Cơ sở pháp lý điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Như vậy, quyền chọn chứng

khoán là công cụ phòng chống

rủi ro .Và khi cho phép giao dịch

quyền chọn chứng khoán không

những sẽ đa dạng hàng hoá mà còn

tạo thêm cơ hội kinh doanh cho các

nhà đầu tư, với số tiền phí để mua

quyền , nhà đầu tư có thể kiếm được

lợi nhuận từ hợp đồng quyền chọn

vừa bảo toàn được giá trị đầu tư của

mình. Từ đó sẽ thu hút thêm các

nhà đầu tư nhất là nhà đầu tư nước

ngoài tham gia, tạo sự sôi động cho

thị trường và giúp cho TTCK phát

triển .

Tuy nhiên, để giao dịch quyền

chọn chứng khoán thì trước mắt cần

phải thực hiện một số giải pháp:

- Hoàn thiện khung pháp lý.

Điều quan trọng nhất để xây dựng

và phát triển quyền chọn chứng

BÀNH QUỐC TUẤN

NCS, Khoa Luật

Đại học Quốc gia Hà Nội

khóan là phải có hệ thống pháp lý

đầy đủ và đồng bộ. Hiện tại Luật

chứng khoán chưa qui định cụ thể

cho giao dịch những công cụ chứng

khoán phái sinh. Do đó, cần phải

làm rõ những vấn đề:Điều kiện của

chứng khoán cơ sở được giao dịch

quyền chọn; Điều kiện của tổ chức

được phép phát hành quyền chọn;

Tổ chức thị trường; Công tác công

bố thông tin; Thanh tra, xử lý vi

phạm; Giải quyết tranh chấp, kiếu

nại, tố cáo và bồi thường thiệt hại.

- Xây dựng thị trường quyền

chọn với đầy đủ các yếu tố về cơ sở

hạ tầng và các chủ thể tham gia thị

trường.Cần xây dựng cơ sở vật chất

cho thị trường quyền chọn dựa trên

cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có của

thị trường chứng khóan.Các chủ thể

tham gia thị trường phải có một đội

ngũ nhân lực với trình độ chuyên

môn cao và có kinh nghiệm họat

động trên thị trường chứng khóan.

