Cơ sở lí luận của việc đánh giá năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên trong dạy học phần Triết học - Môn những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin hiện nay
Đánh giá có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
dạy học, là cơ sở để điều chỉnh hoạt động của giảng viên
(GV) và sinh viên (SV) nhằm đạt được mục tiêu dạy học;
là khâu “đột phá” để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi
mới căn bản, toàn diện GD-ĐT ở nước ta hiện nay. Môn
Những nguyên lí cơ bản (NNLCB) của chủ nghĩa Mác -
Lênin là nội dung quan trọng trong hệ thống các môn Lí
luận chính trị, thuộc phần kiến thức giáo dục đại cương
bắt buộc trong chương trình đào tạo ở các trường đại học,
cao đẳng. Trong quá trình học tập bộ môn, năng lực (NL)
“cốt lõi”, “đặc thù” SV cần đạt được chính là NL giải
quyết vấn đề (GQVĐ). Ở đó, SV không chỉ có NL nhận
thức được các vấn đề lí luận mà còn phải có NL vận dụng
những kiến thức này vào giải quyết các vấn đề trong thực
tiễn với một tinh thần, thái độ tích cực. Dạy học GQVĐ
là xu hướng dạy học tích cực, phát triển NL sáng tạo của
người học, tạo ra môi trường học tập chủ động, khuyến
khích người học tìm tòi, phát hiện, GQVĐ, thích nghi với
những thử thách trong cuộc sống, nghề nghiệp tương lai.
Tuy nhiên, thực tiễn dạy học phần Triết học ở các trường
đại học, cao đẳng những năm qua cho thấy việc phát triển
NL GQVĐ cho SV chưa được quan tâm đúng mức; công
tác đánh giá NL GQVĐ của SV còn lúng túng dẫn đến hiệu
quả dạy học chưa như mong muốn. Do đó, cần tìm biện
pháp nâng cao chất lượng đánh giá NL GQVĐ của SV góp
phần rèn luyện cho SV NL GQVĐ và nâng cao chất lượng
dạy học phần Triết học, môn NNLCB của chủ nghĩa Mác -
Lênin ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay.
Để có thể nghiên cứu, vận dụng tốt vấn đề này,
chúng ta phải nghiên cứu cơ sở lí luận của việc đánh
giá NL GQVĐ trong dạy học nói chung, đánh giá NL
GQVĐ của SV trong dạy học phần Triết học môn
NNLCB của chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng, đề xuất
được những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc
đánh giá NL GQVĐ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ sở lí luận của việc đánh giá năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên trong dạy học phần Triết học - Môn những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin hiện nay
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 257-263; 274 257 Email: honghaicdsptn@gmail.com CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CỦA SINH VIÊN TRONG DẠY HỌC PHẦN TRIẾT HỌC - MÔN NHỮNG NGUYÊN LÍ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN HIỆN NAY Nguyễn Thị Hồng Hải - Nguyễn Thị Bích Liên Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Nguyên Ngày nhận bài: 10/06/2018; ngày sửa chữa: 12/06/2018; ngày duyệt đăng: 18/06/2018. Abstract: Assessment plays a particularly important role in the teaching process, is the basis for regulating the performance of teachers and students in order to achieve the teaching goals. In this article, author mentions importance of module Principles of Marxism-Leninism - an important part of subjects of political theory. This is the compulsory content in the curriculum of universities and colleges. Specifically, the article focuses on studying theoretical basis of assessing ability of solving problems of students in teaching this module at universities and colleges. Also, the article proposes some measures to improve the effectiveness of the assessment of this competence of students. Keywords: Problem solving, competence, basic principles, philosophy, theoretical basis. 