Có phải học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là sai lầm?

Các quan điểm phủ định học thuyết

hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác

thường bắt đầu từ phủ định tính khách

quan của quy luật xã hội mà học thuyết

này phát hiện ra. Những người theo

quan điểm này cho rằng, học thuyết

hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác là

lỗi thời vì thực tiễn đã đổi thay, v.v.

Thực ra điều này không mới. C.Pốppơ

cũng đã từng bác bỏ học học thuyết

hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác

trong “Sự khốn cùng của chủ nghĩa lịch

sử”. Ông ta cho rằng, sự khái quát quy

luật phải dựa trên sự lặp đi lặp lại của

các sự kiện. Điều này chỉ có thể thực

hiện được trong khoa học tự nhiên,

nhưng không thể thực hiện trong khoa

học xã hội, vì xã hội vẫn đang trong

trạng thái sinh thành liên tục, chưa có

kết thúc. Hơn nữa, xã hội là kết quả của

vô số những cá nhân hoạt động vì lợi

ích của mình, với vô số quan hệ chằng

chịt và các sự kiện không thể dự đoán

trước. Cho nên, con người không thể

nắm bắt được trạng thái và xu hướng

vận động của xã hội, quy luật xã hội.

Để phản bác lại những quan điểm này,

chúng ta cần căn cứ vào lý luận, thực

tiễn và thực tế lịch sử.

pdf 9 trang kimcuc 7180
Bạn đang xem tài liệu "Có phải học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là sai lầm?", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Có phải học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là sai lầm?