pdf 7 trang kimcuc 4020
Bạn đang xem tài liệu "Cơ sở pháp lý điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ sở pháp lý điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Cơ sở pháp lý điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 10 - Tháng 3/2011
Kinh Tế & Ứng Dụng
44
Tháng 05/2010 nhà đầu tư dự 
đoán giá cổ phiếu MCG có sự biến 
động lớn nên thực hiện chiến lược 
Straddle bằng cách mua một Call 
Option và Put Option cổ phiếu 
MCG với cùng mức giá thực hiện 
là 59.500đ với phí quyền chọn mua 
là 1.860đ và phí quyền chọn bán là 
5.950đ, đáo hạn trong 1 tháng. Đến 
tháng 06/2010 giá cổ phiếu MCG là 
40.200đ và nhà đầu tư thực hiện hai 
quyền chọn này.
Như vậy, quyền chọn chứng 
khoán là công cụ phòng chống 
rủi ro .Và khi cho phép giao dịch 
quyền chọn chứng khoán không 
những sẽ đa dạng hàng hoá mà còn 
tạo thêm cơ hội kinh doanh cho các 
nhà đầu tư, với số tiền phí để mua 
quyền , nhà đầu tư có thể kiếm được 
lợi nhuận từ hợp đồng quyền chọn 
vừa bảo toàn được giá trị đầu tư của 
mình. Từ đó sẽ thu hút thêm các 
nhà đầu tư nhất là nhà đầu tư nước 
ngoài tham gia, tạo sự sôi động cho 
thị trường và giúp cho TTCK phát 
triển .
Tuy nhiên, để giao dịch quyền 
chọn chứng khoán thì trước mắt cần 
phải thực hiện một số giải pháp:
- Hoàn thiện khung pháp lý. 
Điều quan trọng nhất để xây dựng 
và phát triển quyền chọn chứng 
BÀNH QUỐC TUẤN
NCS, Khoa Luật 
Đại học Quốc gia Hà Nội
khóan là phải có hệ thống pháp lý 
đầy đủ và đồng bộ. Hiện tại Luật 
chứng khoán chưa qui định cụ thể 
cho giao dịch những công cụ chứng 
khoán phái sinh. Do đó, cần phải 
làm rõ những vấn đề:Điều kiện của 
chứng khoán cơ sở được giao dịch 
quyền chọn; Điều kiện của tổ chức 
được phép phát hành quyền chọn; 
Tổ chức thị trường; Công tác công 
bố thông tin; Thanh tra, xử lý vi 
phạm; Giải quyết tranh chấp, kiếu 
nại, tố cáo và bồi thường thiệt hại.
- Xây dựng thị trường quyền 
chọn với đầy đủ các yếu tố về cơ sở 
hạ tầng và các chủ thể tham gia thị 
trường.Cần xây dựng cơ sở vật chất 
cho thị trường quyền chọn dựa trên 
cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có của 
thị trường chứng khóan.Các chủ thể 
tham gia thị trường phải có một đội 
ngũ nhân lực với trình độ chuyên 
môn cao và có kinh nghiệm họat 
động trên thị trường chứng khóan.
- Lựa chọn các cổ phiếu làm 
chứng khóan cơ sở cho hợp đồng 
quyền chọn. Các cổ phiếu được lựa 
chọn phải có tính thanh khỏan cao 
và được đánh giá tốt về tiềm năng 
phát triển.
- Phổ biến kiến thức về quyền 
chọn nhằm nâng cao trình độ cho 
nhà đầu tư qua các phương tiện 
thông tin đại chúng như báo chí , 
truyền thanh, truyền hình và các 
khoá đào tạol
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
- Options, Futures and Other Derivative 
Securitises, John C.Hull 7 edition 
- Stoxpro.
- Spro
- www.ssc.gov.vn
- www.vietstock.com.vn
Bảng thu hồi từ chiến lược Straddle
 Đơn vị: 1.000 đồng
Giá chứng khoán Thu hồi từ mua Call Option
Thu hồi từ mua 
Put Option Lợi nhuận
Sτ=4.020<K1=5.950 - 186 (5.950 - 4.020 - 595) 1.149
Mô hình chiến lược Straddle
Số 10 - Tháng 3/2011 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
Kinh Tế & Ứng Dụng
45
Hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài, còn gọi là hợp 
đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 
đang ngày càng đóng một vai trò 
quan trọng trong đời sống kinh tế 
- xã hội VN. Trong bài viết đăng 
trên Bản tin khoa học số 4 - tháng 
4 năm 2010 chúng tôi đã trình bày 
một số vấn đề cơ bản liên quan đến 
loại hợp đồng này. Trong bài viết 
này chúng tôi tiếp tục phân tích 
một nội dung quan trọng mà trong 
quá trình đàm phán, ký kết và thực 
hiện hợp đồng mà các bên tham gia 
cần quan tâm là cơ sở pháp lý điều 
chỉnh hợp đồng theo quy định của 
pháp luật VN.
1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu 
cơ sở pháp lý điều chỉnh hợp 
đồng mua bán hàng hóa có yếu 
tố nước ngoài
Nói đến cơ sở pháp lý của hợp 
đồng là nói đến pháp luật được áp 
dụng để điều chỉnh hợp đồng. Đối 
với một hợp đồng mua bán hàng 
hóa được ký kết giữa các chủ thể 
VN và được thực hiện hoàn toàn 
trên lãnh thổ VN thì pháp luật điều 
chỉnh là pháp luật VN. Tuy nhiên, 
hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu 
tố nước ngoài là loại hợp đồng liên 
quan đến nhiều hệ thống pháp luật 
khác nhau. Chính vì vậy, việc xác 
