Cộng đồng chung tay bảo vệ môi trường để bảo vệ nguồn tài nguyên nước

Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh

con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con

người và sinh vật. Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường

như đất, nước, không khí, sinh vật, hệ sinh thái, và các hình thái vật chất khác. Hoạt

động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp,

phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường,

khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường, khai thác, sử dụng

hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.

pdf 9 trang kimcuc 2300
Bạn đang xem tài liệu "Cộng đồng chung tay bảo vệ môi trường để bảo vệ nguồn tài nguyên nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cộng đồng chung tay bảo vệ môi trường để bảo vệ nguồn tài nguyên nước

Cộng đồng chung tay bảo vệ môi trường để bảo vệ nguồn tài nguyên nước
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 98 
CỘNG ĐỒNG CHUNG TAY BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG ĐỂ BẢO VỆ 
NGUỒN TÀI NGUYÊN NƢỚC 
KS. Lê Đức Gia 
Phó Trưởng Khoa Đào tạo Nghề, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung 
Tóm tắt: Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh 
con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con 
người và sinh vật. Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường 
như đất, nước, không khí, sinh vật, hệ sinh thái, và các hình thái vật chất khác. Hoạt 
động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, 
phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường, 
khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường, khai thác, sử dụng 
hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học. 
Từ khóa: Cộng đồng chung tay, bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên nước, sự 
sống, thiếu nước, nước mặt, nước sông, nước ngầm, ô nhiễm, cạn kiệt, đốt rừng, 
thủy điện, khai thác quá mức, quy hoạch, học tập. 
Nước là sự sống là nguồn tài 
nguyên quý giá, có khả năng tái tạo 
nhưng không phải là vô tận.Việt Nam 
không phải là quốc gia giàu nước và đang 
cận kề một tương lai thiếu nước. Đó là 
thông điệp được Bộ Tài nguyên và Môi 
trường (TN&MT) đưa ra nhân ngày 
Nước thế giới 22/3. Khai thác và sử 
dụng hợp lý nguồn tài nguyên nước đem 
lại cho đất nước ta những lợi ích kinh tế 
- xã hội không nhỏ, phục vụ cho đời 
sống của người dân, cộng đồng và sự 
phát triển đất nước. Tài nguyên nước 
bao gồm nước mưa, nước mặt, nước 
dưới đất, nước biển Tài nguyên nước 
mặt là nguồn vận động và tàng trữ trong 
sông, suối, ao hồ, đầm phá, riêng nước 
sông là rất quan trọng. 
1. Các nguồn nƣớc ngọt 
Vòng tuần hoàn nƣớc (The water 
cycle): Vòng tuần hoàn nước là sự tồn tại 
và vận động của nước trên mặt đất, trong 
lòng đất và trong bầu khí quyển của trái 
đất. Nước trái đất luôn vận động và 
chuyển từ trạng thái này sang trạng thái 
khác, từ thể lỏng sang thể hơi rồi thể rắn 
và ngược lại. Vòng tuần hoàn nước đã và 
đang diễn ra từ hàng tỉ năm và tất cả cuộc 
sống trên trái đất đều phụ thuộc vào nó, 
trái đất chắc chắn sẽ là một nơi không thể 
sống được nếu không có nước. 
 Nƣớc mặt: Nước ngọt trên mặt 
đất, một thành phần của chu trình nước, 
yếu tố cần thiết cho mọi sự sống trên trái 
đất. Nước mặt bao gồm nước trong các 
dòng suối, sông, ao, hồ, hồ nhân tạo, 
hoặc nước ngọt trong vùng đất ngập 
nước. Nước mặt được bổ sung một cách 
tự nhiên bởi giáng thủy (nước mưa) và 
chúng mất đi khi chảy vào đại dương, 
bốc hơi, thấm xuống đất. 
