình vật lý, tạo ra một bản sao ảo của 
thế giới vật lý. Với IoT, các hệ thống vật lý không gian ảo tương tác với nhau và với con 
người theo thời gian thực. Thông qua Internet kết nối dịch vụ (Internet of Services- IoS), 
người dùng sử dụng các dịch vụ, sẽ được tham gia vào chuỗi giá trị. Các sản phẩm thông 
minh gắn cảm biến báo cho máy móc biết chúng cần được xử lý như thế nào. Các thiết bị 
nhúng thông minh làm việc với nhau qua mạng không dây hoặc thông qua hệ thống đám 
mây. Hệ thống sản xuất thực - ảo (Cyber Physical Systems – CPS) là mạng lưới giao tiếp 
trực tuyến giữa các máy móc với nhau, được tổ chức như mạng xã hội, chỉ cần cấp địa chỉ 
mạng, chúng sẽ tạo ra liên kết IT với các thành phần cơ – điện tử, sau đó giao tiếp với nhau 
1 Nhà kinh tế học người Thụy Sĩ, Sáng lập viên kiêm Chủ tịch Diễn đàn kinh tế thế giới. 
2 Klaus Schwab (2016), The Fourth Industrial Revolution 
3 Hồ Tú Bảo (2017), Hiểu và đi trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư, 
doi-moi-sang-tao/Hieu-va-di-trong-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-10652 , truy cập ngày 
10/10/2017 
4 Alasdair Gilchrist (2016), Industry 4.0 – The Industrial Internet of Things, Apress Media LLC, New 
York, p. 199. 
thông qua hạ tầng mạng. Sự liên kết sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thiết lập và duy trì các 
mạng lưới tạo ra giá trị và gia tăng giá trị. Theo các chuyên gia của Deloitte5, các mạng 
lưới được tối ưu hóa hoạt động theo thời gian thực, cho phép tính minh bạch, mang lại tính 
linh hoạt cao để phản ứng nhanh hơn đối với các vấn đề và các sai sót, tạo điều kiện thuận 
lợi để tối ưu hóa toàn cầu6. FIR đã bao gồm cả quy trình sản xuất và toàn bộ vòng đời của 
sản phẩm. Các nhà sản xuất đặt trọng tâm vào chất lượng và sự hài lòng của khách hàng 
để tạo ra những sản phẩm đáp ứng sự mong đợi của khách hàng. Và cuối cùng, những tác 
động của các công nghệ theo cấp số nhân có thể được coi là chất gia tốc hay chất xúc tác 
cho phép các giải pháp cá nhân hóa, linh hoạt, tiết kiệm chi phí trong quy trình công nghiệp. 
FIR yêu cầu các giải pháp tự động hóa để có khả năng nhận thức và tự chủ cao hơn. 
II. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ TỚI HOẠT 
ĐỘNG THÔNG TIN - THƯ VIỆN 
FIR đang xóa nhòa khoảng cách giữa thế giới thực và thế giới ảo thông qua các công 
nghệ tiên tiến, sự đổi mới, sáng tạo không ngừng. FIR có tác động đến tất cả các lĩnh vực 
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường Đối với hoạt động thông tin - thư viện, 
FIR tác động, tạo nên những thay đổi lớn trong cả bốn yếu tố: Sản phẩm và dịch vụ thư 
viện, Không gian, trang thiết bị thư viện; Cán bộ thư viện và Người dùng thư viện 
2.1. Tác động đến sản phẩm và dịch vụ thư viện 
Sự bùng nổ và gia tăng nhanh chóng nội dung số đã dẫn tới xu thế ngày càng phát 
triển mạnh mẽ các tài liệu ở dạng điện tử. Tài liệu chuyển dịch từ in sang định dạng số, 
theo nhiều cách: 
Một là, Xuất bản điện tử: Hiện nay, hầu hết các tạp chí khoa học và nghiên cứu, ấn 
phẩm nhiều kỳ, sách, âm nhạc và phim ảnh, tất cả những nội dung điện tử đều có xu hướng 
xuất bản chung này. Đặc biệt, những ấn phẩm nhiều kỳ là dạng tài liệu hướng tới phân phối 
dưới dạng số sớm nhất. Nhiều thư viện đại học và thư viện cơ quan nghiên cứu đã và đang 
trải qua sự dịch chuyển tạp chí khoa học và nghiên cứu từ dạng in sang dạng xuất bản điện 
tử. Nhiều trường đại học và cơ quan nghiên cứu trên thế giới đã thay vì mở rộng các ấn 
phẩm nhiều kỳ đóng tập bằng các sản phẩm hay cơ sở dữ liệu tạp chí điện tử. Trong lĩnh 
vực xuất bản tài liệu nghiên cứu và học thuật, xuất bản truy cập mở (Open Access 
Publishing), cho phép tác giả chi trả phí xuất bản để hỗ trợ sự truy cập miễn phí vĩnh viễn 
tới tài liệu hay ấn phẩm nhiều kỳ xuất bản theo mô hình này. 