định cơ sở pháp lý điều chỉnh loại 
hợp đồng này phải tuân theo những 
nguyên tắc riêng mà một trong 
những nguyên tắc quan trọng nhất 
là sự thỏa thuận lựa chọn của các 
bên chủ thể tham gia quan hệ hợp 
đồng. Theo chúng tôi, việc nghiên 
cứu cơ sở pháp lý điều chỉnh hợp 
đồng mua bán hàng hóa có yếu tố 
nước ngoài có những ý nghĩa sau 
đây:
Thứ nhất, việc xác định cơ sở 
pháp lý điều chỉnh hợp đồng nói 
chung và hợp đồng mua bán hàng 
hóa có yếu tố nước ngoài nói riêng 
đóng vai trò rất quan trọng trong 
quá trình giải quyết các tranh chấp 
liên quan đến hợp đồng. Thực tiễn 
cho thấy không có bất cứ một hợp 
đồng nào mà trong quá trình đàm 
phán các bên có thể dự liệu hết tất 
cả mọi tình huống có thể xảy ra 
trong quá trình thực hiện hợp đồng 
và dự liệu trước cách thức xử lý 
những vấn đề sẽ xảy ra đó. Cho dù 
các bên có kỹ năng soạn thảo hợp 
đồng tốt và đã đưa vào hợp đồng 
tất cả những khả năng có thể xảy ra 
mà tại thời điểm giao kết hợp đồng 
các bên đã nghĩ đến thì sự thỏa 
thuận trong hợp đồng vẫn không 
thể nào là đủ. Chính vì vậy, khi có 
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng 
các bên vẫn phải dựa vào pháp luật 
điều chỉnh hợp đồng đó để giải 
quyết và khi đó việc xác định cơ sở 
pháp lý nào sẽ được áp dụng điều 
chỉnh hợp đồng trong trường hợp 
cụ thể có sẽ có ý nghĩa quyết định 
đến kết quả giải quyết tranh chấp 
hợp đồng đó.
Thứ hai, việc xác định cơ sở 
pháp lý điều chỉnh còn là cơ sở định 
hướng hành vi của các bên tham 
gia quan hệ hợp đồng nói chung 
và hợp đồng mua bán hàng hóa có 
yếu tố nước ngoài nói riêng. Hợp 
đồng mua bán hàng hóa có yếu tố 
nước ngoài chịu sự điều chỉnh của 
nhiều hệ thống pháp luật khác nhau 
nhưng quy định của các hệ thống 
pháp luật này về cùng một vấn 
đề thường là không giống nhau. 
Chẳng hạn theo pháp luật VN thời 
hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án giải 
quyết tranh chấp đã hết nhưng theo 
pháp luật của nước có liên quan thì 
thời hiệu khởi kiện vẫn còn hoặc 
hình thức của hợp đồng theo quy 
định của pháp luật VN đã hợp pháp 
nhưng theo pháp luật của nước liên 
quan là không hợp pháp. Như vậy, 
việc xác định được cơ sở pháp lý 
điều chỉnh hợp đồng sẽ giúp các 
bên định hướng được hành vi của 
mình sao cho phù hợp về mặt pháp 
lý và từ đó sẽ bảo vậ được lợi ích 
chính đáng của mình, tránh tình 
trạng vi phạm hợp đồng do không 
am hiểu pháp luật.
Với vai trò quan trọng như vừa 
phân tích ở trên, việc nghiên cứu 
một cách đầy đủ về các cơ sở pháp 
lý điều chỉnh hợp đồng mua bán 
hàng hóa có yếu tố nước ngoài là 
một yêu cầu tất yếu đối với các bên 
tham gia quan hệ hợp đồng, đặc 
biệt là đối với các doanh nghiệp 
VN có tham gia hoạt động xuất 
nhập khẩu hàng hóa khi mà chúng 
ta chỉ vừa mới bước những bước 
đầu tiên trong quá trình tham gia 
sân chơi chung của toàn cầu, kinh 
nghiệm chúng ta chưa nhiều, bản 
lĩnh chúng ta chưa vững, kiến thức 
chuyên môn còn hạn chế thì việc 
phạm phải sai lầm dẫn đến thiệt 
hại lợi ích kinh tế là điều khó tránh 
khỏi. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy 
không phải bất cứ doanh nghiệp VN 
nào khi tham gia ký kết hợp đồng 
mua bán hàng hóa có yếu tố nước 
ngoài cũng đều ý thức rõ được mối 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 10 - Tháng 3/2011
Kinh Tế & Ứng Dụng
46 
quan hệ pháp lý mình đang tham 
gia chịu sự tác động, điều chỉnh của 
cơ sở pháp lý nào, hậu quả sẽ ra sao 
nếu chúng ta không tuân thủ đúng 
luật chơi chung đã được thế giới ấn 
định từ rất lâu mà chúng ta không 
có cơ hội để sửa đổi chúng như đối 
với hệ thống pháp luật trong nước.
2. Cơ sở pháp lý điều chỉnh hợp 
đồng mua bán hàng hóa quốc tế 
theo pháp luật VN
Một hợp đồng mua bán hàng 
hóa có yếu tố nước ngoài có thể 
được điều chỉnh bởi các cơ sở pháp 
lý sau đây:
2.1 Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là một loại 
nguồn luật điều chỉnh quan hệ hợp 
đồng có yếu tố nước ngoài nói 
chung. Đó là tên gọi chung của 
nhiều văn bản có tính pháp lý khác 
nhau điều chỉnh hợp đồng và các 
vấn đề khác có liên quan, bao gồm 
Công ước, Hiệp định, Nghị định 
thư, Hiệp ước,  đang ngày càng 
giữ một vai trò quan trọng trong 
việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng 
có yếu tố nước ngoài.
Hệ thống pháp luật của các 
quốc gia khác nhau khi ban hành 
đều phải tuân theo một số quy định 