 Nƣớc ngầm: Nước ngầm hay còn 
gọi là nước dưới đất, là nước ngọt được 
chứa trong các lỗ rỗng của đất hoặc đá 
dưới bề mặt. Nó cũng có thể là nước 
chứa trong các tầng ngậm nước bên dưới 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 99 
mực nước ngầm. Nước ngầm nông hoặc 
nước ngầm sâu (nước ngầm tồn tại và di 
chuyển trong lòng đất) chiếm một 
lượng rất lớn. Nước ngầm đóng góp lớn 
cho dòng chảy sông ngòi của nhiều con 
sông nhờ thấm qua bờ sông, một phần 
nước thấm sâu hơn, bổ sung cho các 
tầng nước ngầm. Con người đã sử dụng 
nước ngầm từ hàng ngàn năm nay và 
vẫn đang tiếp tục sử dụng nó hàng 
ngày, phần lớn nhu cầu nước sinh hoạt, 
nước tưới phục vụ nông nghiệp, nước 
sử dụng trong các ngành công nghiệp. 
Cuộc sống trên trái đất phụ thuộc vào 
nước ngầm cũng như nước mặt. 
 Việt Nam có nhiều con sông lớn 
nhỏ chảy qua và người Việt có tập quán 
cư trú và canh tác dọc theo hai bên bờ 
sông. Nền kinh tế của Việt Nam hiện 
nay phụ thuộc lớn vào đặc điểm tài 
nguyên nước mà trong đó dòng chảy 
sông ngòi đóng vai trò vô cùng quan 
trọng. Cả nước có 2.732 con sông có 
chiều dài từ 10 - 586 km với tổng lượng 
chảy/ năm khoảng 830 - 840 tỷ mét khối 
nước; lượng nước sinh ra trên đất Việt 
Nam chiếm 38,5%, phần từ nước ngoài 
chảy vào Việt Nam chiếm khoảng 
61,5%. Lượng nước không đồng đều 
giữa các hệ thống sông, hệ thống sông 
MeKong (Cửu Long) chiếm 60,4%, hệ 
thống sông Hồng chiếm 15,1% và các 
con sông còn lại chiếm 24,5%. 
 Nước là tài nguyên đặc biệt quan 
trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống 
và môi trường. Nước không thể thiếu cho 
sự tồn tại và phát triển của thế giới sinh 
vật và nhân loại trên trái đất. Nước 
quyết định sự tồn tại, phát triển bền 
vững của đất nước; mặt khác nước cũng 
có thể gây ra tai họa cho con người và 
môi trường. Tài nguyên nước là nguồn 
tài nguyên thiên nhiên có thể tái tạo 
nhưng cũng có thể cạn kiệt tùy vào tốc 
độ khai thác của con người và khả năng 
tái tạo của môi trường. 
2. Khai thác nguồn nƣớc quá mức d n 
đến cạn kiệt và ô nhiễm nƣớc dƣới đất 
 Việt Nam hiện bị xếp vào nhóm 
quốc gia thiếu nước do lượng nước mặt 
bình quân đầu người ở nước ta đạt 
khoảng 3.840m3/ người/ năm. Theo tiêu 
chí của Hội Tài nguyên nước quốc tế 
(IWRA). Thì ở thời điểm hiện nay Việt 
Nam đã thuộc số quốc gia thiếu nước 
trong tương lai gần. Suy thoái tài 
nguyên nước trên các lưu vực sông sẽ 
ảnh hưởng nghiêm trọng tới hàng chục 
triệu người dân và hoạt động sản xuất. 
Những hộ dân cư sống bằng nước giếng 
khoan và những thành phố sử dụng 
nước ngầm như Hà Nội, TP Hồ Chí 
Minh sẽ phải đối mặt nguy cơ thiếu 
nước sinh hoạt trầm trọng. Điều này 
không chỉ ảnh hưởng lớn tới mục tiêu 
phát triển kinh tế bền vững của Việt 
Nam. Tài nuyên nước ở nước ta phân 
bố không đều và biến đổi mạnh theo 
thời gian. Theo khảo sát của UNICEF 
và Bộ Y Tế, chỉ có 70% cư dân đô thị 
được sử dụng nước sạch và con số này 
ở nông thôn còn đáng báo động hơn, rõ 
ràng câu chuyện an ninh nguồn nước 
vẫn luôn là nỗi lo của mọi người. Vì 
vậy cộng đồng chung tay trong công tác 
bảo vệ môi trường để bảo vê nguồn tài 
nguyên nước. 