Hai là, Số hóa tài liệu: Các bản thảo, hình ảnh, và nhiều tài liệu nghiên cứu có tính 
lịch sử đang được số hóa. Các công nghệ số mở ra khả năng tiếp cận dễ dàng đến những 
kho tài liệu này hơn khi mà những tài liệu này bị bó hẹp bởi khả năng tiếp cận theo cách 
truyền thống. Sách cũng sẽ thay đổi hoàn toàn. Tất cả sách đã được xuất bản sẽ được số 
5 Công ty kiểm toán, tư vấn tài chính, quản lý rủi ro, thuế Hoa Kỳ 
6 Deloitte (2014), Industry 4.0 challenges and solutions for the digital transformation and use of 
exponential technologies, Switzerland, tr. 7. 
hóa. Nhiều dự án số hóa khối lượng lớn đang diễn ra. Dự đoán, trong 20 năm nữa, tất cả 
sách mới sẽ được xuất bản dưới dạng số, các bộ sưu tập thư viện hiện nay sẽ chuyển dịch 
ra khỏi các bộ sưu tập in truyền thống. 
Tỷ lệ tài liệu điện tử /tài liệu truyền thống trong các thư viện thay đổi theo hướng 
nghiêng về phát triển tài liệu điện tử. Các thư viện phát triển tài liệu điện tử theo 3 cách: 1) 
Tự tiến hành số hóa nguồn tư liệu in của thư viện, 2) Bổ sung /tích hợp nguồn tin điện tử 
thông qua việc mua, trao đổi tài liệu điện tử đang được xuất bản và 3) Xây dựng các liên 
kết (tạo khả năng truy cập) đến các nguồn tài liệu trực tuyến trên Internet. Nguồn tài liệu 
trực tuyến và cùng với nó là các loại hình sản phẩm, dịch vụ thông tin tương ứng được chú 
trọng phát triển với gia tốc ngày càng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Các thư viện 
xây dựng dữ liệu (data) bao gồm các sáng kiến mới và cơ hội hợp tác mới giúp thư viện 
nâng cao năng lực và hiệu quả kiểm soát dữ liệu. Thư viện chú trọng sự hợp tác, liên kết 
với giới nghiên cứu, các trung tâm lưu trữ dữ liệu, các nhà xuất bản và các tạp chí khoa 
học để có thể sử dụng chung nguồn dữ liệu khổng lồ nhằm phục vụ việc học tập, nghiên 
cứu, giảng dạy. Thư viện cũng sẽ liên kết với các đối tác khác để tăng khả năng tạo ra hay 
tái sử dụng các dữ liệu khoa học. 
Dịch vụ thư viện truyền thống được cung cấp cho người dùng tin dựa trên những bộ 
sưu tập in thư viện có. Sự tập trung chính của dịch vụ thư viện truyền thống thường dựa 
trên khả năng bổ sung tài liệu của thư viện hay dịch vụ cung cấp tài liệu mà thư viện sẵn 
có. Hiện nay tài nguyên điện tử trực tuyến trên Internet, cho phép người dùng truy cập dễ 
dàng từ mọi nơi. Người dùng tin có thể truy xuất thông tin trực tiếp, ngay lập tức thay vì 
thông qua dịch vụ mượn trả của thư viện. Thư viện hiện nay đang trong giai đoạn chuyển 
tiếp từ phục vụ các bộ sưu tập in sang kết hợp bộ sưu tập in và bộ sưu tập điện tử/số để trở 
thành một thư viện lai (hybrid library). Thư viện lai kết hợp dịch vụ thư viện truyền thống 
ở mức tự động hóa cao và tích hợp chuyển giao điện tử mở rộng các nguồn tài nguyên 
thông tin, nội dung và kiến thức dưới định dạng số. Sau chuyển đổi, trở thành thư viện số 
hoàn toàn, thư viện sẽ cung cấp các dịch vụ Phân tích và xử lí nhiều loại tài nguyên thông 
tin khác nhau; Thúc đẩy và tổ chức các giá trị tiềm ẩn trong mọi thông tin, Cung cấp những 
sản phẩm và dịch vụ thông tin có giá trị gia tăng cao đúng lúc, đúng đối tượng và Chuyển 
giao thông tin đúng đến người dùng, các dịch vụ chuyên biệt và định hướng người dùng7. 