1. Mở đầu Đánh giá có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình dạy học, là cơ sở để điều chỉnh hoạt động của giảng viên (GV) và sinh viên (SV) nhằm đạt được mục tiêu dạy học; là khâu “đột phá” để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT ở nước ta hiện nay. Môn Những nguyên lí cơ bản (NNLCB) của chủ nghĩa Mác - Lênin là nội dung quan trọng trong hệ thống các môn Lí luận chính trị, thuộc phần kiến thức giáo dục đại cương bắt buộc trong chương trình đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng. Trong quá trình học tập bộ môn, năng lực (NL) “cốt lõi”, “đặc thù” SV cần đạt được chính là NL giải quyết vấn đề (GQVĐ). Ở đó, SV không chỉ có NL nhận thức được các vấn đề lí luận mà còn phải có NL vận dụng những kiến thức này vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn với một tinh thần, thái độ tích cực. Dạy học GQVĐ là xu hướng dạy học tích cực, phát triển NL sáng tạo của người học, tạo ra môi trường học tập chủ động, khuyến khích người học tìm tòi, phát hiện, GQVĐ, thích nghi với những thử thách trong cuộc sống, nghề nghiệp tương lai. Tuy nhiên, thực tiễn dạy học phần Triết học ở các trường đại học, cao đẳng những năm qua cho thấy việc phát triển NL GQVĐ cho SV chưa được quan tâm đúng mức; công tác đánh giá NL GQVĐ của SV còn lúng túng dẫn đến hiệu quả dạy học chưa như mong muốn. Do đó, cần tìm biện pháp nâng cao chất lượng đánh giá NL GQVĐ của SV góp phần rèn luyện cho SV NL GQVĐ và nâng cao chất lượng dạy học phần Triết học, môn NNLCB của chủ nghĩa Mác - Lênin ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay. Để có thể nghiên cứu, vận dụng tốt vấn đề này, chúng ta phải nghiên cứu cơ sở lí luận của việc đánh giá NL GQVĐ trong dạy học nói chung, đánh giá NL GQVĐ của SV trong dạy học phần Triết học môn NNLCB của chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng, đề xuất được những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc đánh giá NL GQVĐ. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Một số khái niệm 2.1.1. Khái niệm Giải quyết vấn đề Hiểu theo nghĩa thông thường, GQVĐ là thiết lập những giải pháp thích ứng để giải quyết các khó khăn, trở ngại. Với một vấn đề cụ thể có thể có một số giải pháp giải quyết, trong đó giải pháp đơn giản, hiệu quả là giải pháp tối ưu. GQVĐ là SV giải quyết các mâu thuẫn chứa đựng trong vấn đề; SV sẽ được bổ sung kiến thức, kĩ năng, phương pháp, kinh nghiệm. Theo quy luật của phép duy vật biện chứng: “Mâu thuẫn là động lực thúc đẩy quá trình phát triển”, sau khi GQVĐ, SV tự hoàn thiện kiến thức, kĩ năng và có đủ khả năng đón nhận những thử thách mới khó khăn hơn. J.D. Branford viết về người GQVĐ lí tưởng đã đề nghị 5 thành phần của việc GQVĐ là: - Nhận diện vấn đề; - Tìm hiểu cặn kẽ những khó khăn; - Đưa ra một giải pháp; - Thực hiện giải pháp; - Đánh giá hiệu quả việc thực hiện [1]. Từ đó, chúng tôi quan niệm: GQVĐ trong dạy học là chủ thể thực hiện thao tác tư duy, hành động trí tuệ thích hợp và các hoạt động học tập để thực hiện những yêu cầu của vấn đề đặt ra. 2.1.2. Năng lực giải quyết vấn đề - NL GQVĐ là một trong những NL chung cơ bản cần thiết cho mỗi người để có thể tồn tại trong xã hội ở mọi thời điểm. Vì vậy, việc hình thành và phát triển NL VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 257-263; 274 258 này cho SV là thực sự cần thiết. Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn: GQVĐ là hoạt động trí tuệ, được coi là trình độ phức tạp và cao nhất về nhận thức, vì cần huy động tất cả NL trí tuệ của cá nhân. Để GQVĐ, chủ thể cần huy động trí nhớ, tri giác, lí luận, khái niệm hóa, ngôn ngữ; đồng thời sử dụng cả cảm xúc, động cơ niềm tin ở NL bản thân và khả năng kiểm soát được tình thế [2]. Theo Từ Đức Thảo, khi giải quyết một vấn đề nào đó, SV phải dựa vào vốn hiểu biết và kinh nghiệm đã tích lũy được, tiến hành suy luận để tìm câu trả lời; cũng nhờ suy luận, SV có thể nảy sinh ý tưởng mới. Như vậy, GQVĐ cho phép SV học và luyện tập tư duy. Tư duy và GQVĐ có mối quan hệ mật thiết với nhau; tư duy để GQVĐ, thông qua GQVĐ mà phát triển tư duy [3]. Qua đó, khái niệm “NL GQVĐ” theo chúng tôi là: NL GQVĐ là khả năng cá nhân vận dụng những hiểu biết và xúc cảm để phát hiện vấn đề và tìm ra giải pháp, tiến hành GQVĐ một cách hiệu quả, tự đánh giá và điều chỉnh quá trình GQVĐ. - Cấu trúc của NL GQVĐ: Muốn tiến hành GQVĐ, chủ thể phải có NL GQVĐ. Vì vậy, cấu trúc của NL GQVĐ gồm những NL thành phần tương ứng để tiến hành các thao tác nhằm thực hiện việc GQVĐ đạt hiệu quả tối ưu. Trong dạy học một môn học cụ thể, Trần Bá