Có phải học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là sai lầm?
 Có phải học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là sai lầm? 
 47 
CÓ PHẢI HỌC THUYẾT CỦA C.MÁC 
VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI LÀ SAI LẦM? 
TRẦN VĂN PHÒNG* 
Tóm tắt: Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau phủ định học thuyết hình 
thái kinh tế - xã hội của C.Mác, nhưng tựu chung lại những quan điểm này đều 
phủ định tính khách quan của quy luật xã hội, hoặc cho rằng thực tiễn đã đổi 
thay, nên học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác là sai lầm. Bằng các 
luận cứ về mặt lý luận, về mặt thực tiễn và về thực tế lịch sử, bài viết khẳng 
định tính đúng đắn của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác. 
Từ khóa: C.Mác, hình thái kinh tế - xã hội. 
Các quan điểm phủ định học thuyết 
hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác 
thường bắt đầu từ phủ định tính khách 
quan của quy luật xã hội mà học thuyết 
này phát hiện ra. Những người theo 
quan điểm này cho rằng, học thuyết 
hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác là 
lỗi thời vì thực tiễn đã đổi thay, v.v. 
Thực ra điều này không mới. C.Pốppơ 
cũng đã từng bác bỏ học học thuyết 
hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác 
trong “Sự khốn cùng của chủ nghĩa lịch 
sử”. Ông ta cho rằng, sự khái quát quy 
luật phải dựa trên sự lặp đi lặp lại của 
các sự kiện. Điều này chỉ có thể thực 
hiện được trong khoa học tự nhiên, 
nhưng không thể thực hiện trong khoa 
học xã hội, vì xã hội vẫn đang trong 
trạng thái sinh thành liên tục, chưa có 
kết thúc. Hơn nữa, xã hội là kết quả của 
vô số những cá nhân hoạt động vì lợi 
ích của mình, với vô số quan hệ chằng 
chịt và các sự kiện không thể dự đoán 
trước. Cho nên, con người không thể 
nắm bắt được trạng thái và xu hướng 
vận động của xã hội, quy luật xã hội. 
Để phản bác lại những quan điểm này, 
chúng ta cần căn cứ vào lý luận, thực 
tiễn và thực tế lịch sử. 
1. Căn cứ về mặt lý luận(*) 
Thứ nhất, các quy luật xã hội giống 
các quy luật tự nhiên cũng tồn tại khách 
quan và có thể được nhận thức bởi con 
người. Trước C.Mác, Hêghen đã đặt 
nhiệm vụ phát hiện ra quy luật xã hội, 
lịch sử; nhưng Hêghen đã không giải 
quyết được triệt để nhiệm vụ này. 
C.Mác đã giải quyết được nhiệm vụ này 
khoa học hơn, duy vật hơn, đúng đắn 
hơn so với Hêghen. Ph.Ăngghen trong 
“Chống Đuy-rinh” đã chỉ rõ: “Nền triết 
học mới của Đức đã đạt tới đỉnh cao của 
nó trong hệ thống của Hêghen, trong đó 
lần đầu tiên - và đây là công lao to lớn 
của ông - toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch 
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Học viện 
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8 (69) - 2013 
 48 
sử và tinh thần được trình bày như một 
quá trình, nghĩa là luôn luôn vận động, 
biến đổi, biến hóa và phát triển, và ông 
đã cố vạch ra mối liên hệ nội tại của sự 
vận động và sự phát triển ấy. Theo quan 
điểm ấy, lịch sử loài người đã không 
còn thể hiện ra là một mớ hỗn độn ghê 
gớm của những hành vi bạo lực vô 
nghĩa, đáng bị kết tội trước tòa án của lý 
tính triết học ngày nay đã trưởng thành, 
chẳng kém gì đáng phải quên đi cho thật 
nhanh; ngược lại nó là một quá trình 
phát triển của bản thân loài người, và 
nhiệm vụ của tư duy hiện nay là phải 
theo dõi bước tiến tuần tự của quá trình 
ấy qua tất cả những khúc quanh co của 
nó và chứng minh tính quy luật bên 
trong của nó qua tất cả những cái ngẫu 
nhiên bề ngoài”(1). Học thuyết hình thái 
kinh tế - xã hội của C.Mác dựa trên cơ 
sở các quan hệ kinh tế hiện thực, các 
mâu thuẫn hiện thực giữa lực lượng sản 
xuất và quan hệ sản xuất; giữa cơ sở hạ 
tầng và kiến trúc thượng tầng; giữa các 
giai cấp đối kháng nhau trong xã hội có 