chung thống nhất, đặc biệt là pháp 
luật về hợp đồng. Tuy nhiên, xuất 
phát từ sự khác biệt về trình độ 
phát triển kinh tế - xã hội, phong 
tục tập quán, chế độ chính trị mà 
giữa các hệ thống pháp luật khác 
nhau vẫn có những sự khác biệt 
khi cùng điều chỉnh một vấn đề. 
Chính vì vậy, việc lựa chọn một 
hệ thống pháp luật cụ thể nào đó 
để điều chỉnh quan hệ hợp đồng ít 
được các bên tham gia quan hệ hợp 
đồng xem là phương pháp tốt nhất 
bởi chúng thường dẫn đến sự xung 
đột về lợi ích khi quy định của hai 
hệ thống pháp luật là khác nhau. 
Để giải quyết vấn đề này các quốc 
gia hay các tổ chức quốc tế thường 
cùng nhau soạn thảo các điều ước 
quốc tế, trong đó thống nhất quy 
định cách thức giải quyết các vấn 
đề có liên quan mà các hệ thống 
pháp luật quy định khác nhau. Hiện 
nay trên thế giới có nhiều điều ước 
quốc tế khác nhau điều chỉnh nhiều 
loại hợp đồng có yếu tố nước ngoài 
khác nhau, trong đó, đối với hợp 
đồng mua bán hàng hóa có yếu 
tố nước ngoài được tập trung điều 
chỉnh bởi Công ước về hợp đồng 
mua bán hàng hóa quốc tế ký tại 
Viên (Áo) năm 1980 thường được 
gọi tắt là Công ước Viên 1980. 
Việc áp dụng các điều ước quốc tế 
làm cơ sở pháp lý điều chỉnh hợp 
đồng mua bán hàng hóa có yếu tố 
nước ngoài mang đến nhiều thuận 
lợi cho các bên tham gia quan hệ 
hợp đồng: nhanh chóng, thuận 
tiện, giải quyết được các bất đồng, 
mâu thuẫn khi các hệ thống pháp 
luật quy định khác nhau về cùng 
một vấn đề,  Ngoài ra, việc tăng 
cường ký kết hay tham gia các điều 
ước quốc tế còn góp phần thúc đẩy 
quá trình thống nhất hóa các quy 
định mang tính nguyên tắc điều 
chỉnh quan hệ hợp đồng, làm cơ sở 
cho các quốc gia soạn thảo và ban 
hành các quy định tương ứng trong 
hệ thống pháp luật của quốc gia 
mình. Điều này sẽ góp phần thúc 
đẩy quá trình mở rộng hợp tác quốc 
tế, tham gia vào quá trình hội nhập 
của các quốc gia, quan hệ thương 
mại quốc tế sẽ có nhiều điều kiện 
thuận lợi để phát triển.
Khi đề cập đến điều ước quốc 
tế trong quá trình điều chỉnh quan 
hệ hợp đồng một vấn đề nữa cũng 
cần phải giải quyết triệt để là trong 
trường hợp nào điều ước quốc tế sẽ 
được áp dụng bởi vì điều ước quốc 
tế không phải là pháp luật quốc gia 
và bên cạnh điều ước quốc tế vẫn 
tòn tại hệ thống pháp luật của các 
quốc gia điều chỉnh quan hệ hợp 
đồng. Theo nguyên tắc chung, điều 
ước quốc tế sẽ được áp dụng trong 
các trường hợp sau đây:
Thứ nhất, chủ thể tham gia quan 
hệ hợp đồng mua bán hàng hóa có 
yếu tố nước ngoài mang quốc tịch 
của quốc gia là chủ thể đã tham gia 
ký kết, gia nhập điều ước quốc tế 
có liên quan đến quan hệ hợp đồng 
đó. Theo nguyên tắc chung đã 
được xác định trong hệ thống pháp 
luật VN, trong trường hợp điều ước 
quốc tế mà VN đã tham gia hoặc 
ký kết có quy định khác với quy 
định của văn bản pháp luật trong 
nước về cùng một vấn đề thì phải 
ưu tiên áp dụng quy định của điều 
ước quốc tế.
Thứ hai, khi các bên tham gia 
quan hệ hợp đồng thỏa thuận lựa 
chọn điều ước quốc tế làm cơ sở 
pháp lý điều chỉnh. Trong trường 
hợp này mặc dù quốc gia của 
một trong các bên hoặc của các 
bên chưa tham gia điều ước quốc 
tế nhưng điều ước quốc tế do các 
bên thỏa thuận lựa chọn vẫn được 
áp dụng vì nguyên tắc tự do thỏa 
thuận chọn luật áp dụng là một 
trong những nguyên tắc cơ bản 
của hợp đồng mua bán hàng hóa 
có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, 
việc áp dụng điều ước quốc tế phải 
không được trái với các nguyên tắc 
của pháp luật quốc gia. Điều này 
có nghĩa là, nếu có quy định của 
điều ước quốc tế trái với luật VN 
thì phải áp dụng pháp luật VN.
Theo quy định của pháp luật VN 
hiện hành, những điều ước quốc 
tế mà VN là thành viên thì đây là 
nguồn đương nhiên của pháp luật 
VN và là nguồn có hiệu lực pháp lý 
cao nhất, cao hơn cả văn bản pháp 
luật trong nước nếu điều ước quốc 
tế và văn bản pháp luật trong nước 
Số 10 - Tháng 3/2011 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
Kinh Tế & Ứng Dụng
47
cùng điều chỉnh về một vấn đề mà 
có sự quy định khác nhau. Chính vì 
vậy, một hợp đồng mua bán hàng 
hóa có yếu tố nước ngoài nếu được 
điều chỉnh phải ưu tiên áp dụng 
các điều ước quốc tế. Nguyên tắc 
này được ghi nhận trong phần lớn 
các đạo luật của hệ thống pháp luật 
VN. Cụ thể:
(i). Khoản 3 Điều 2 Bộ Luật tố 
tụng dân sự năm 2005 quy định: 