 Thực trạng khai thác nước ngầm tại 
TP Hồ Chí Minh đã và đang khiến mực 
nước dưới đất tiếp tục giảm nhanh chóng. 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 100 
Hiện mực nước ngầm đo đạc được ở độ 
sâu -34,5m tại quận 12, -26,85m tại 
huyện Bình Chánh và -19,63m đến -
21,5m tại huyện Hóc Môn Theo ông 
Nguyễn Thanh Hùng, Viện Môi trường 
và Tài nguyên, cho biết kết quả nghiên 
cứu từ năm 2009 đến nay cho thấy, toàn 
thành phố không còn khu vực nào có 
nguồn nước ngọt sạch. Nồng độ các chất 
ô xy hóa, vi sinh, kim loại nặng, chất thải 
lơ lửng luôn vượt tiêu chuẩn loại B từ 
vài lần đến vài chục lần. Đáng lo ngại 
hơn, tình trạng khai thác nước ngầm 
nhưng thiếu sự quản lý, kiểm soát đã và 
đang tạo cơ hội cho nguồn nước ô nhiễm 
xâm nhập sâu vào trong hệ thống nước 
ngầm trên toàn thành phố. Kết quả quan 
trắc chất lượng nước ngầm của thành phố 
do sở Tài nguyên và Môi trường thực 
hiện cho thấy, toàn bộ nguồn nước ngầm 
tầng nông cách mặt đất khoảng 50m đều 
có dấu hiệu ô nhiễm. Hiện ở TPHCM 
mỗi ngày có hơn 600.000m3 nước ngầm 
bị mất đi do khai thác quá mức. Đây là 
con số dựa trên những doanh nghiệp có 
đăng ký xin phép khai thác. Còn số 
doanh nghiệp đang khai thác nhưng 
không xin phép và hộ gia đình tự ý khoan 
giếng nước ngầm rất nhiều không có cơ 
sở nào để thống kê. 
 Nước ngầm ngoại thành Hà Nội ô 
nhiễm nặng theo Trung tâm Nước sinh 
hoạt và vệ sinh môi trường (Sở 
NN&PTNT Hà Nội) đã lấy 1.640 mẫu 
nước từ các giếng khoan hộ gia đình, 
trường mầm non, trạm y tế và 187 trạm 
cấp nước tập trung tại 420 xã, thị trấn 
khu vực ngoại thành. Qua phân tích, kết 
hợp với các tài liệu quan trắc cho thấy 
nguồn nước ngầm bị nhiễm bẩn và đang 
lan rộng ở nhiều nơi. Tại xã Chàng Sơn, 
huyện Thạch Thất, Trung tâm Nước sinh 
hoạt và Vệ sinh môi trường lấy 123 mẫu 
nước ngầm để phân tích, kết quả có 86 
mẫu bị nhiễm bẩn, trong đó có 4 mẫu có 
độ đục cao gấp 5 lần quy định cho phép, 
28 mẫu có hàm lượng amoni cao gấp 
8,33 lần cho phép, 44 mẫu có chỉ số 
coliforms, cao gấp 2,68 lần, 3 mẫu có chỉ 
số ecoli cao gấp 1,3 lần cho phép. 