Hoành đã đưa ra quy trình dạy học tiếp cận GQVĐ gồm 3 bước: + Bước 1: Đặt vấn đề. Trong bước này, GV tạo tình huống có vấn đề, SV phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh và phát biểu vấn đề cần giải quyết. + Bước 2: GQVĐ. SV đề xuất các giả thuyết, lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch GQVĐ. + Bước 3: Kết luận. SV rút ra kết luận về kiến thức mới. Trong 3 bước nói trên, bước 1 sẽ rèn luyện cho SV kĩ năng khám phá, phát hiện vấn đề để hiểu được vấn đề; bước 2 rèn luyện cho SV kĩ năng thiết lập không gian vấn đề, lập kế hoạch tiến hành GQVĐ và nảy sinh giải pháp GQVĐ; bước 3 rèn cho SV kĩ năng tổng hợp và khái quát hoá kiến thức để hình thành kiến thức mới, từ đó đánh giá giải pháp và lựa chọn giải pháp phù hợp giúp SV thực hiện giải pháp và đối chiếu kết quả với vấn đề ban đầu, rút ra các bài học kinh nghiệm sau khi GQVĐ. Từ những cơ sở trên, theo chúng tôi, để phát triển NL GQVĐ thì SV cần hình thành và phát triển được 4 kĩ năng thành tố, đó là: Hiểu vấn đề; Nảy sinh giải pháp GQVĐ; Đánh giá giải pháp và lựa chọn giải pháp phù hợp; Thực hiện giải pháp và đối chiếu kết quả với vấn đề ban đầu. Mỗi kĩ năng thành tố lại được biểu hiện bằng các chỉ báo cụ thể là biểu hiện hành vi NL GQVĐ của SV. Cụ thể như sau: Bảng 1. Các kĩ năng thành tố và biểu hiện hành vi của NL GQVĐ của SV ở các trường đại học, cao đẳng TT Kĩ năng thành tố của NL GQVĐ (Tiêu chí) Biểu hiện hành vi của NL GQVĐ (chỉ báo) 1 Kĩ năng hiểu vấn đề (1) Gọi tên được vấn đề (2) Gọi tên được đúng vấn đề (3) Xác định được nội dung vấn đề cần giải quyết (4) Xác định được đúng nội dung trọng tâm vấn đề cần giải quyết (5) Diễn đạt được một phần nội dung của vấn đề cần giải quyết (6) Diễn đạt được trọn vẹn, đầy đủ nội dung vấn đề cần giải quyết (7) Nảy sinh ý tưởng về cách GQVĐ (8) Phác thảo các ý tưởng về cách GQVĐ (9) Định hướng được các cách GQVĐ (10) Nêu ra nhận định sơ bộ về cách GQVĐ (11) Xác định được các hướng để GQVĐ (12)Xác định được đúng hướng để GQVĐ 2 Kĩ năng nảy sinh giải pháp GQVĐ (có thể) (1) Phân tích được sơ bộ vấn đề (2) Phân tích được bản chất vấn đề (3) Phân tích được nguyên nhân làm nảy sinh vấn đề (4) Phân tích được các nhân tố tác động đến vấn đề (5) Phân tích được mối quan hệ của vấn đề đó với các vấn đề khác (6) Phân tích các hướng để GQVĐ một cách chung chung (7) Phân tích các hướng để GQVĐ một cách cụ thể, chính xác VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 257-263; 274 259 (8) Phân tích đúng cách thức để GQVĐ một cách chung chung (9) Phân tích đúng cách thức để GQVĐ một cách cụ thể, chính xác (10) Nảy sinh được một giải pháp GQVĐ (11) Nảy sinh được một số giải pháp GQVĐ 3 Kĩ năng đánh giá giải pháp và lựa chọn giải pháp phù hợp (1) Giải pháp nêu ra chỉ giải quyết được một nội dung của vấn đề (2) Giải pháp nêu ra giải quyết được một số nội dung của vấn đề (3) Giải pháp nêu ra giải quyết được vấn đề một cách chung chung (4) Giải pháp nêu ra giải quyết được nội dung trọng tâm của vấn đề (5) Giải pháp nêu ra giải quyết được các mặt nảy sinh của vấn đề (6) Giải pháp nêu ra giải quyết được nội dung cơ bản của vấn đề và có tính định hướng để mở rộng vấn đề (7) Giải pháp nêu ra giải quyết được nội dung cơ bản của vấn đề và có tính thúc đẩy trong việc giải quyết các vấn đề liên quan (8) Lựa chọn giải pháp chỉ giải quyết được một nội dung của vấn đề (9) Lựa chọn giải pháp giải quyết được một số nội dung của vấn đề (10) Lựa chọn giải pháp giải quyết được vấn đề một cách chung chung (11) Lựa chọn giải pháp giải quyết được nội dung trọng tâm của vấn đề (12) Lựa chọn giải pháp giải quyết được các mặt nảy sinh của vấn đề (13) Lựa chọn giải pháp giải quyết được nội dung cơ bản của vấn đề và có tính định hướng để mở rộng vấn đề (14) Lựa chọn giải pháp giải quyết được nội dung cơ bản của vấn đề và có tính thúc đẩy trong việc giải quyết các vấn đề liên quan 4 Kĩ năng thực hiện giải pháp và đối chiếu kết quả với vấn đề ban đầu (1) Thực hiện giải pháp chỉ giải quyết được 1 nội dung của vấn đề (2) Thực hiện giải pháp giải quyết được một số nội dung của vấn đề (3) Thực hiện giải pháp giải