“Bộ luật tố tụng dân sự được áp 
dụng đối với việc giải quyết vụ 
việc dân sự có yếu tố nước ngoài; 
trường hợp điều ước quốc tế mà 
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN ký 
kết hoặc gia nhập có quy định khác 
thì áp dụng quy định của điều ước 
quốc tế đó”.
(ii). Khoản 3 Điều 2 Bộ luật dân 
sự 2005 quy định: “Bộ luật dân sự 
được áp dụng đối với các quan hệ 
dân sự có yếu tố nước ngoài, trừ 
trường hợp điều ước quốc tế mà 
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN 
là thành viên có quy định khác”; 
Tương tự, khoản 2 Điều 759 Bộ 
luật quy định: “trong trường hợp 
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã 
hội chủ nghĩa VN là thành viên có 
quy định khác với quy định của Bộ 
luật này thì áp dụng quy định của 
điều ước quốc tế “.
(iii). Khoản 3 Điều 5 Luật đầu 
tư năm 2005 quy định: “Trường 
hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa 
xã hội chủ nghĩa VN là thành viên 
có quy định khác với quy định của 
Luật này thì áp dụng theo quy định 
của điều ước quốc tế đó”.
Bên cạnh đó, các điều ước quốc 
tế mà VN chưa phải là thành viên 
cũng có thể được áp dụng để điều 
chỉnh các quan hệ dân sự có yếu 
tố nước ngoài nếu các bên tham 
gia quan hệ lựa chọn làm nguồn 
luật điều chỉnh. Tuy nhiên, việc áp 
dụng điều ước quốc tế trong trường 
hợp này là có điều kiện.
Những năm gần đây VN đã tăng 
cường gia nhập cũng như ký kết 
nhiều điều ước quốc tế liên quan 
đến hoạt động thương mại quốc tế 
nói chung và hợp đồng mua bán 
hàng hóa có yếu tố nước ngoài 
nói riêng. Điều này vửa là một xu 
thế tất yếu không thể đi ngược để 
đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế 
đồng thời cũng là nhiệm vụ của 
VN trong quá trình thực hiện các 
cam kết quốc tế khi VN gia nhập 
các thiết chế thương mại mang tính 
toàn cầu, ví dụ WTO.
2.2 Tập quán thương mại quốc tế
Trong việc ký kết và thực hiện 
hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu 
tố nước ngoài tập quán thương mại 
quốc tế thường được sử dụng với 
tư cách là cơ sở pháp lý của hợp 
đồng. Tập quán thương mại quốc 
tế là những quy tắc xử sự phổ biến 
đã hình thành từ lâu và được các 
bên tham gia quan hệ hợp đồng 
tự nguyện tuân thủ trong thực tiễn 
thương mại quốc tế. Phụ thuộc vào 
tính chất và giá trị hiệu lực của tập 
quán thương mại quốc tế có thể chia 
tập quán thương mại quốc tế thành 
các loại sau: Tập quán mang tính 
chất nguyên tắc; Tập quán mang 
tính chất chung; Tập quán mang 
tính chất khu vực. Tập quán quốc 
tế mang tính chất nguyên tắc là nền 
tảng, là cơ bản và có tính chất bao 
trùm và có giá trị bắt buộc chung 
đối với các quốc gia khi ban hành 
pháp luật. Tập quán quốc tế chung 
và tập quán quốc tế khu vực chỉ có 
giá trị pháp lý ràng buộc các quốc 
gia khi được các quốc gia đó thừa 
nhận hoặc chấp nhận ràng buộc đối 
với mình.
Theo nguyên tắc, bản thân của 
tập quán thương mại quốc tế không 
có hiệu lực pháp lý như quy phạm 
pháp luật của hệ thống pháp luật 
quốc gia, nó chỉ có hiệu lực bắt 
buộc áp dụng khi thỏa mãn những 
điều kiện sau đây:
Thứ nhất, quốc gia của các chủ 
thể của hợp đồng mua bán hàng 
hóa có yếu tố nước ngoài công 
nhận bằng một văn bản chính thức 
hiệu lực của tập quán thương mại 
quốc tế như là một quy phạm pháp 
luật;
Thứ hai, theo ý chí của các bên 
chủ thể hợp đồng. Nghĩa là các bên 
thỏa thuận và thể hiện trong hợp 
đồng sẽ áp dụng tập quán thương 
mại quốc tế để điều chỉnh các nội 
dung của hợp đồng.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 10 - Tháng 3/2011
Kinh Tế & Ứng Dụng
48
Pháp luật của nhiều quốc gia 
trên thế giới đều quy định quyền 
được thỏa thuận lựa chọn áp dụng 
tập quán thương mại quốc tế để 
điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của 
các bên chủ thể phát sinh từ quan hệ 
hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu 
tố nước ngoài. Tuy nhiên, việc thỏa 
thuận áp dụng này phải đáp ứng 
những điều kiện do pháp luật quốc 
gia quy định. Thực tiễn ký kết và 
thực hiện hợp đồng mua bán hàng 
hóa có yếu tố nước ngoài cho thấy 
tập quán thương mại quốc tế vẫn 
còn giữ một vị trí đáng kể trong các 
cơ sở pháp lý điều chỉnh loại hợp 
đồng này. Chính vì vậy, việc tiêu 
chuẩn hóa và hòa hợp hóa các tập 
quán thương mại quốc tế thường 
xuyên diễn ra; đóng vai trò quan 
trọng là các tổ chức quốc tế, điển 
hình là Ủy ban thương mại quốc tế 