Kênh mương bị ô nhiễm nặng Giếng dân tự đào không có nước 
 So sánh với kết quả phân tích 
năm2012, nhiều chỉ số ô nhiễm đã vượt 7 
- 8 lần như amoni và một số hàm lượng 
kim loại nặng. Tương tự, tại huyện Phú 
Xuyên, trung tâm đã lấy 61 mẫu tại 3 xã 
có tới 35 mẫu bị nhiễm bẩn, trong đó có 
25 mẫu có hàm lượng amoni cao gấp 8,3 
lần quy chuẩn cho phép. Thời gian gần 
đây hàng trăm hộ dân thôn Phú Mỹ, xã 
Mỹ Đình, huyện Từ Liêm phát hiện ra 
nguồn nước sinh hoạt sử dụng trong 
nhiều năm nay bị nhiễm chất thạch tín 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 101 
(asen) vượt gấp 43 lần mức cho phép 
Theo số liệu nghiên cứu của Tổng cục 
Thủy Lợi (Bộ NN&PTNT) về phân bố 
asen trong đất và nước tại Hà Nội, 
khoảng 1/4 số hộ gia đình sử dụng trực 
tiếp nước ngầm không qua xử lý ở khu 
vực ngoại thành bị ô nhiễm nặng, trong 
đó nước có chứa asen, tập trung tại các 
huyện Thanh Trì, Gia Lâm. Một kết quả 
quan trắc khác của Trung tâm Quan trắc 
và Dự báo tài nguyên nước (Bộ 
TN&MT) cũng khẳng định, mực nước 
ngầm tại Hà Nội đang suy giảm mạnh, 
chất lượng nước ở nhiều nơi không đạt 
quy chuẩn. Nguồn nước bị ô nhiễm nặng 
nhất là gần lưu vực sông Nhuệ, sông 
Đáy, cụm công nghiệp, làng nghề và 
vùng Phú Xuyên, Ứng Hòa, Thanh Oai, 
Thạch Thất, Thanh Trì, Hoài Đức, Từ 
Liêm. Riêng nội thành Hà Nội tổng 
lượng nước ngầm đang được khai thác 
khoảng 750.000m3/ngày đêm. Riêng 
công ty Kinh doanh Nước sạch Hà Nội 
khai thác gần 500.000m3/ngày đêm. Tuy 
nhiên các nhà khoa học đều có chung 
nhận định và cảnh báo việc khoan giếng 
kiểu UNICEP của các hộ dân “rất phổ 
biến trên địa bàn thành phố”, ảnh hưởng 
rất lớn đến nguồn nước ngầm, gây hiện 
tượng suy soái nguồn nước, đặc biệt là 
tạo ra các cửa sổ địa chất thủy văn để 
nguồn nước nhiễm bẩn thấm xuống. 
 Theo thông tin của Trung tâm Quy 
hoạch và Điều tra Tài nguyên Nước 
Quốc gia - Bộ TN&MT đã thực hiện 
quan trắc, điều tra tài nguyên nước dưới 
đất tại khu vực Hà Nội đã thông báo diễn 
biến tài nguyên nước dưới đất 6 tháng 
đầu năm 2013 và dự báo xu thế diễn biến 
tài nguyên nước dưới đất 3 tháng cuối 
năm 2013 và 3 tháng đầu năm 2014 tại 
một số vùng khai thác nước mạnh ở Hà 
Nội, mực nước tầng chứa Pleistocene 
có xu hướng giảm dần. Đặc biệt công 
trình quan trắc “khu vực phường Mai 
Dịch, quận Cầu Giấy, Trung Tự, Đống 
Đa TP Hà Nội, mực nước đã hạ thấp 
sâu vượt quá 50% mực nước hạ thấp 
cho phép. Tốc độ hạ thấp trung bình 
vào khoảng 0,35m/năm (tính từ năm 
1992 - 2012”, mực nước hạ thấp nhất 
06 tháng đầu năm 2013 là - 21,82m vào 
tháng 2 và -18,46m vào tháng 4, dự báo 
3 tháng đầu năm 2014 mực nước hạ 
thấp là -23,83m -28,42m. 
 Tại thành phố Lạng Sơn, Thái 
Nguyên, hệ thống giếng khoan khu vực 
sông Kỳ Cùng, sông Cầu đang bị ô 
nhiễm nặng. Tại Quảng Ninh, Hải 
Phòng, hàng loạt giếng khoan đang bị 
nhiễm mặn nặng nề do tốc độ khai thác 
quá nhanh trên cùng một địa tầng. Ở 
nội thành Hải phòng, nhiều giếng 
khoan bị nhiễm mặn và mực nước tụt 
sâu 1 - 2m. 