Thiết bị di động như điện thoại thông minh, máy tính bảng, và các thiết bị đọc điện tử ngày 
càng chiếm phần lớn thị phần tiêu dùng thông tin. Để thích nghi với sự chuyển dịch sang 
tiêu dùng nội dung trên các thiết bị di động, các thư viện tối ưu năng lực tìm kiếm của mục 
lục thư viện cho thiết bị di động, tích hợp các cơ sở dữ liệu trực tuyến sẵn có vào cùng một 
ứng dụng web hoặc ứng dụng di động, tích hợp nội dung di động với các dịch vụ thư viện. 
Các dịch vụ nội dung di động mới được các thư viện triển khai như là: 1) Sử dụng ứng 
dụng xem tạp chí điện tử cho thiết bị di động, cho phép bạn đọc tìm duyệt, đọc và theo dõi 
tạp chí khoa học; 2) Cung cấp danh mục tài nguyên thông tin có thể truy cập qua website 
và ứng dụng di động; và 3) Dịch vụ cho mượn các thiết bị di động như máy tính bảng và 
thiết bị đọc số. Theo Hiệp hội các Thư viện đại học và nghiên cứu (Association of College 
7 Qian Zhou (2013), Phát triển thư viện số ở Trung Quốc, The Electronic Library, Số 4, tr. 433-441 
and Research Libraries – ACRL), trong tương lai, thư viện tiếp tục hướng tới phát triển 
các dịch vụ được cung cấp và khai thác trên các thiết bị di động. Khi các site di động và 
ứng dụng di động trở nên phổ biến, các thư viện cung cấp những giải pháp phù hợp cho 
mọi thiết bị di động như thiết kế hỗ trợ hay tương thích mọi màn hình di động, đảm bảo 
việc xem thông tin có thể được tối ưu hóa cho mọi kích cỡ màn hình. Thư viện đại học phát 
triển các dịch vụ truy cập mở và giáo dục mở. Thư viện cơ quan nghiên cứu tổ chức các 
dịch vụ liên quan tới trắc lượng các công bố khoa học, cung cấp các số liệu thống kê đối 
với các công bố khoa học, phục vụ việc đánh giá khoa học 8 
2.2. Tác động đến không gian, trang thiết bị thư viện 
Dưới tác động của FIR, bức tranh thông tin trong xã hội đã thay đổi hoàn toàn, cấu 
trúc mới của nhu cầu thông tin đã xuất hiện và tạo ra sự phát triển, cách thức và phương 
tiện cung cấp thông tin, phương pháp và công nghệ xử lý thông tin đã thay đổi, cách thức 
sử dụng tài liệu trong thư viện của bạn đọc cũng thay đổi. Các thư viện theo đó chuyển 
hướng cung cấp việc truy cập đến các nguồn tin thay vì tập trung xây dựng bộ sưu tập. 
Theo đó, không gian, trang thiết bị thư viện sẽ nhiều thay đổi: 
Trước đây, không gian thư viện chủ yếu được dành cho việc lưu giữ sách, tạp chí. 