được thành lập năm 1919 có trụ sở 
ở Paris. Một trong những văn bản 
đầu tiên được ủy ban soạn thảo và 
được sử dụng rất phổ biến trong 
thương mại quốc tế là các Quy tắc 
giải thích thuật ngữ thương mại 
(International Commercial Terms, 
gọi tắt là Incorterms). Incoterms 
lần đầu tiên được công bố năm 
1936. Năm 1953, 1967, 1976 quy 
tắc này được bổ sung thêm một số 
thuật ngữ mới. Các phiên bản tiếp 
theo được công bố vào năm 1980, 
1990 và năm 2000 tiếp tục hoàn 
thiện bộ quy tắc này. Theo nguyên 
tắc chung, Incorterms được áp 
dụng khi các bên trong quan hệ 
hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu 
tố nước ngoài trực tiếp thỏa thuận 
việc áp dụng trong hợp đồng đồng 
thời chỉ rõ điều kiện cụ thể được 
áp dụng tương ứng. Incorterms 
cũng có thể được áp dụng trong 
trường hợp khi mà các bên không 
trực tiếp thỏa thuận việc áp dụng 
trong hợp đồng nhưng xuất phát từ 
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể trong 
đó hợp đồng được ký kết và thực 
hiện, cơ quan có thẩm quyền giải 
quyết tranh chấp cho rằng các bên 
có sự thỏa thuận ngầm về việc áp 
dụng tập quán thương mại quốc tế. 
Bên cạnh Incorterms, trong thực 
tiễn hoạt động thương mại quốc 
tế, trong lĩnh vực thanh toán quốc 
tế còn có Quy tắc thực hành thống 
nhất về tín dụng chứng từ (UCP 
600), Quy tắc thực hành thống 
nhất về nhờ thu (URC 522) cũng là 
những tập quán thương mại quốc 
tế quan trọng và được áp dụng phổ 
biến.
Theo quy định của pháp luật 
VN, tập quán thương mại quốc tế 
cũng được thừa nhận là nguồn của 
pháp luật VN. Tập quán thương 
mại quốc tế là nguồn luật điều 
chỉnh khi các bên tham gia quan 
hệ hợp đồng mua bán hàng hóa có 
yếu tố nước ngoài thể hiện ý chí 
lựa chọn áp dụng. Nguyên tắc này 
được quy định cụ thể trong nhiều 
văn bản pháp luật VN. Cụ thể:
i. Khoản 2 Điều 5 Luật thương 
mại 2005 quy định: “Các bên trong 
giao dịch thương mại có yếu tố 
nước ngoài được thỏa thuận áp 
dụng pháp luật nước ngoài, tập 
quán thương mại quốc tế nếu pháp 
luật nước ngoài, tập quán thương 
mại quốc tế đó không trái với các 
nguyên tắc cơ bản của pháp luật 
VN”.
ii. Khoản 2 Điều 4 Bộ Luật hàng 
hải 2005 quy định: “Các bên tham 
gia trong hợp đồng liên quan đến 
hoạt động hàng hải mà trong đó 
có ít nhất một bên là cá nhân hoặc 
tổ chức nước ngoài thì có quyền 
thỏa thuận áp dụng pháp luật nước 
ngoài hoặc tập quán hàng hải quốc 
tế trong các quan hệ hợp đồng ”
iii. Khoản 3 Điều 4 Luật 
chuyển giao công nghệ năm 2006 
quy định: “Trường hợp hoạt động 
chuyển giao công nghệ có yếu tố 
nước ngoài thì các bên có thể thỏa 
thuận trong hợp đồng việc áp dụng 
pháp luật nước ngoài và tập quán 
thương mại quốc tế, nếu pháp luật 
nước ngoài, tập quán thương mại 
quốc tế đó không trái với nguyên 
tắc cơ bản của pháp luật VN”.
Tập quán quốc tế còn là cơ sở 
pháp lý điều chỉnh hợp đồng mua 
bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài 
trong trường hợp các bên không có 
thỏa thuận lựa chọn áp dụng. Đó 
là trường hợp không tìm được quy 
phạm pháp luật tương ứng trong 
điều ước quốc tế và cả pháp luật 
quốc gia. Cụ thể:
Số 10 - Tháng 3/2011 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
Kinh Tế & Ứng Dụng
49
Khoản 4 Điều 759 Bộ Luật dân 
sự 2005 quy định: “Trong trường 
hợp quan hệ dân sự có yếu tố nước 
ngoài không được Bộ luật này, các 
văn bản pháp luật khác của Cộng 
hòa xã hội chủ nghĩa VN, điều 
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội 
chủ nghĩa VN là thành viên hoặc 
hợp đồng dân sự giữa các bên điều 
chỉnh thì áp dụng tập quán quốc tế, 
nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của 
việc áp dụng không trái với nguyên 
tắc cơ bản của pháp luật Cộng hòa 
xã hội chủ nghĩa VN”.
Theo quy định này, tập quán 
thương mại quốc tế sẽ đương nhiên 
được áp dụng khi thỏa mãn các 
điều kiện sau đây:
- Khi vấn đề cần giải quyết 
không được Bộ Luật dân sự, các 
văn bản khác của VN, điều ước 
quốc tế mà VN là thành viên hoặc 
hợp đồng giữa các bên điều chỉnh.
- Việc áp dụng hoặc hậu quả của 
việc áp dụng không trái với nguyên 
tắc cơ bản của pháp luật Cộng hòa 
xã hội chủ nghĩa VN.
2.3 Pháp luật quốc gia
Trong hợp đồng mua bán hàng 
hóa có yếu tố nước ngoài, quyền 
và nghĩa vụ của các bên còn được 
điều chỉnh bởi pháp luật quốc gia 
có liên quan. Đó là những quy định 
pháp luật trong lĩnh vực dân sự, 