đối kháng giai cấp của mỗi thời đại mà 
giải thích đời sống xã hội; từ đó đã tìm 
ra quy luật vận động khách quan của xã 
hội, lịch sử. Đây là cách tiếp cận hoàn 
toàn có căn cứ khoa học. Các quy luật tự 
nhiên và quy luật xã hội đều có cơ sở 
chung, đó là tính thống nhất vật chất 
của thế giới. Bản thân con người và xã 
hội loài người, xét đến cùng cũng chỉ là 
một bộ phận của thế giới tự nhiên. Tuy 
nhiên, xã hội là lĩnh vực tự nhiên đặc 
thù với hình thức vận động đặc biệt; hơn 
nữa các quy luật xã hội chỉ được hình 
thành, vận động, phát triển thông qua 
hoạt động thực tiễn của con người. Con 
người không tự tiện xóa bỏ được quy 
luật, nhưng thông qua hoạt động thực 
tiễn của mình có thể làm cho quy luật 
nhanh diễn ra hoặc chậm diễn ra hơn. Vì 
vậy, các quy luật xã hội khác quy luật tự 
nhiên ở chỗ, chúng mang tính xu hướng. 
Vì tính xu hướng đó cho nên việc nhận 
thức, kiểm nghiệm các quy luật xã hội 
khó khăn hơn so với các quy luật của tự 
nhiên. Nhưng như vậy không có nghĩa 
là con người không thể nhận thức được 
quy luật xã hội.(1) 
Thứ hai, quan điểm coi sản xuất vật 
chất là nền tảng của sự tồn tại và phát 
triển xã hội; biện chứng giữa lực lượng 
sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở 
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là nền 
tảng của sự vận động, phát triển xã hội 
là không hề sai lầm, lỗi thời. Thực tế 
lịch sử loài người đã chứng tỏ, sản xuất 
vật chất là phương thức tồn tại của xã 
hội loài người, không có sản xuất vật 
chất, xã hội loài người không thể tồn tại, 
vận động và phát triển được. Thông qua 
sản xuất vật chất, con người chinh phục 
tự nhiên, cải tạo xã hội, hoàn thiện bản 
thân. Cũng nhờ sản xuất vật chất mà xã 
hội loài người vận động, phát triển. Các 
quan điểm phủ định học thuyết hình thái 
kinh tế - xã hội của C.Mác cho rằng, sự 
phát triển của trí tuệ, khoa học, công 
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 
20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 39 - 40. 
 Có phải học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là sai lầm? 
 49 
nghệ, chứ không phải sản xuất vật chất, 
mới là tiêu chí, động lực cho sự vận 
động, phát triển của xã hội. Các quan 
điểm ấy là không toàn diện, không khoa 
học và thiếu cơ sở khách quan. Bởi lẽ, 
chính thực tiễn phát triển của lịch sử 
loài người cho thấy, không thể tách trí 
tuệ, khoa học, công nghệ ra khỏi sản 
xuất vật chất và thiếu sản xuất vật chất 
thì trí tuệ, khoa học, công nghệ không 
thể phát triển được, mặc dù chúng có 
đóng vai trò quan trọng. 
Thứ ba, những người bác bỏ học 
thuyết hình thái kinh tế - xã hội của 
C.Mác cho rằng, học thuyết này là một 
hình thức của thuyết quyết định luận 
lịch sử. Thực chất không phải vậy. Bởi 
lẽ, tính tất yếu của sự ra đời xã hội mới 
từ trong lòng xã hội cũ là do sự vận 
động của sản xuất vật chất, của mâu 
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan 
hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến 
trúc thượng tầng, v.v.; đặc biệt là do sự 
phát triển không ngừng của lực lượng 
sản xuất. Về điều này C.Mác đã viết: 
“Tới một giai đoạn phát triển nào đó của 
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất 
của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ 
sản xuất hiện có, hay đây chỉ là biểu 
hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất 
đó - mâu thuẫn với những quan hệ sở 
hữu, trong đó từ trước đến nay các lực 
lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là 
những hình thức phát triển của các lực 
lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở 
thành những xiềng xích của các lực 
lượng sản xuất, khi đó bắt đầu thời đại 
một cuộc cách mạng xã hội”(2). Tuy 
nhiên, cần lưu ý rằng: “Một sự thay đổi 
của các quan hệ sản xuất không thể đơn 
giản được giải thích bằng việc lực lượng 