quyết được vấn đề một cách chung chung (4) Thực hiện giải pháp giải quyết được nội dung trọng tâm của vấn đề (5) Thực hiện giải pháp giải quyết được các mặt nảy sinh của vấn đề (6) Thực hiện giải pháp giải quyết được nội dung cơ bản của vấn đề và có tính định hướng để mở rộng vấn đề (7) Thực hiện giải pháp giải quyết được nội dung cơ bản của vấn đề và có tính thúc đẩy trong việc giải quyết các vấn đề liên quan (8) Kiểm tra tính đúng đắn của các giải pháp GQVĐ (9) Đối chiếu lại kết quả thu được từ việc GQVĐ với vấn đề ban đầu (10) Đánh giá lại kết quả đối chiếu với vấn đề ban đầu (11) Tiếp tục đề xuất các giải pháp để GQVĐ hiệu quả hơn (12) Loại bỏ những giải pháp không phù hợp để thực hiện lựa chọn lại - Đánh giá NL GQVĐ: Theo Nguyễn Đức Minh: “Đánh giá theo NL là đánh giá khả năng học sinh áp dụng các kiến thức, kĩ năng đã học vào trong từng tình huống thực tiễn của cuộc sống hàng ngày” [4; tr 13]. Để đánh giá NL của cá nhân về một lĩnh vực hoạt động cụ thể, cần quan tâm đến các mặt: + Có kiến thức, hiểu biết về hoạt động đó; + Biết tiến hành hoạt động phù hợp với mục đích, xác định mục tiêu cụ thể, có phương pháp và lựa chọn được phương pháp hoạt động phù hợp; + Tiến hành hoạt động có hiệu quả, đạt được mục đích; + Tiến hành hoạt động một cách linh hoạt và có kết quả trong những điều kiện khác nhau. Từ những phân tích trên đây có thể quan niệm: Đánh giá NL GQVĐ của SV ở các trường đại học, cao đẳng là quá trình hình thành những nhận định, rút ra kết luận hoặc phán đoán về mức độ NL GQVĐ của SV; phản hồi cho SV, nhà trường, gia đình kết quả đánh giá; từ đó có biện pháp bồi dưỡng, rèn luyện NL GQVĐ cho SV. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 257-263; 274 260 Để đánh giá được NL GQVĐ của SV cần phối hợp nhiều biện pháp và công cụ để đánh giá. Ở đây chúng tôi đưa ra Thang đánh giá NL GQVĐ của SV nhằm giúp đánh giá các mực độ đạt được trong quá trình GQVĐ. Thang đánh giá NL GQVĐ của SV gồm có 49 biểu hiện hành vi GQVĐ cụ thể để SV lựa chọn (sẽ trình bày cụ thể ở phần sau). 2.2. Một số vấn đề về đánh giá năng lực và năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên trong dạy học phần Triết học - Môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay 2.2.1. Năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên trong dạy học phần Triết học - Môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin NL GQVĐ của SV trong dạy học phần Triết học là khả năng cá nhân vận dụng những hiểu biết và xúc cảm để phát hiện vấn đề triết học và tìm ra giải pháp, tiến hành GQVĐ hiệu quả, tự đánh giá và điều chỉnh quá trình GQVĐ của bản thân. Trong dạy học Triết học, SV có NL GQVĐ khi các em biết sử dụng kiến thức, kĩ năng của môn học một cách tự tin vào việc giải quyết các vấn đề thuộc những lĩnh vực học tập ở nhà trường, các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày. NL GQVĐ của SV trong dạy học phần Triết học thể hiện trong các hoạt động của quá trình GQVĐ. Tiếp cận các lí thuyết về quá trình GQVĐ và các bước tiến hành GQVĐ, chúng tôi cho rằng NL GQVĐ của SV trong dạy học phần Triết học được cấu thành bởi các NL thành tố sau: NL hiểu vấn đề Triết học, NL nảy sinh giải pháp GQVĐ Triết học (có thể), NL đánh giá giải pháp GQVĐ Triết học và lựa chọn giải pháp GQVĐ Triết học phù hợp, NL thực hiện giải pháp VQVĐ Triết học và đối chiếu kết quả GQVĐ với vấn đề ban đầu. Trong đó, một NL thành tố lại bao gồm nhiều NL thành phần, các NL thành phần có sự lồng ghép, giao thoa nhau. Cụ thể: - NL hiểu vấn đề Triết học là khả năng SV đó: 1) Gọi tên được vấn đề Triết học; 2) Gọi tên được đúng vấn đề Triết học; 3) Xác định được nội dung vấn đề Triết học cần giải quyết; 4) Xác định được đúng nội dung trọng tâm vấn đề Triết học cần giải quyết; 5) Diễn đạt được một phần nội dung của vấn đề Triết học cần giải quyết; 6) Diễn đạt được trọn vẹn, đầy đủ nội dung vấn đề Triết học cần giải quyết; 7) Nảy sinh ý tưởng về cách GQVĐ Triết học đưa ra; 8) Phác thảo các ý tưởng về cách GQVĐ Triết học; 9) Định hướng được các cách GQVĐ Triết học; 10) Nêu ra nhận định sơ bộ về cách GQVĐ Triết học; 11) Xác định