 Đối với các đô thị miền Trung, 
nước ngầm được khai thác ở độ sâu nhỏ 
“khoảng 10 - 25m”, lớp phủ bề mặt mỏng 
nên dễ bị ô nhiễm. Qua khảo sát, phần 
lớn các nguồn nước này đều bị nhiễm vi 
sinh và một số chỉ tiêu vi lượng vượt 
mức cho phép nhiều lần. Đáng quan ngại 
là tình trạng xuất hiện hàm lượng thủy 
ngân vượt quá giới hạn cho phép có 
nguyên nhân từ quá trình khai khoáng, 
sản xuất công nghiệp và phân bón 
 Các tỉnh Tây Nguyên do ảnh hưởng 
của biến đổi khí hậu, mất cân bằng sinh 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 102 
thái và quan trọng hơn là nạn khai thác, 
sử dụng nước không tiết kiệm trên địa 
bàn các tỉnh Tây Nguyên hiện nay nguồn 
nước ngầm cũng như nước mặt ở đây kiệt 
dần, không duy trì được yếu tố bền vững 
nhằm phục vụ cho sinh hoạt và sản 
xuất.Theo số liệu của phòng Tài nguyên 
và Khí tượng Thủy văn (Sở Tài nguyên 
& Môi trường Dak Lak) lượng khai thác 
tài nguyên nước ngầm ở Dak Lak đã vượt 
mức an toàn. Thông số đánh giá việc khai 
thác, sử dụng nước ngầm ở mức cho 
phép trên địa bàn Dak Lak đưa ra từ 
những năm 2000 là khoảng 4 - 4,2 triệu 
m
3/ngày, nay đã tăng lên rất nhiều. Đến 
nay, dù chưa có con số thống kê chính 
xác, nhưng qua đánh giá của các cơ quan 
chức năng có thể lên tới gần 6 triệu m3/ 
ngày, trong đó lượng khai thác nước 
ngầm vào những tháng mùa khô chiếm 
khoảng 80%. Tình trạng này dẫn đến 
điều tất yếu là mực nước ngầm tụt giảm. 
Trước đây nhiều nông hộ trồng cà phê 
đào một giếng (sâu từ 25 – 30m) có thể 
tưới 2 – 3 ha cà phê trong vòng 10 giờ 
liên tục, bây giờ chỉ tưới 01 ha là kiệt 
nước, phải chờ nhiều giờ sau mới có 
nước hồi phục. Còn ở tỉnh Kon Tum và 
Gia Lai sử dụng nguồn nước tự chảy, ao 
hồ chỉ chiếm 20%, còn lại 80% trong chờ 
vào lượng mưa và nước ngầm. Theo Bộ 
NN&PTNT, từ năm 2005 - 2012, bình 
quân mỗi năm Tây Nguyên mất 25.737ha 
rừng. Nếu không giữ được những cánh 
rừng đầu nguồn và tiết kiệm nguồn nước 
tưới, Tây Nguyên sẽ ngày càng cạn kiệt 
nguồn nước ngầm. 
 Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long 
nguồn nước dưới đất đang có những dấu 
hiệu cạn kiệt, ô nhiễm, nhiễm mặn. Mực 
nước của các tầng chứa nước khai thác 
bị hạ thấp liên tục theo thời gian. Điển 
hình như Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, 
mực nước tầng chứa Pleistocene hạ thấp 
với tốc độ là 1m/ năm Nước ngầm 
mạch sâu 100 - 180m chất lượng nước 
tương đối tốt để phục vụ cho sinh hoạt, 
sản xuất công nghiệp, nước ngầm mạch 
nông từ 5 - 30m thường bị nhiễm mặn. 
Thực tế cho thấy, do ảnh hưởng của 
biến đổi khí hậu, quá trình xâm nhập 
mặn vào lục địa diễn ra ngày càng 
nghiêm trọng hơn có năm vào sâu đến 
30km chủ yếu theo sông Hậu và sông 
Mỹ Thanh. Độ mặn từ 2,5%0 - 4,5%0. 
3. Những nguyên nhân gây ra ô nhiễm, 
cạn kiệt nguồn nƣớc mặt và nƣớc ngầm 
 - Mất rừng đầu nguồn do nhiều dự 
án thủy điện được xây dựng ở thượng 
nguồn các con sông, hiện tại ở Việt Nam 
có khoảng 1200 dự án thủy điện vừa và 
nhỏ. Theo tính toán cứ 1Kw phát điện làm 
mất 20 ha rừng, theo báo cáo của Bộ 
NN&PTNN, tính từ năm 2006 - 2012 có 
gần 20.000 ha rừng tại 29 tỉnh, thành bị 
chuyển đổi mục đích sử dụng để xây 160 
dự án thủy điện. Theo quy định của Chính 
phủ, chủ đầu tư công trình thủy điện phải 
trồng bù lại diện tích rừng đã bị lấy mất. 