sản xuất phát triển. Cũng không phải sự 
thay đổi mang tính đột phá trong lực 
lượng sản xuất nhất thiết đưa đến quan 
hệ sản xuất mới, như cuộc cách mạng 
công nghiệp đã chứng minh. Cùng một 
lực lượng sản xuất có thể tồn tại với 
những quan hệ xã hội khác nhau”(3). Sự 
khác biệt trong quan điểm của C.Mác 
với thuyết quyết định luận lịch sử đúng 
như Terry Eagleton nhận định: “C.Mác 
không cho rằng, tính tất yếu của chủ 
nghĩa xã hội nghĩa là tất cả chúng ta cứ 
việc ngủ yên”(4). Đồng thời, lý luận của 
C.Mác chỉ rõ rằng, chỉ có con người mới 
có khả năng tự làm ra lịch sử của mình 
một cách có ý thức. Trong Biện chứng 
của tự nhiên, Ph.Ăngghen đã từng 
khẳng định: “Con người càng cách xa 
con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này 
bao nhiêu thì con người lại càng tự mình 
làm ra lịch sử của mình một cách có ý 
thức bấy nhiêu; ảnh hưởng của những 
hậu quả không dự kiến trước, của những 
lực lượng không kiểm soát được, đối với 
lịch sử đó lại càng ít đi bấy nhiêu thì kết 
quả của lịch sử lại càng phù hợp một 
cách chính xác hơn bấy nhiêu với mục 
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 
13, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 15. 
(3) Terry Eagleton (2012), Tại sao Mác đúng? 
Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr. 59. 
(4) Terry Eagleton (2012) Tại sao Mác đúng? 
Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, tr. 63. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8 (69) - 2013 
 50 
đích đã xác định trước”(5). Tuy nhiên, 
C.Mác và Ph.Ăngghen không cho rằng 
con người có thể “tiên đoán” được mọi 
thứ ngay: “Nhưng nếu chúng ta đã phải 
trải qua hàng nghìn năm lao động mới 
có thể, trong một chừng mực nào đó, 
đánh giá trước được những hậu quả tự 
nhiên xa xôi của những hành động sản 
xuất của chúng ta, thì chúng ta lại càng 
phải trải qua nhiều khó khăn hơn nữa, 
mới có thể hiểu biết được những hậu 
quả xã hội xa xôi của những hành động 
ấy”(6). Quy luật xã hội vận động, biến 
đổi, phát triển phức tạp hơn quy luật tự 
nhiên. Bởi lẽ, quy luật xã hội phải thông 
qua hoạt động thực tiễn của con người 
mới bộc lộ, vận động, phát triển. Con 
người có ý thức, tình yêu, lòng căm thù, 
lợi ích, v.v.. Thông qua những lăng kính 
này, nhất là lợi ích và bằng hoạt động 
thực tiễn, con người có thể tác động đến 
quy luật xã hội. Tuy nhiên, không phải 
vì vậy mà con người không nhận thức 
được quy luật xã hội. Học thuyết hình 
thái kinh tế - xã hội của C.Mác chính là 
kết quả của tư duy khoa học để khái quát 
quy luật xã hội. Đúng như Ph.Ăngghen 
đã nhận định: “Nếu như chúng ta muốn 
đợi cho đến khi những tài liệu cần thiết 
cho quy luật trở nên thuần khiết thì như 
thế có nghĩa là tạm đình chỉ những sự tìm 
tòi của tư duy cho tới lúc đó, và như thế 
cũng đủ để cho chúng ta không bao giờ 
có được quy luật”(7). 
Thứ tư, học thuyết hình thái kinh tế - 
xã hội của C.Mác là khoa học còn bởi 
lẽ, C.Mác đã chọn đúng điểm xuất phát 
cho sự phát triển của xã hội là sản xuất 
vật chất, là trình độ của lực lượng sản 
xuất và cùng với lực lượng sản xuất là 
quan hệ sản xuất và toàn bộ kiến trúc 
thượng tầng. Bởi lẽ, sản xuất vật chất 
theo đúng nghĩa của nó, xét về bản chất, 
bao giờ cũng mang tính xã hội. Do vậy, 
khi nghiên cứu xã hội thì không thể chỉ 
nghiên cứu lực lượng sản xuất, mà còn 
phải nghiên cứu quan hệ sản xuất, quan 
hệ xã hội; phải chỉ ra trong các quan hệ 
xã hội chằng chịt ấy, quan hệ xã hội nào 
là chi phối. C.Mác đã tìm ra quan hệ sản 
xuất (quan hệ vật chất, quan hệ giữa 
người với người trong sản xuất vật chất) 
đóng vai trò chi phối và linh hồn của 
quan hệ sản xuất lại là quan hệ sở hữu 
về tư liệu sản xuất. Xuất phát từ quan hệ 
sản xuất này, C.Mác nghiên cứu kiến 
trúc thượng tầng - những quan điểm, 
những tư tưởng và các thiết chế xã hội 