được các hướng để GQVĐ Triết học; 12) Xác định được đúng hướng để GQVĐ Triết học. - NL nảy sinh giải pháp GQVĐ (có thể) là khả năng SV đó: 1) Phân tích được sơ bộ vấn đề Triết học; 2) Phân tích được bản chất vấn đề Triết học; 3) Phân tích được nguyên nhân làm nảy sinh vấn đề Triết học; 4) Phân tích được các nhân tố tác động đến vấn đề Triết học; 5) Phân tích được mối quan hệ của vấn đề Triết học đó với các vấn đề Triết học khác; 6) Phân tích các hướng để GQVĐ Triết học một cách chung chung; 7) Phân tích các hướng để GQVĐ Triết học một cách cụ thể, chính xác; 8) Phân tích đúng cách thức để GQVĐ Triết học một cách chung chung; 9) Phân tích đúng cách thức để GQVĐ Triết học một cách cụ thể, chính xác; 10) Nảy sinh được một giải pháp GQVĐ Triết học; 11) Nảy sinh được một số giải pháp GQVĐ Triết học. - NL đánh giá giải pháp và lực chọn giải pháp phù hợp là khả năng SV đó có khả năng đánh giá và lựa chọn giải pháp GQVĐ Triết học ở các mức độ khác nhau: 1) Giải pháp nêu ra chỉ giải quyết được một nội dung của vấn đề Triết học; 2) Giải pháp ... i dung trong dạy học phạm trù vật chất; + Phân tích được 3 dấu hiệu trong nội hàm định nghĩa phạm trù vật chất, phân tích được bản chất vấn đề; + Phân tích được mâu thuẫn trong những quan niệm về vật chất của các trào lưu triết học đầu thế kỉ XX; + Phân tích được thực chất của cuộc khủng hoảng trong quan niệm về vật chất; + Phân tích được mối quan hệ của vật chất đối với ý thức; + Phân tích các hướng để giải quyết phạm trù vật chất một cách chung chung, khái quát; + Phân tích các hướng để giải quyết phạm trù vật chất một cách cụ thể, chính xác; + Phân tích đúng cách thức để giải quyết phạm trù vật chất một cách chung chung, khái quát; + Phân tích đúng cách thức để giải quyết phạm trù vật chất một cách cụ thể, chính xác; + Nảy sinh được một giải pháp giải quyết phạm trù vật chất; + Nảy sinh được một số giải pháp giải quyết phạm trù vật chất; + Giải pháp nêu ra chỉ giải quyết được một nội dung của phạm trù vật chất; + Giải pháp nêu ra giải quyết được một số nội dung của phạm trù vật chất; + Giải pháp nêu ra giải quyết được phạm trù vật chất một cách chung chung; + Giải pháp nêu ra giải quyết được nội dung trọng tâm của phạm trù vật chất (định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin); + Giải pháp nêu ra giải quyết được các mặt nảy sinh của phạm trù vật chất; + Giải pháp nêu ra giải quyết được nội dung cơ bản của phạm trù vật chất và có tính định hướng để mở rộng phạm trù vật chất phạm trù vật chất trong lí luận nhận thức chính là tồn tại xã hội; + Giải pháp nêu ra giải quyết được nội dung cơ bản của phạm trù vật chất và có tính thúc đẩy trong việc giải quyết các vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; + Lựa chọn giải pháp chỉ giải quyết được một nội dung (tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người) của phạm trù vật chất; + Lựa chọn giải pháp giải quyết được một số vấn đề trong nội hàm của phạm trù vật chất; + Lựa chọn giải pháp giải quyết phạm trù vật chất một cách chung chung; + Lựa chọn giải pháp giải quyết được nội dung trọng tâm của phạm trù vật chất; + Lựa chọn giải pháp giải quyết được nội dung trọng tâm của phạm trù vật chất; + Lựa chọn giải pháp giải quyết được các mặt nảy sinh của phạm trù vật chất; + Lựa chọn việc kết hợp các phương pháp dạy học để giải quyết được nội dung cơ bản của phạm trù vật chất và có tính định hướng để mở rộng phạm trù vật chất trong lí luận nhận thức (thực tiễn) và trong đời sống xã hội (tồn tại xã hội); + Lựa chọn việc kết hợp các phương pháp dạy học để giải quyết được nội dung cơ bản của phạm trù vật chất và có tính thúc đẩy trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan với vật chất (không gian, thời gian, vận động của vật chất); + Thực hiện giải pháp thuyết trình chỉ giải quyết được nội dung lịch sử hình thành và phát triển của phạm trù vật chất trong lịch sử triết học; + Thực hiện việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp trực quan quyết được một số nội dung của phạm trù vật chất; + Thực hiện giải pháp thuyết trình giải quyết được vấn đề một cách chung chung