Khi các thư viện chuyển dịch hoàn toàn vốn tài liệu từ dạng in sang dạng số, các tài liệu 
truyền thống sẽ được lưu giữ dưới hình thức nén lại, các loại dịch vụ hỗ trợ các hoạt động 
khoa học khác sẽ được chú trọng chuyển tới các không gian mới mà thư viện có thể sử 
dụng để phục vụ người dùng tin. Theo D. Attis, không gian thư viện thế hệ mới phải là nơi 
cung cấp việc truy cập tới các sách, tạp chí điện tử thay vì các tài liệu in9. Không gian thư 
viện dần hạn chế lưu giữ các nguồn tin truyền thống, dành tối đa không gian cho người 
dùng tin học tập, nghiên cứu, trao đổi, chia sẻ thông tin với nhau. Đồng thời, thư viện tạo 
không gian linh hoạt, có thể chia tách không gian thành các khu vực để thực hiện các chức 
năng khác nhau khi phục vụ người dùng tin. Phát triển kết nối không dây và truy cập tại 
các trạm dịch vụ tạo thuận tiện cho người dùng tin khai thác thư viện. Không gian thư viện 
thay đổi theo hướng sẵn sàng các khả năng tích hợp với các dịch vụ hỗ trợ công tác nghiên 
cứu, đào tạo theo yêu cầu của người dùng tin. Và mở một phần không gian đáp ứng nhu 
cầu thông thường của người dùng tin như quán cà phê, khu vực phục vụ ăn nhanh, giải trí, 
trao đổi thông tin cá nhân Máy in 3D, truyền thông Labs và không gian cộng tác, nơi 
mọi người có thể cùng nhau làm việc trong các khu vực riêng biệt cho công việc và nghiên 
cứu yên tĩnh là những cách thức khác mà thư viện có thể làm cho không gian thư viện thu 
hút người dùng tin. 
8 Association of College and Research Libraries (2014), Top Trends in Academic Libraries: A 
review of the trends and issues affecting academic libraries in higher education / ACRL Research 
Planning and Review Committee. 
 truy cập tháng 10 năm 2017. 
9 Attis D. (2013), Redefining the academic library: Mana-ging the migration to digital information 
services, Ontario, McMaster University. 
Ở góc độ công nghệ, theo nhận định của Booth M., McDonald S. và Tiffen B, Web 
2.0 và các phương tiện truyền thông đã mở ra một thế giới tương tác trực tuyến, thực hiện 
việc chia sẻ và trao đổi thông tin một cách có hiệu quả đối với cả thế giới ảo /thế giới số và 
thế giới thực. Các hoạt động mang tính truyền thống của thư viện đang vận động theo mô 
hình tự phục vụ. Môi trường để phát triển các mô hình hệ thống sản phẩm và dịch vụ thư 
viện ngày nay chính là mạng thông tin và các dịch vụ được phát triển trên đó, cũng như các 
công nghệ không dây khác theo xu hướng cá thể hoá, di động hoá10. Từ FIR, sự hội tụ giữa 
ứng dụng vật lý và ứng dụng kỹ thuật số là sự xuất hiện của IoT. Cảm biến và các giải pháp 
kết nối thế giới thực vào mạng không gian ảo đang phát triển với tốc độ đáng kinh ngạc. 
Các cảm biến nhỏ hơn, rẻ hơn và thông minh hơn được phát triển ngày càng nhiều. Ngày 
nay, có hàng tỉ thiết bị trên toàn thế giới như điện thoại thông minh, máy tính bảng và máy 
tính được kết nối internet. Số lượng thiết bị được dự kiến sẽ tăng lên đáng kể trong vài năm 
tới, ước tính vài tỷ đến hơn một nghìn tỷ thiết bị. Điều này sẽ làm thay đổi hoàn toàn cách 
thức quản lý chuỗi cung ứng bằng cách cho phép sự giám sát và tối ưu hóa tài sản và các 
hoạt động đến một mức rất chi tiết. Các thiết bị làm thay đổi cách thức truyền và truy cập 
thông tin. Các thư viện cần nhiều cơ sở hạ tầng kỹ thuật khác nhau. Hệ thống quản trị thư 
viện tích hợp (Integrated Library System – ILS) trong một thời gian được xem là giải pháp 
cần thiết tích hợp các chuyển giao tài nguyên thông minh trong môi trường số nhằm hướng 
tới mục tiêu dài hạn trong việc cung cấp một nền tảng công nghệ giúp cán bộ thư viện vận 
hành phù hợp. Thì đến nay, ILS vốn được áp dụng cho các thư viện có đối tượng quản lý 
chủ yếu là tài liệu in (physical materials), không hiệu quả với các định dạng số. Trong 
tương lai gần, các bộ sưu tập điện tử, số của thư viện đòi hỏi mô hình hệ thống tự động hóa 
thư viện phù hợp hơn. Công nghệ RFID ưu việt trong quản lý và vận hành các tài liệu thư 
viện, xử lý tài liệu tự động, hướng tới việc tạo sự tiện nghi và chủ động cho bạn đọc thư 
viện, giúp bạn đọc tự lưu thông, mượn, trả tài liệu. Tuy nhiên khi thư viện dịch chuyển 
sang thư viện số, RFID cần được thay thế bằng công nghệ khác phù hợp hơn. Những sản 
phẩm ứng dụng nhằm cung cấp dịch vụ phát hiện tài nguyên thông tin đa dạng, ví dụ như 
một lớp tìm kiếm và những dịch vụ bao gồm các tài liệu điện tử, số và tài liệu in sẽ dễ dàng 
chung hòa những quá trình chuyển dịch sang dạng số đã dự báo trước này. Việc chia tách 
các giao diện người dùng tin với hạ tầng công việc quản lý nội dụng ở phía sau đã cung 
cấp một sự linh hoạt to lớn. Vì các thư viện cần những cấu thành mới để hỗ trợ quản lý 
những bộ sưu tập số ngày một tăng của họ, do vậy cần tích hợp những sản phẩm lớp phát 
hiện tài nguyên thông tin tiên tiến này. 