thương mại. Các quy phạm pháp 
luật quốc gia tham gia điều chỉnh 
quan hệ hợp đồng mua bán hàng 
hóa có yếu tố nước ngoài được chia 
thành hai nhóm:
Thứ nhất, các quy phạm mang 
tính bắt buộc áp dụng. Các quy 
phạm này có hiệu lực điều chỉnh 
đối với quan hệ hợp đồng mua 
bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài 
trong mọi trường hợp, không phụ 
thuộc vào cơ sở pháp lý điều chỉnh 
hợp đồng là điều ước quốc tế, tập 
quán thương mại quốc tế hay pháp 
luật của bất kỳ quốc gia nào. Các 
quy phạm này thường điều chỉnh 
các vấn đề xác định năng lực chủ 
thể ký kết hợp đồng, hình thức của 
hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng, 
 Ví dụ: Thương nhân VN ký 
kết hợp đồng mua bán với chủ thể 
nước ngoài, các bên đã thỏa thuận 
trong hợp đồng luật áp dụng cho 
hợp đồng là pháp luật quốc gia của 
chủ thể nước ngoài. Theo quy định 
của pháp luật quốc gia đã được thỏa 
thuận lựa chọn, hình thức của hợp 
đồng mua bán hàng hóa có yếu tố 
nước ngoài có thể được ký kết theo 
mọi hình thức: văn bản, lời nói,  
Tuy nhiên, để hợp đồng được coi là 
có hiệu lực trên lành thổ VN, hợp 
đồng bắt buộc phải tuân theo quy 
định của pháp luật VN là hình thức 
phải bằng văn bản.
Thứ hai, các quy phạm nội 
dung, tức là các quy phạm quy 
định quyền và nghĩa vụ của các 
bên trong hợp đồng. Khác với các 
quy phạm bắt buộc, các quy phạm 
loại này chỉ áp dụng khi có các 
điều kiện:
- Xuất phát từ sự thỏa thuận 
lựa chọn của các bên. Ví dụ: các 
bên thỏa thuận lựa chọn pháp luật 
VN áp dụng cho hợp đồng. Trong 
trường hợp này pháp luật đã được 
lựa chọn sẽ được áp dụng. Dĩ nhiên, 
việc thỏa thuận lựa chọn phải đáp 
ứng những điều kiện về chọn luật 
áp dụng cho hợp đồng.
- Xuất phát từ một số nguyên 
tắc chọn luật áp dụng đã được 
thừa nhận trong pháp luật quốc tế. 
Trong trường hợp các bên không 
thỏa thuận chọn luật áp dụng hoặc 
nếu xuất phát từ hợp đồng cũng 
không thể xác định rõ ràng được ý 
chí của các bên chủ thể lựa chọn 
hệ thống pháp luật nào áp dụng cho 
quan hệ hợp đồng thì xuất phát từ 
những nguyên tắc chung đã được 
thừa nhận trong pháp luật quốc tế, 
có thể áp dụng một số hệ thống 
pháp luật quốc gia sau:
(i). Luật của quốc gia nơi nghĩa 
vụ chủ yếu được thực hiện. Việc áp 
dụng pháp luật trong trường hợp 
này là kết quả của việc xác định 
nghĩa vụ của bên mà nghĩa vụ đó 
cấu thành nên nội dung cơ bản của 
hợp đồng. Cụ thể, trong hợp đồng 
mua bán hàng hóa có yếu tố nước 
ngoài sẽ áp dụng pháp luật của 
nước người bán bởi vì trong hợp 
đồng này nghĩa vụ giao hàng của 
người bán là nghĩa vụ có ý nghĩa 
quyết định đối với nội dung hợp 
đồng.
(ii). Luật của quốc gia nơi ký 
kết hợp đồng. Theo nguyên tắc này 
pháp luật áp dụng là pháp luật nơi 
hợp đồng được ký kết. Nguyên tắc 
này trước đây được áp dụng rất 
phổ biến trong hoạt động thương 
mại quốc tế nhưng hiện nay ngày 
càng ít được áp dụng để điều chỉnh 
quyền và nghĩa vụ của các bên xuất 
phát từ hợp đồng. Do sự phát triển 
của công nghệ thông tin, hợp đồng 
thương mại quốc tế nói chung, hợp 
đồng mua bán hàng hóa có yếu tố 
nước ngoài nói riêng ngày càng ít 
được ký kết theo phương thức trực 
tiếp mà chủ yếu được ký kết gián 
tiếp thông qua các phương tiện 
thông tin liên lạc. Chính vì vậy việc 
xác định được nơi ký kết hợp đồng 
là vấn đề rất phức tạp.
(iii). Luật có mối liên hệ mật 
thiết với hợp đồng. Đây là một 
nguyên tắc mới hình thành trong 
thực tiễn hoạt động thương mại 
quốc tế. Theo nguyên tắc này luật 
áp dụng là pháp luật của các quốc 
gia có mối liên hệ chặt chẽ với một 
hợp đồng cụ thể trong trường hợp 
không có sự thỏa thuận của các bên. 
Phương pháp lựa chọn luật này bắt 
nguồn từ pháp luật của Anh. Trong 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 10 - Tháng 3/2011
Kinh Tế & Ứng Dụng
50
trường hợp sau, khi căn cứ vào nội 
dung hợp đồng mà không thể xác 
định được luật áp dụng cho hợp 
đồng thì Tòa án sẽ đưa ra cái gọi là 
ý chí giả định của các bên: Trong 
những tình huống, hoàn cảnh 
tương tự, các bên tham gia quan 
hệ hợp đồng sẽ lựa chọn pháp luật 
của quốc gia nào để áp dụng cho 
quan hệ hợp đồng này? Xuất phát 
từ các tiêu chí công bằng, hợp lý, 
các thẩm phán của Anh khi nghiên 
cứu các tình tiết của vụ việc đã xác 
định luật đặc trưng cho hợp đồng 
này, tức là luật có quan hệ mật thiết 
với hợp đồng. Khi xác định luật 