phạm trù vật chất; + Thực hiện giải pháp thuyết trình kết hợp với trực quan giải quyết được nội dung trọng tâm của phạm trù vật chất (định nghĩa vật chất); + Thực hiện giải pháp nêu vấn đề giải quyết được các mặt nảy sinh của phạm trù vật chất (ý nghĩa của định nghĩa); + Thực hiện giải pháp thuyết trình với nêu vấn đề sẽ giải quyết được nội dung cơ bản của phạm trù vật chất và có tính định hướng để mở rộng vấn đề phạm trù vật chất; + Thực hiện giải pháp thuyết trình, trực quan và nêu vấn đề sẽ giải quyết được nội dung cơ bản của phạm trù vật chất và có tính thúc đẩy trong việc giải quyết các vấn đề liên quan (không gian, thời gian, vận động); + Kiểm tra tính đúng đắn sử dụng phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề và trực quan để giải quyết phạm trù vật chất; + Đối chiếu lại kết quả thu được khi chỉ sử dụng phương pháp thuyết trình trong dạy học phạm trù vật chất; + Đánh giá lại kết quả đối chiếu với vấn đề ban đầu (so sánh giữa lớp đối chứng và lớp thực nghiệm); + Tiếp tục đề xuất các giải pháp để GQVĐ đó hiệu quả hơn trong dạy học phạm trù vật chất (kết hợp với sử dụng các tri thức liên môn); + Sử dụng đơn độc 1 phương pháp dạy học (hoặc thuyết trình, hoặc trực quan hoặc nêu vấn đề riêng biệt) không có kết quả cao. Loại trừ giải pháp đơn độc này. Phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau khi dạy học phạm trù vật chất. Căn cứ vào Thang đánh giá trên, GV sẽ đo được mức độ NL GQVĐ mà SV đạt được. - Phương pháp xử lí vấn đề: Quá trình GV lên lớp, đưa ra các tình huống để SV thực hiện GQVĐ, mỗi em sẽ thể hiện một NL riêng của mình không giống nhau; mỗi em sẽ có khả năng phát hiện vấn đề, phân tích và tìm ra nguyên nhân của vấn đề khác nhau và dẫn đến phương pháp xử lí vấn đề khác nhau. GV đối chiếu với các mục tiêu bài học đưa ra để đánh giá NL của các em. - Kĩ năng xử lí vấn đề: Qua quá trình tổ chức các hoạt động cho SV, GV đã tạo cơ hội cho SV được rèn luyện kĩ năng xử lí vấn đề, từ đó trở thành các kĩ năng, kĩ xảo cho SV và vận dụng thành thạo trong việc giải quyết các vấn đề, tình huống trong cuộc sống hàng ngày. Đây là kĩ năng rất quan trọng và cần thiết để SV thích ứng với thực tế cuộc sống. - Hiệu quả GQVĐ: GV đối chiếu các kết quả mà SV đã làm được với mục tiêu đề ra, đối chiếu với các thang VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 257-263; 274 263 đo mà cả GV và SV đã được biết trước, GV sẽ đánh giá được hiệu quả GQVĐ, SV cũng tự đánh giá hay đánh giá lẫn nhau, em nào đạt hiệu quả cao hơn thì có NL tốt hơn và ngược lại. Điều này có tác dụng giúp cả GV và SV có biện pháp điều chỉnh trong giảng dạy, học tập nhằm phát triển NL GQVĐ của SV. 2.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc đánh giá năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên trong dạy học phần Triết học - Môn những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay - Nội dung của môn học: Triết học là học phần có tính trừu tượng và tính khái quát hóa cao. Hệ thống tri thức khoa học của môn học này được cấu thành từ các khái niệm, phạm trù, các nguyên lí trừu tượng mang tính mở, tính lí luận cao và phải luôn được gắn với thực tiễn để qua đó hoàn thiện, bổ sung lí luận. Học phần này có hệ thống, logic chặt chẽ, hệ thống lí luận và phương pháp luận khoa học nội tại chặt chẽ. Hơn nữa, đây còn là học phần điển hình về sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng, tính lí luận và tính thực tiễn... Vì vậy, để dạy cho SV hiểu được kiến thức Triết học đã khó, việc rèn luyện giúp các em thành thạo các kĩ năng GQVĐ càng khó hơn. GV phải biết lựa chọn các nội dung kiến thức có vấn đề, vận dụng phương pháp dạy học phù hợp, tổ chức các hình thức dạy học giúp phát huy được NL GQVĐ của SV; đặc biệt, phải xây dựng được hệ thống câu hỏi, bộ đề, các phương pháp, công cụ và kĩ thuật kiểm tra, đánh giá được NL GQVĐ của SV một cách công bằng, công khai, gây hứng thú cho SV trong quá trình học tập và góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn học này. - Không gian, thời gian tiến hành đánh giá NL GQVĐ của SV có thể là lớp học, là các sản phẩm SV tự hoàn