(như đảng phái, nhà nước, giáo hội, hiệp 
hội, v.v.).(5)Như vậy, đây là phương 
pháp tiếp cận toàn diện, hệ thống, nhất 
quán theo một lôgíc nội tại đi từ sản 
xuất vật chất đến sản xuất tinh thần, từ 
đời sống kinh tế đến đời sống chính trị, 
từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản 
xuất, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc 
thượng tầng. Trong học thuyết của 
mình, C.Mác còn nhấn mạnh chiều tác 
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 
20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 476. 
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 
20, Nxb Chính trị Quốc gia, tr. 655 - 656. 
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 
20, Nxb Chính trị Quốc gia, tr. 733. 
 Có phải học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là sai lầm? 
 51 
động trở lại của sản xuất tinh thần đến 
sản xuất vật chất; của chính trị đối với 
kinh tế; của quan hệ sản xuất đến lực 
lượng sản xuất; của kiến trúc thượng tầng 
đến cơ sở hạ tầng. Rõ ràng, cách tiếp cận 
xã hội như vậy của C.Mác là biện chứng, 
khoa học, không thể là sai lầm. 
2. Căn cứ về mặt thực tiễn 
Thứ nhất, sự ra đời của chế độ phong 
kiến là do chính sự phát triển của kinh tế 
trong lòng chế độ chiếm hữu nô lệ quy 
định. Cụ thể là, khi chế độ chiếm hữu nô 
lệ đang lụi tàn xuất hiện một số chủ nô 
dân chủ, tiến bộ thay đổi cách quản lý 
kinh tế từ phương thức đánh đập, ép 
buộc nô lệ làm việc sang phương thức 
“khoán” sản phẩm trên một đơn vị đất 
canh tác. Chính phương thức “khoán” 
này đã làm nảy sinh địa tô - một nhân tố 
kinh tế quan trọng mở đường cho cách 
thức bóc lột địa tô phong kiến và 
phương thức sản xuất phong kiến ra đời. 
Thứ hai, sự ra đời của hình thái kinh 
tế - xã hội tư bản chủ nghĩa cũng là do 
nguyên nhân kinh tế từ trong lòng 
hình thái kinh tế - xã hội phong kiến. 
Ph.Ăngghen, trong Lutvích Phoiơbắc và 
sự cáo chung của triết học cổ điển Đức 
cũng chứng minh rõ, nguồn gốc và sự 
phát triển giai cấp tư sản và giai cấp vô 
sản là do nguyên nhân thuần túy kinh 
tế(8). Phương thức sản xuất tư bản chủ 
nghĩa cũng ra đời từ trong lòng phương 
thức sản xuất phong kiến. Chính bước 
chuyển từ thủ công nghiệp phường hội 
lên công trường thủ công, rồi từ công 
trường thủ công lên đại công nghiệp 
cùng sự phân công lao động và nhu cầu 
trao đổi do lực lượng sản xuất phát triển 
tạo ra đã trở nên không tương dung với 
những đặc quyền phong kiến. “Những 
lực lượng sản xuất, do giai cấp tư sản 
đại biểu, nổi dậy chống lại chế độ sản 
xuất do bọn chiếm hữu ruộng đất phong 
kiến và bọn trùm phường hội đại 
biểu”(9). Kết quả là, những xiềng xích 
phong kiến đã bị đập tan dù là dần dần 
như ở Anh hay một lần là xong như ở 
Pháp để nhường chỗ cho phương thức 
sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời. 
Thứ ba, ngay trong lòng của chủ 
nghĩa tư bản hiện đại đã xuất hiện các 
điều kiện, tiền đề kinh tế, vật chất chuẩn 
bị cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội. 
Các xí nghiệp, hợp tác xã tự quản của 
người lao động là một trong những 
phương thức phát triển theo định hướng 
xã hội chủ nghĩa. Các “công ty cổ phần 
dưới chủ nghĩa tư bản được C.Mác và 
Ph.Ăngghen xem là xu hướng xã hội 
hóa tư bản, là một trong những dữ kiện 
chứng minh tính tất yếu của chủ nghĩa 
xã hội”(10). Đây là một trong những tiền 
đề kinh tế quan trọng cho sự ra đời của 
phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. 
Thực tiễn phát triển của hình thái kinh tế 
- xã hội tư bản chủ nghĩa đã xác nhận lý 
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 
21, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 439. 
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen, (1995), Toàn tập, tập 
21, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 440. 