2.3. Tác động đến đội ngũ cán bộ thư viện 
Công nghệ không làm giảm bớt vai trò của cán bộ thư viện trong việc chuyển giao 
thông tin tới người dùng tin. Rusbridge nhận định nhiệm vụ của cán bộ thư viện trong thế 
giới số cũng như những gì đã thực hiện trong thế giới tài liệu in ấn không chỉ trong việc 
ngăn chặn truy cập tới các tài liệu rác, mà còn trong việc khuyến khích truy cập tới những 
10 Booth M., McDonald S., Tiffen B. (2015), A new vision for university libraries, 
 truy cập tháng 10 
năm 2017 
gì có chất lượng11. Tuy nhiên, công nghệ phát triển mang lại nhiều cơ hội lớn cho cán bộ 
thư viện, đặc biệt làm tăng khả năng cung cấp các dịch vụ thông tin dễ dàng, kịp thời và 
phù hợp cho người dùng tin. Đồng thời, công nghệ làm thay đổi cơ bản công việc của người 
cán bộ thư viện. Trong môi trường thư viện truyền thống, cán bộ thư viện chủ yếu xử lý 
thông tin, phục vụ bên trong thư viện dựa trên các bộ sưu tập và nhu cầu của người sử 
dụng. Trong kỷ nguyên thông tin, công việc của các cán bộ thư viện trở nên đa dạng, gồm: 
Lựa chọn, bổ sung, bảo quản, tổ chức và quản lý các bộ sưu tập số; Thiết kế kết cấu kỹ 
thuật cho thư viện số; Mô tả nội dung và thuộc tính của đầu mục hoặc đối tượng (siêu dữ 
liệu); Lập kế hoạch, thực hiện và hỗ trợ các dịch vụ số như định hướng thông tin, tư vấn 
và chuyển giao; Tạo lập giao diện thân thiện người dùng trên toàn bộ hệ thống mạng; Xây 
dựng các chính sách và tiêu chuẩn liên quan đến thư viện số; Thiết kế, duy trì và chuyển 
giao các sản phẩm thông tin với giá trị gia tăng; Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với thông 
tin số trong môi trường mạng; Đảm bảo an ninh thông tin. Theo Helle Partridge, trong môi 
trường khoa học thư viện ngày nay, cán bộ thư viện 2.0 cần phải chú trọng đến kỹ năng 
cứng, kỹ năng mềm và thái độ làm việc12. Bàn về kỹ năng cho cán bộ thư viện trong thời 
đại ngày nay, tổ chức LibSource13 đã chỉ dẫn 5 kỹ năng mà cán bộ thư viện cần có: Kỹ 
năng tìm kiếm, liên kết tới nguồn thông tin: Thành thạo các công cụ tìm tin, chiến lược và 
kỹ thuật tìm tin, phân tích yêu cầu tìm, diễn đạt lệnh tìm kiếm, tìm kiếm hiệu quả Kỹ 
năng nghiên cứu, phân tích, đánh giá nguồn thông tin: Phân tích và diễn giải thông tin, 
nhận dạng thông tin phù hợp với nhu cầu tin của người dùng tin, xử lý và tổng hợp kết quả 
tìm, đánh giá kết quả sử dụng nguồn thông tin, đánh giá chất lượng và hiệu quả của các sản 
phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện Kỹ năng tổ chức nguồn thông tin: Biên tập và tạo 
lập nguồn tin theo nhu cầu tin, trình bày thông tin và xuất bản điện tử, xây dựng và phát 
triển nguồn tin số, xử lý thông tin số, quản trị tri thức, phát triển các sản phẩm và dịch vụ 
thông tin số, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ thông tin có giá trị gia tăng... Kỹ năng làm 
việc trong môi trường di động: Hiểu biết môi trường di động, điện toán đám mây và Kỹ 
năng hợp tác, huấn luyện, tạo điều kiện thuận lợi cho người dùng tin. Thành thạo 5 kỹ 
năng này, người cán bộ thư viện sẽ trở thành một chuyên gia quản lý thông tin, gia tăng 
khả năng tồn tại với nghề. 