Thế nhưng cho đến nay việc trồng bù lại 
rừng chỉ đạt khoảng 735ha. 
 - Khai thác gỗ trái phép, đốt nương 
làm rẫy, cháy rừng, chuyển đổi rừng 
nghèo để trồng cây công nghiệp, khai thác 
khoáng sản tự phát, sức ép về di dân tự do 
từ các tỉnh phía Bắc vào Tây nguyên, làm 
mất rừng, mất cân bằng sinh thái. 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 103 
Đốt rừng trồng cây công nghiệp Đồng bằng hạn hán về mùa khô 
 - Các dự án xây dựng khu công 
nghiệp chưa đánh giá hết tác động đến 
môi trường, chất thải rắn, khí thải, nước 
thải chưa qua xử lý xả thẳng ra môi 
trường, nhất là nhiều loại nước thải độc 
hại chưa qua xử lý vẫn còn xả trực tiếp 
xuống sông, ao hồ, kênh rạch gây ô 
nhiễm ở mức độ đáng báo động. Bên 
cạnh đó những bãi chôn lấp rác chưa hợp 
chuẩn còn để nước rỉ của rác ngấm vào 
đất, chảy ra ngoài môi trường ảnh hưởng 
đến nguồn nước và gây ảnh hưởng đến 
sức khỏe của cộng đồng dân cư, làm thiệt 
hại lớn đến vấn đề phát triển kinh tế. 
Theo Ngân hàng thế giới, mức thiệt hại 
kinh tế do thiếu quy hoạch quản lý nước 
thải và chất thải hợp lý đã chiếm mất 
1,3%-1,5% thu nhập quốc dân (GDP) tại 
các nước Châu Á. 
 Theo báo cáo của Viện Khoa học 
Quản lý môi trường (Bộ TN&MT), chất 
thải rắn trong sản xuất, sinh hoạt gây 
nguy hại cho môi trường ở Việt Nam 
phát sinh 28 triệu tấn/ năm tăng 10%/ 
năm. Trong đó có gần 7 triệu tấn từ sản 
xuất công nghiệp thông thường, 19 triệu 
tấn từ sinh hoạt, khoảng 2,12 triệu tấn từ 
lĩnh vực y tế. Cũng theo báo cáo chất thải 
rắn từ các đô thị chiếm khoảng 46%, từ 
hoạt động sản xuất công nghiệp ở mức 
17%, từ khu vực sản xuất nông nghiệp và 
nông thôn, y tế chiếm 34%. Dự báo đến 
năm 2015, tỷ trọng chất thải rắn phát sinh 
từ các đô thị sẽ lên đến 51%, từ hoạt 
động sản xuất công nghiệp vào khoảng 
22%, nông thôn, y tế ở mức 27%. 
 - Do sức ép của quá trình đô thị 
hóa, gia tăng dân số, di dân tập trung cao 
tại các đô thị lớn đã gây tình trạng quá tải 
về hạ tầng kỹ thuật, phát triển nhanh quy 
hoạch khu dân cư chưa tính đến hệ thống 
nước thải sinh hoạt tập trung, chất thải vệ 
sinh được thiết kế dưới dạng hầm tự hoại, 
sau đó được ngấm thẳng xuống đất. 
 - Các doanh nghiệp, hộ gia đình 
nuôi trồng thủy sản sau khi thu hoạch sản 
phẩm, nước thải chưa qua xử lý được xả 
thẳng ra môi trường. 
4. Một số giải pháp giảm thiểu gây ô 
nhiễm môi trƣờng và tài nguyên nƣớc 
 Luật Tài nguyên Nước và Bảo vệ 
Môi trường đưa vào giảng dạy ở các cấp 
học trong hệ thống giáo dục của Việt 
Nam; phổ biến rộng rãi đến các tầng lớp 
nhân dân, các doanh nghiệp trong nước 
cũng như doanh nghiệp nước ngoài đầu 
tư 100% vốn vào các khu công nghiệp 
trong cả nước để họ hiểu biết và chấp 
hành tốt hơn. Các hành vi làm tổn hại 
đến môi trường và nguồn nước phải được 
chế tài bằng công cụ luật pháp đủ mạnh, 
cần phải thường xuyên giáo dục nâng cao 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 104 
ý thức cộng đồng trong việc giữ gìn môi 
trường, bảo vệ rừng, sử dụng tiết kiệm 
nước và chống các biểu hiện làm suy 
thoái nguồn nước. 