(10) Nguyễn Ngọc Long (chủ biên) (2010), Chủ 
nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai 
của chủ nghĩa xã hội hiện thực, Nxb Chính trị 
Quốc gia, Hà Nội, tr. 498. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8 (69) - 2013 
 52 
luận của C.Mác về mâu thuẫn cơ bản 
của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ 
nghĩa: mâu thuẫn giữa tính chất xã hội 
hóa của lực lượng sản xuất với tính chất 
tư nhân tư bản chủ nghĩa của quan hệ 
sản xuất. Chính mâu thuẫn này có vai 
trò như một động lực phát triển đưa loài 
người từ lao động thủ công với nền sản 
xuất phân tán, manh mún, tự cung, tự 
cấp lên lao động cơ khí trong nền kinh 
tế thị trường và giờ đây đang đưa con 
người lên trình độ lao động tri thức 
trong nền kinh tế tri thức. Đúng như 
C.Mác đã khẳng định: “Tri thức xã hội 
phổ biến (Wissen, knowledge) đã 
chuyển hóa đến mức độ nào thành lực 
lượng sản xuất trực tiếp,”(11). Thực tế 
cho thấy, kinh tế tư bản chủ nghĩa đang 
tiến tới giai đoạn kinh tế tri thức và cổ 
phần hóa phổ biến. Mâu thuẫn giữa tính 
chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất 
với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa 
của quan hệ sản xuất đã ở nấc thang 
buộc phải chuyển hướng phát triển 
phiến diện chạy theo lợi nhuận của nhà 
tư bản, gây ra những hậu quả về môi 
trường, xã hội quá sức chịu đựng sang 
hướng phát triển “đồng thuận” hơn giữa 
kinh tế với môi trường và xã hội. Sự 
phát triển của các lực lượng sản xuất tư 
bản chủ nghĩa cũng đưa đến sự biến đổi 
về sở hữu: “Từ sở hữu tư nhân tư bản sẽ 
chuyển hóa thành sở hữu xã hội (chứ 
không phải sở hữu nhà nước) và sở hữu 
cá nhân (chứ không phải sở hữu tư 
nhân) như một tất yếu kinh tế. Giai đoạn 
công ty cổ phần chính là mở đầu sự hình 
thành sở hữu xã hội với sở hữu cá nhân - 
thành quả kép của quá trình xã hội 
hóa”(12) lực lượng sản xuất. Đây cũng là 
sự phủ định biện chứng để tạo ra cơ sở, 
tiền đề cho phương thức sản xuất xã hội 
chủ nghĩa mới ra đời từ trong lòng chủ 
nghĩa tư bản. Điều này càng chứng tỏ 
những dự báo mà lý luận hình thái kinh 
tế - xã hội của C.Mác đưa ra là hoàn toàn 
khoa học, không hề sai lầm và lỗi thời. 
3. Căn cứ về mặt thực tế lịch sử 
Thứ nhất, học thuyết hình thái kinh tế 
- xã hội của C.Mác vẫn hoàn toàn đứng 
vững trước thực tế lịch sử phát triển 
hiện thực của các quốc gia dân tộc trên 
thế giới. Tính lịch sử trong sự vận động 
của các hình thái kinh tế - xã hội của 
C.Mác chỉ ra rằng, sự vận động của các 
hình thái kinh tế - xã hội diễn ra một 
cách khách quan nhưng gắn liền với 
những điều kiện lịch sử - cụ thể của 
từng quốc gia dân tộc. Nói khác đi, sự 
vận động của các hình thái kinh tế - xã 
hội mang tính khách quan - lịch sử và 
lịch sử - khách quan, chứ không đơn 
thuần chỉ là khách quan, hay chỉ là lịch 
sử thuần túy. Do các điều kiện lịch sử - 
văn hóa, truyền thống, chính trị, nên ở 
mỗi quốc gia sự vận động của các hình 
thái kinh tế - xã hội có thể diễn ra tuần 
tự từ thấp lên cao hoặc “bỏ qua” một 
hoặc vài hình thái kinh tế - xã hội trong 
trật tự phát triển của mình. Chẳng hạn, 
(11) C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 
46, phần II, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 
tr. 372 - 373. 
(12) Hoàng Chí Bảo (chủ biên), (2010), Bản chất 
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - 
Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 271. 
 Có phải học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là sai lầm? 
 53 
Autralia, các quốc gia Mỹ La tinh đều 
bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội phong 
kiến trong quá trình phát triển của mình. 
Việt Nam không trải qua hình thái kinh 
tế - xã hội chiếm hữu nô lệ và hình thái 
kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Việc 
các quốc gia này bỏ qua một hình thái 