Trong tương lai, K. Nageswara Rao và KH Babu xác định: Cán bộ thư viện, là người 
trung gian tìm kiếm thông tin, hỗ trợ, đào tạo người dùng tin, xây dựng website hoặc nhà 
11 Burke, Liz (2011), The future role of librarians in the virtual library environment, The Australian 
Library Journal,  truy cập 
tháng 10 năm 2017. 
12 Partridge, Helen L., Lee, Julie M., Munro Carrie (2010), Becoming “Librarian 2.0”: the skills, 
knowledge, and attributes required by library and information science professionals in a Web 2.0 
world (anhd beyond), Library Trends, 59 (1/2), tr. 315-335. 
13 LibSource (2015), Top 5 librarian skills information curation, 
librarian-skills-information-curation/, truy cập tháng 10 năm 2017. 
xuất bản, nghiên cứu, thiết kế giao diện, quản lý tri thức và sàng lọc các nguồn thông tin14. 
Để có thể đáp những đòi hỏi về công việc trong những thư viện số, các cán bộ thư viện cần 
có những năng lực và kiến thức về: 1) Hệ thống kiến thức tổng hợp về khoa học thư viện, 
máy tính, truyền thông, công nghệ 2) Kiến thức thông tin cấp độ cao, khả năng nhạy bén 
với nguồn tin (Phản ứng nhanh nhạy với những nguồn thông tin bên ngoài, thành thạo tìm 
kiếm thông tin hữu dụng, cung cấp dịch vụ thông tin, làm gia tăng giá trị cho thông tin) và 
khả năng nắm bắt thông tin cao (Khả năng lọc thông tin và đánh giá tính hữu ích của thông 
tin, khả năng bổ sung, khả năng xử lý, tổ chức, quản lý thông tin, khả năng phổ biến thông 
tin) và 3) Năng lực cá nhân xuất sắc (Có mục đích sáng tạo, khả năng làm việc nhóm, linh 
hoạt, tầm nhìn xa và trí tưởng tượng tốt). 
2.4. Tác động đến nhu cầu tin và người dùng tin thư viện 
Sự bùng nổ của Internet tạo nên sự thay đổi trong phương thức tiếp cận thông tin. 
Thay vì tìm kiếm trong kho sách thư viện, giờ đây, người dùng tin chỉ cần một cái nhấp 
chuột đã nhanh chóng có khối lượng thông tin cần tìm. Thay vì phải đến thư viện trong giờ 
làm việc, người dùng tin có thể tra cứu, tìm kiếm thông tin, sử dụng sản phẩm và dịch vụ 
thư viện ở bất cứ đâu, trong bất cứ thời điểm nào. 
Công nghệ di động làm thay đổi nhu cầu của người dùng tin thư viện. Giờ đây người 
dùng tin ngày càng hứng thú hơn với việc tìm kiếm trong một mục lục thư viện, đọc tóm 
tắt và toàn văn dưới dạng số ngay lập tức, tìm và lưu tài liệu thông qua website trên thiết 
bị di động hoặc ứng dụng di động của thư viện thay vì tới thư viện để mượn tài liệu như 
trước đây. Người dùng tin cũng mong muốn truy cập nhiều hơn tới tài liệu số bao gồm sách 
điện tử, video và những hình ảnh hóa dữ liệu trên thiết bị di động. Thói quen đọc đang thay 
đổi mức tăng sử dụng thông tin trên thiết bị di động ở cả màn hình lớn và nhỏ hơn. 