 - Để xử lý vấn đề vệ sinh môi 
trường bảo vệ nguồn tài nguyên nước 
trước hết cần phải phối hợp đồng bộ giữa 
các bộ ngành liên quan như: Bộ Tài 
chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ 
Khoa học và Công nghệ, Bộ Xây dựng, 
để giải quyết bài toán rác thải, nước thải. 
Cần quy hoạch hệ thống hạ tầng kỹ thuật 
đồng bộ và quy hoạch xây dựng phát 
triển đô thị xứng tầm với các nước trong 
khu vực và tiên tiến trên thế giới, cần xây 
dựng chiến lược ngành trong dài hạn
Ngày Nước Thế Giới năm 2013 Không gian công cộng Thành phố 
 - Trong công tác quản lý nguồn 
nước, các tỉnh cần phối hợp giữa các 
vùng có dòng sông đi qua địa phương 
mình. Khu vực dân cư sinh sống có ao 
hồ, kênh rạch, đầm lầy, chính quyền địa 
phương, các tổ chức đoàn thể vận động 
nhân dân ký cam kết không xả nước 
thải, chất thải chưa qua xử lý xuống 
sông, ao hồ, kênh rạch, đầm lầy để giữ 
gìn vệ sinh môi trường và bảo vệ nguồn 
nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. 
 Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã 
quyết định lựa chọn năm 2013 là Năm 
Quốc tế về hợp tác về nước 
(International Year of Water 
Cooperation) và Ngày Nước thế giới 
22/03/2013 (World of Day). Chương 
trình của Liên hợp quốc UN - Water và 
UNESCO đã kêu gọi sự hợp tác về 
nguồn nước trên toàn thế giới, đặc biệt là 
cách tiếp cận đa ngành, trong đó pha 
trộn giữa các ngành khoa học tự nhiên 
và xã hội, giáo dục, văn hóa và truyền 
thống. Do tính chất nội tại và phổ biến 
rộng khắp của nước, vì vậy chính quyền 
địa phương, các tổ chức xã hội cần tuyên 
truyền về thông điệp của ngày nước trên 
thế giới “Nếu tất cả chúng ta cùng chia 
sẻ, ai cũng sẽ có cơ hội sử dụng nƣớc”. 
Tại các trụ sở cơ quan đơn vị, trường 
học, khu công cộng, nơi đông người qua 
lại để vận động cộng đồng tham gia bảo 
vệ tài nguyên nước. 
 Tại Việt Nam ngày 12/6/2009, 
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 27 về 
một số giải pháp cấp bách trong công tác 
quản lý nhà nước về tài nguyên và môi 
trường, qua đó an ninh đối với tài 
nguyên nước được đánh giá tương tự 
như đối với an ninh lương thực. Đồng 
thời triển khai Luật Tài nguyên nước 
năm 2012 đã được Quốc hội thông qua. 
Đặc biệt chính phủ Việt Nam hưởng ứng 
Ngày nước thế giới 22/3 hàng năm, năm 
2013 với chủ đề “Hợp tác về nước” với 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 105 
thông điệp “Nếu tất cả chúng ta cùng 
nhau chia sẻ, ai cũng sẽ có cơ hội dùng 
nước”. Chiến dịch Làm cho thế giới sạch 
hơn “Clean Up the World” từ ngày 20-
22/9 hàng năm, năm 2013 với chủ đề: 
“Nơi sinh sống của chúng ta Hành 
tinh của chúng ta Trách nhiệm của 
chúng ta” và Ngày du lịch thế giới 
ngày 27/9 hàng năm, năm 2013 với chủ 
đề “ Du lịch và nước ”. 