thành ở nhà dưới sự hướng dẫn của GV. Lớp học phải đảm bảo rộng rãi, thoáng mát, đủ ánh sáng và các phương tiện kĩ thuật hỗ trợ, đủ để cho SV thực hiện các hoạt động học tập GQVĐ. Tránh tình trạng lớp học quá nhỏ không đủ để GV và SV tiến hành các hoạt động học tập tích cực hướng tới giúp SV thực hiện các hoạt động GQVĐ một cách hiệu quả. - Chủ thể đánh giá: + Người dạy: GV hiện nay vẫn chưa quen với việc đánh giá NL của người học, vẫn chỉ tập trung đáng giá kết quả học tập của SV bằng điểm số. Thời gian đánh giá thông qua bài kiểm tra giữa kì và cuối kì thường không có nhận xét. + Người học: SV chưa được tiếp cận với dạy học theo phát triển NL, chủ yếu và lĩnh hội kiến thức từ GV thông qua các bài giảng trên lớp, không có cơ hội được rèn luyện các kĩ năng như NL thuyết trình, NL hợp tác, đặc biệt là NL GQVĐ. Trong các tiết dạy, SV thường thụ động lĩnh hội kiến thức mà GV cung cấp; khi thi thì “học tủ”, “học vẹt” để đối phó với thi cử. + Người quản lí giáo dục: Nhiều nhà quản lí giáo dục, lãnh đạo các trường chưa ủng hộ xu hướng dạy học và kiểm tra, đánh giá theo hướng mới, hướng tiếp cận NL người học mà vẫn dập khuôn những hình thức cũ... - Hình thức và phương pháp đánh giá. Đây là cách đánh giá theo xu hướng mới, đánh giá NL người học. Vì vậy, cả GV và SV đều chưa làm thành thạo, nhiều GV còn chưa nắm rõ lí thuyết về đánh giá NL nói chung; cộng thêm tâm lí ngại thay đổi, quen làm theo cách cũ, nên đánh giá cũng chỉ hướng vào đánh giá xem SV đạt được ở mức độ nào ở sự ghi nhớ và hiểu những kiến thức mà GV đã giảng trên lớp. Không hướng và đánh giá xem SV đã rèn luyện được những kĩ năng, NL gì trong quá trình học tập môn học. Vì vậy, để tiến hành đánh giá NL GQVĐ của SV trong dạy học phần Triết học, cần tiến hành bồi dưỡng cách thức đánh giá NL GQVĐ của SV cho cán bộ quản lí và GV giảng dạy phần Triết học, cụ thể: + Nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lí và GV giảng dạy phần Triết học về đánh giá NL nói chung và đánh giá NL GQVĐ của SV nói riêng. Cần tập trung vào đánh giá chất lượng học tập SV hiện nay, chủ yếu là đánh giá: kiến thức, kĩ năng, thái độ và chú trọng so sánh kết quả học tập đạt được giữa các SV với nhau, trong đó có NL GQVĐ. Phải làm cho cán bộ quản lí và GV hiểu được vai trò của đánh giá NL GQVĐ của SV trong dạy học phần Triết học; thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới đánh giá với mục đích là đánh giá NL, không tách rời việc đánh giá mức độ đạt được kiến thức, kĩ năng. + Cung cấp cho cán bộ quản lí và GV các trường đại học, cao đẳng cách thức đánh giá NL GQVĐ của SV theo hướng tiếp cận quá trình GQVĐ, gồm: Thang đánh giá NL; các phương pháp, công cụ, kĩ thuật và quy trình đánh giá NL GQVĐ của SV trong dạy học phần Triết học; cung cấp tài liệu về các nội dung trên giúp GV tự bồi dưỡng. Nội dung bồi dưỡng cho GV về đánh giá NL GQVĐ của SV nằm trong chương trình bồi dưỡng thường xuyên hàng năm theo quy định của Bộ GD-ĐT. + Việc tổ chức bồi dưỡng được giao cho các Sở GD- ĐT hoặc cụm các trường đại học. Trong đó, thời gian tổ chức bồi dưỡng được thực hiện trong năm học và thời gian bồi dưỡng hè phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương và GV. Chương trình bồi dưỡng có thể được tiến hành trong 15 tiết (2 tiết lí thuyết, 3 tiết thực hành và 10 tiết người học tự nghiên cứu). Tổ chức bồi dưỡng GV học tập theo tổ chuyên môn của từng trường hoặc cụm trường chuyên nghiệp kết hợp với GV tự nghiên cứu. (Xem tiếp trang 274) VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 270-274 274 đó được tính vào điểm giữa kì. Đối với những SV tích cực phát biểu ý kiến, trả lời tốt các nội dung, ngoài việc đánh giá điểm thái độ, có thể tăng thưởng thêm điểm giữa kì. Điều này sẽ phát huy được tính chủ động, tích của SV. 3. Kết luận Thế giới quan của SV là hệ thống các quan điểm của SV về thế giới và mối quan hệ của con người với thế giới. Hệ thống quan điểm này “dẫn lối, soi đường” cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của SV. Do đó, hình thành cho SV một thế giới quan duy vật biện chứng là vấn đề cần quan tâm không chỉ của nhà