Người dùng tin đều có mong muốn ngày càng tăng về tốc độ và sự sẵn có ngay lập 
tức khả năng phát hiện, truy cập thông tin tại một điểm duy nhất tới mọi dịch vụ thông tin 
tích hợp, khả năng cá nhân hóa dịch vụ, quy trình chuyển giao tài liệu ngay tới màn hình 
người dùng. Một thị trường mới cho dịch vụ thư viện và cung cấp thông tin đã và đang nổi 
lên. Trọng tâm hướng dẫn người sử dụng thư viện chuyển đổi sang hướng dẫn kỹ năng sử 
dụng hệ thống thông tin trên thiết bị di động; phổ biến các điều khoản để truy cập tới các 
bộ sưu tập; phát hiện và tiếp cận các nhóm người dùng tin mới nhằm tạo lập các dịch vụ 
mới, đặc thù; nghiên cứu sự tương tác giữa máy móc với người dùng tin nhằm đảm bảo 
phát huy tối đa tính thân thiện của hệ thống đối với người dùng và hướng vào đáp ứng cao 
nhất nhu cầu đa dạng của người dùng tin. 
Có thể nói, sự dịch chuyển các bộ sưu tập in của thư viện sang các định dạng số là 
một xu hướng tất yếu, kết hợp với việc mô hình xuất bản điện tử ngày càng phổ biến cũng 
như thay đổi, nhu cầu của người dùng tin trong kỷ nguyên Internet, khiến các thư viện phải 
thay đổi không gian thư viện, đầu tư hạ tầng kỹ thuật công nghệ và phát triển năng lực của 
14 Rao, L. Nageswara & Babu, KH (2011), Role of librarian in Internet and World wide web 
environment, Informing Science The international journal of an emerging transdiscipline, 4(1), p 
25-34. 
cán bộ thư viện nhằm phù hợp hơn với một xã hội nối kết mạng ngày hôm nay và tiếp tục 
đóng vai trò là cầu nối kiến thức cho bạn đọc của mình. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Alasdair Gilchrist (2016), Industry 4.0 – The Industrial Internet of Things, Apress 
Media LLC, New York, p. 199. 
2. Association of College and Research Libraries (2014), Top Trends in Academic 
Libraries: A review of the trends and issues affecting academic libraries in higher 
education / ACRL Research Planning and Review Committee.  
content/75/6/294.short?rss=1&ssource=mfr, truy cập tháng 10 năm 2017. 
3. Attis D. (2013), Redefining the academic library: Mana-ging the migration to digital 
information services, Ontario, McMaster University. 
4. Hồ Tú Bảo (2017), Hiểu và đi trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư, 
lan-thu-tu-10652 , truy cập ngày 10/10/2017 
5. Booth M., McDonald S., Tiffen B. (2015), A new vision for university 
libraries, 
truy cập tháng 10 năm 2017 
6. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2016), Thư viện thế kỷ XXI hướng tới cổng kiến thức, Kỷ yếu 
hội thảo, Hà Nội. 
7. Burke, Liz (2011), The future role of librarians in the virtual library environment, 
The Australian Library Journal,  
/future.role.html, truy cập tháng 10 năm 2017. 
8. Deloitte (2014), Industry 4.0 challenges and solutions for the digital transformation 
and use of exponential technologies, Switzerland, tr. 7. 
9. Klaus Schwab (2016), The Fourth Industrial Revolution LibSource (2015), Top 5 
librarian skills information curation, 
information-curation/, truy cập tháng 10 năm 2017. 
10. Partridge, Helen L., Lee, Julie M., Munro Carrie (2010), Becoming “Librarian 2.0”: 
the skills, knowledge, and attributes required by library and information science 
professionals in a Web 2.0 world (anhd beyond), Library Trends, 59 (1/2), tr. 315-
335. 
11. Qian Zhou (2013), Phát triển thư viện số ở Trung Quốc, The Electronic Library, Số 
4, tr. 433-441 
12. Rao, L. Nageswara & Babu, KH (2011), Role of librarian in Internet and World wide 
web environment, Informing Science The international journal of an emerging 
transdiscipline, 4(1), p 25-34. 
13. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2017), Cách mạng công nghiệp 4.0 từ góc 
nhìn của các nhà nghiên cứu trẻ khoa học xã hội, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfcuoc_cach_mang_cong_nghiep_lan_thu_tu_va_tac_dong_cua_no_toi.pdf