 - Ngày 22 tháng 3 năm 2013, 
Hội thảo ASEM “Diễn đàn hợp tác Á 
– Âu” về quản lý nước và lưu vực 
sông, cách tiếp cận và tăng trưởng 
xanh tổ chức tại thành phố Cần Thơ, 
bài phát biểu của thủ tướng Nguyễn 
Tấn Dũng có đoạn “ Nước là khởi 
nguồn của sự sống. Nước có giá trị 
hơn dầu mỏ. Ở đâu không có nước, ở 
đó không có sự sống. Ở đâu có nguồn 
nước cạn kiệt, suy thoái thì ở đó an 
ninh xã hội bất ổn, kinh tế chậm phát 
triển và con người sẽ phải di cư tới 
vùng khác. Nước cần thiết cho mọi 
hoạt động sản xuất, sinh hoạt và phát 
triển của con người”. 
 Tại trường Đại học Xây dựng Miền 
Trung trong những năm qua lãnh đạo 
Nhà trường đã tạo điều kiện cho Đoàn 
thanh niên nhà trường tham gia “Ngày 
thứ bảy tình nguyện, ngày chủ nhật 
xanh” với các hoạt động như: dọn vệ 
sinh bãi biển TP Tuy hòa, trồng cây 
xanh trong khuôn viên trường làm cho 
môi trường xanh, sạch, đẹp Ngoài ra 
hàng năm còn tham gia chiến dịch Hè 
tình nguyện, xuất quân về các vùng sâu, 
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn thuộc 
tỉnh Phú Yên xây dựng nhà tình nghĩa, 
sửa chữa nhà tình thương, làm đường 
giao thông nông thôn, cải tạo môi 
trường, Chung tay xây dựng nông thôn 
mới theo chủ trương của Đảng và Nhà 
nước, giúp nhân dân ăn ở vệ sinh hơn, 
góp phần bảo vệ môi trường Đặc biệt 
Nhà trường đào tạo các ngành học như 
công nghệ kỹ thuật xây dựng, xây dựng 
cầu đường, kiến trúc, kinh tế xây dựng, 
kỹ thuật hạ tầng đô thị, ngành cấp thoát 
nước, bồi dưỡng nghiệp vụ. Nhà trường 
ý thức rằng môi trường ô nhiễm, suy 
thoái nguồn nước nguyên nhân chính bắt 
đầu từ con người, vì vậy trong quá trình 
truyền đạt kiến thức chuyên môn, người 
thầy như một tuyên truyền viên lòng 
ghép vào chương trình giảng dạy nhằm 
nâng cao về nhận thức của người học về 
bảo vệ môi trường sống của mình và 
cộng đồng xã hội. Chương trình này rất 
bổ ích đối với đội ngũ kỹ thuật viên, 
công nhân kỹ thuật để nâng cao kiến 
thức về bảo vệ môi trường, chính những 
con người này sau khi ra trường sẽ trở 
thành cán bộ quản lý, thiết kế công trình, 
giám sát công trình và họ là tuyên truyền 
viên góp phần giảm thiểu về vệ sinh môi 
trường trong quá trình sản xuất. 
Tóm lại: An ninh nguồn nước là 
một thử thách rất lớn cho đất nước ta 
hiện nay và tương lai. Sự phát triển kinh 
tế và xã hội của đất nước sẽ không bao 
giờ bền vững nếu không có chiến lược 
bảo vệ môi trường và tài nguyên nước, 
trong đó quan trọng nhất là bảo vệ sự 
trong lành của nguồn nước. Tăng trưởng 
kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi 
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2013 106 
trường đây không phải là khẩu hiệu 
mà phải có những hoạt động và hành 
động thiết thực, trong đó phải có 
những giải pháp khoa học trong quản 
lý lưu vực sông, suối, ao hồVới sự 
tham gia của cả cộng đồng người và 
các tổ chức xã hội. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
[1] Luật Tài nguyên nước năm 2012 được Quốc hội thông qua. 
[2] Luật Bảo vệ môi trường. 2005. 
[3] Nghị Quyết Trương 7 khóa XI về Ứng phó về biến đổi khí hậu, bảo vệ tài nguyên, 
môi trường. 
[4] Quyết định số 1788/QĐ-TTg ngày 01 tháng 10 năm 2013 của Thủ tướng chính phủ. 
Phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đến 
năm 2020. 
[5] Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường. 
[6] Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. 

File đính kèm:

  • pdfcong_dong_chung_tay_bao_ve_moi_truong_de_bao_ve_nguon_tai_ng.pdf