áp dụng, các thẩm phán không bị 
ràng buộc bởi bất cứ nguyên tắc áp 
dụng pháp luật nào khác. Mặc dù 
không có tính cụ thể và mang tính 
chủ quan, phương pháp xác định 
luật áp dụng theo pháp luật có mối 
liên hệ mật thiết nhất với hợp đồng 
trong thời gian gần đây ngày càng 
được áp dụng rộng rãi và phổ biến. 
Pháp luật quốc gia của nhiều nước 
cũng như một số điều ước quốc tế 
cũng đã ghi nhận nguyên tắc này. 
Ví dụ: Luật điều chỉnh về Tư pháp 
quốc tế của Đức năm 1986; Luật 
Tư pháp quốc tế của Thụy Sĩ năm 
1987; Công ước Lahaye về luật áp 
dụng đối với hợp đồng mua bán 
hàng hóa quốc tế năm 1986; Công 
ước Rome về luật áp dụng đối với 
nghĩa vụ hợp đồng năm 1980, 
Pháp luật VN cũng đã cố gắng 
xây dựng các quy định về xác định 
luật áp dụng trong hợp đồng mua 
bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài 
trong các đạo luật điều chỉnh có 
liên quan, đặc biệt là Bộ Luật dân 
sự năm 2005. Cụ thể:
(i). Xác định luật áp dụng cho 
hình thức của hợp đồng: theo Điều 
770 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy 
định phải tuân theo “pháp luật của 
nước nơi giao kết hợp đồng”. Ngoài 
ra, nếu hợp đồng liên quan đến việc 
xây dựng hoặc chuyển giao quyền 
sở hữu công trình, nhà cửa và các 
bất động sản khác trên lãnh thổ VN 
phải “tuân theo pháp luật VN” về 
hình thức hợp đồng;
(ii). Xác định nơi giao kết hợp 
đồng trong trường hợp giao kết 
hợp đồng vắng mặt: theo đoạn 1 
Điều 771 Bộ Luật dân sự 2005 quy 
định: “phải tuân theo pháp luật của 
nước nơi cư trú của cá nhân hoặc 
nơi có trụ sở chính của pháp nhân 
là bên đề nghị giao kết hợp đồng”;
(iii). Xác định thời điểm có 
hiệu lực của hợp đồng: pháp luật 
VN không có quy định mà chỉ 
quy định về thời điểm giao kết 
hợp đồng vắng mặt được xác định 
theo “pháp luật của nước của bên 
đề nghị giao kết hợp đồng nếu bên 
này nhận được trả lời chấp nhận 
của bên được đề nghị giao kết hợp 
đồng” (đoạn 2 Điều 771 Bộ Luật 
dân sự 2005);
iv. Xác định luật áp dụng cho nội 
dung của hợp đồng trong trường 
hợp các bên không đạt được thỏa 
thuận chọn luật áp dụng: theo đoạn 
1 khoản 1 Điều 769 Bộ Luật dân 
sự 2005 phải tuân theo “pháp luật 
của nước nơi giao kết hợp đồng”. 
Ngoài ra, nếu hợp đồng được giao 
kết tại VN và thực hiện hoàn toàn 
tại VN thì phải “tuân theo pháp luật 
VN” về quyền và nghĩa vụ của các 
bên trong hợp đồng (đoạn 2 khoản 
1 Điều 769 Bộ Luật dân sự 2005);
v. Xác định nơi thực hiện hợp 
đồng nếu trong hợp đồng không 
ghi nơi thực hiện: theo đoạn 3 
khoản 1 Điều 769 Bộ Luật dân 
sự 2005 phải “tuân theo pháp luật 
VN” trong việc xác định nơi thực 
hiện hợp đồng.
Nhìn chung qua các nguyên 
tắc cơ bản đã được xác định tại Bộ 
Luật dân sự 2005, các bên tham gia 
quan hệ hợp đồng mua bán hàng 
hóa có yếu tố nước ngoài về cơ 
bản có thể giải quyết được quyền 
và nghĩa vụ của các bên trong hợp 
đồng nếu chọn cơ sở pháp lý điều 
chỉnh là pháp luật VN.
3. Kết luận
Phân tích các cơ sở pháp lý 
điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng 
hóa có yếu tố nước ngoài theo các 
nguyên tắc chung đã được thừa 
nhận rộng rãi trong hoạt động 
thương mại quốc tế cũng như trong 
pháp luật quốc gia của các nước, 
đối chiếu với quy định của pháp 
luật VN chúng ta có thể thấy VN 
đã bước đầu xây dựng được các 
nguyên tắc cơ bản để xác định cơ 
sở pháp lý điều chỉnh hợp đồng 
mua bán hàng hóa có yếu tố nước 
ngoài. Những nguyên tắc của pháp 
luật VN ngày càng tiến gần hơn 
các chuẩn mực pháp lý của quốc tế 
và phù hợp với các cam kết quốc 
tế của VN khi gia nhập các tổ chức 
thương mại quốc tế. Điều này góp 
phần rất quan trọng trong quá trình 
hội nhập quốc tế của VN, đặc biệt 
là việc xây dựng một hành lang 
pháp lý ổn định, bình đẳng cho các 
chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng 
mua bán hàng hóa có yếu tố nước 
ngoài tại VN đang ngày càng trở 
nên quan trọng khi nền kinh tế VN 
ngày càng hội nhập mạnh mẽ, hoạt 
động mua bán, xuất nhập khẩu của 
VN ngày càng trở nên sôi động, vai 
trò của hoạt động xuất nhập khẩu 
ngày càng trở nên quan trọng đối 
với hoạt động kinh tế của VNl
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua 
bán hàng hóa quốc tế
Bộ Luật dân sự VN năm 2005
Luật Thương mại VN 2005
Các tài liệu tham khảo khác.

File đính kèm:

  • pdfco_so_phap_ly_dieu_chinh_hop_dong_mua_ban_hang_hoa_co_yeu_to.pdf