trường, mà còn của gia đình và xã hội. Hơn nữa, sự phức tạp của bối cảnh thời đại khiến SV khó xác lập được quan điểm đúng đắn để định hướng cho hoạt động của bản thân nếu không được trang bị chắc chắn thế giới quan khoa học. Để việc giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho SV Việt Nam gặt hái được thành công, giúp SV nắm vững và học được cách vận dụng sáng tạo những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động nhận thức và thực tiễn thì ngoài sự nỗ lực của GV bộ môn, rất cần có sự phối hợp đồng bộ và trợ giúp, quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, của các cấp ngành có liên quan và của toàn xã hội. Tài liệu tham khảo [1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2014). Kết luận số 94- KL/TW ngày 28/3/2014 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đổi mới việc học tập lí luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2014). Nghị quyết số 37/NQ-TW ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị về công tác lí luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030. [3] Akitốp (1985). Chủ nghĩa duy vật biện chứng. NXB Khoa học, Mátxcơva, tr 167. [4] Ngô Giang An (2012). Nghiên cứu biện pháp nâng cao hiệu quả tự học cho sinh viên trong mô hình đào tạo tín chỉ. Đề tài khoa học cấp trường, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên. [5] Aphanaxiep (1984). Những nguyên lí của chủ nghĩa cộng sản khoa học. NXB Tiến bộ, Moscow, tr 228. [6] Nguyễn Lương Bằng (2002). Đổi mới phương pháp giảng dạy lí luận Mác-Lênin ở các trường đại học hiện nay. Tạp chí Lí luận chính trị, số 7, tr 25-19. [7] Nguyễn Trọng Chuẩn (2008). Nâng cao nhận thức, bổ sung và phát triển triết học Mác-Lênin nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và của thời đại mở rộng giao lưu quốc tế. Tạp chí Triết học, số 9, tr 25-28. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC ĐÁNH GIÁ... (Tiếp theo trang 263) 3. Kết luận Bộ môn NNLCB của chủ nghĩa Mác-Lênin ở các trường đại học, cao đẳng có nhiệm vụ hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học và NL cần thiết cho SV, đây chính là “hành trang” để các em thực hiện nhiệm vụ ‘trồng người”. Do vậy, để nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn, GV cần kết hợp, vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học, cũng như tích cực sử dụng phương pháp kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận NL; đặc biệt phải đo được NL GQVĐ của SV - NL quan trọng để các em giải quyết những vấn đề thực tiễn của cuộc sống. Tài liệu tham khảo [1] J.D. Branford (1984). The ideal problem solving. Freeman, New York. [2] Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên, 2001). Quá trình Dạy - Tự học. NXB Giáo dục Việt Nam. [3] Từ Đức Thảo (2012). Rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh trong dạy học Hình học ở trường trung học phổ thông. Luận án tiến sĩ Khoa học Giáo dục, Trường Đại học Vinh. [4] Nguyễn Đức Minh (2012). Một số vấn đề về đánh giá theo kiến thức, kĩ năng và theo năng lực của học sinh. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, số 84/2012, tr 12-16. [5] Nguyễn Văn Cường (2005). Phát triển năng lực thông qua phương pháp và phương tiện dạy học mới. NXB Đại học Sư phạm. [6] Phạm Quốc Huy (2012). Đổi mới phương pháp giảng dạy môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin ở trường đại học nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của sinh viên. Tạp chí Giáo chức Việt Nam, số 8, tr 22-24. [7] Bộ GD-ĐT (2012). Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. NXB Đại học Sư phạm. [8] Lê Ngọc Sơn (2008). Dạy học Toán ở tiểu học theo hướng dạy học pháp hiện và giải quyết vấn đề. Luận án tiến sĩ Giáo dục học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. [9] Nguyễn Thị Minh Châu (2018). Phát triển năng lực giải quyết vấn đề trong dạy học môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, phần Kinh tế chính trị cho sinh viên. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt kì 2 tháng 5, tr 270-272; 257.
File đính kèm:
- co_so_li_luan_cua_viec_danh_gia_nang_luc_giai_quyet_van_de_c.pdf