kinh tế - xã hội nào đó không phụ thuộc 
vào ý muốn chủ quan của họ, mà do các 
điều kiện lịch sử khách quan quy định. 
Tính lịch sử còn thể hiện ở chỗ, trong 
cùng một thời đại, nhưng các quốc gia 
khác nhau có thể không ở cùng một hình 
thái kinh tế - xã hội như nhau. Hoặc 
trong cùng một hình thái kinh tế - xã 
hội, tính chất kinh tế - xã hội ở các quốc 
gia khác nhau cũng có sự khác nhau. 
Chẳng hạn, cùng hình thái kinh tế - xã 
hội phong kiến nhưng đặc trưng của 
hình thái kinh tế - xã hội phong kiến 
Châu Âu là phân quyền, còn đặc trưng 
của hình thái kinh tế - xã hội phong kiến 
phương Đông là tập quyền. Điều này 
không trái với tính khách quan của sự 
vận động của các hình thái kinh tế - xã 
hội. Bởi lẽ, việc “bỏ qua” một hay vài 
hình thái kinh tế - xã hội trong trật tự 
phát triển của một quốc gia nào đó, xét 
đến cùng, cũng do những điều kiện lịch 
sử - xã hội cụ thể quy định. Nghĩa là, 
tính lịch sử này cũng bị chi phối bởi tính 
khách quan, do điều kiện khách quan 
quy định. Rõ ràng việc “bỏ qua” một 
hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong 
trật tự phát triển của một quốc gia nào 
đó cũng không thể tùy tiện, mà phải 
tuân theo quy luật khách quan. 
Thứ hai, lý luận của C.Mác về con 
đường lịch sử - tự nhiên từ chủ nghĩa tư 
bản lên chủ nghĩa xã hội và lý luận về 
con đường phát triển rút ngắn lên chủ 
nghĩa xã hội của V.I.Lênin không hề 
mâu thuẫn nhau. Bởi lẽ, lý luận của 
C.Mác về con đường lịch sử - tự nhiên 
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội 
của các nước công nghiệp được C.Mác 
rút ra từ nghiên cứu kinh tế thị trường tư 
bản chủ nghĩa và lý luận về con đường 
phát triển rút ngắn của những nước 
chưa phát triển lên chủ nghĩa xã hội 
được V.I.Lênin rút ra từ thực tiễn nước 
Nga. Sở dĩ, có hai lý luận về hai con 
đường phát triển trên là vì C.Mác và 
V.I.Lênin nghiên cứu chủ nghĩa tư bản ở 
hai trạng thái phát triển lịch sử - cụ thể 
khác nhau, hai thực tiễn cụ thể khác 
nhau. Hơn nữa, bản thân con đường 
phát triển rút ngắn của V.I.Lênin cũng 
mang tính lịch sử - tự nhiên, nghĩa là 
cũng do những điều kiện khách quan 
quy định, không thể tùy tiện, chủ quan. 
Vì vậy, hai con đường phát triển này bổ 
sung cho nhau, làm giàu, làm phong phú 
lẫn nhau, làm điều kiện cho nhau. Như 
vậy là, học thuyết hình thái kinh tế - xã 
hội của C.Mác được V.I.Lênin bổ sung, 
làm giàu bằng thực tiễn mới. Điều đó 
chứng tỏ sức sống mới của học thuyết 
hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác. 
Thứ ba, do quy luật quan hệ sản xuất 
phù hợp với trình độ phát triển của lực 
lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng 
quyết định kiến trúc thượng tầng và các 
quy luật xã hội khác chỉ bộc lộ thông 
qua hoạt động thực tiễn của con người, 
nên chủ nghĩa tư bản hiện đại thông qua 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8 (69) - 2013 
 54 
hoạt động của mình đã có những điều 
chỉnh nhất định để những mâu thuẫn này 
tạm thời không trở nên gay gắt, nằm 
trong tầm kiểm soát của họ. Tuy nhiên, 
sự điều chỉnh này không thể là vĩnh 
viễn. Đúng là, công nhân hiện đại trong 
các nước tư bản hiện nay có thể mua cổ 
phiếu của các công ty. Tuy nhiên, việc 
mua cổ phiếu của công nhân chưa chứng 
minh được rằng, tính xã hội hóa của 
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã 
tương thích tính xã hội hóa của lực 
lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa, giữa 
lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa và 
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa 
không còn mâu thuẫn. Ngày nay, có 
nhiều người cho rằng, việc công nhân có 
cổ phiếu là chứng tỏ tính xã hội hóa cao 
của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa 
và tính “dân chủ hóa tư bản” của nền 
sản xuất tư bản hiện đại; công nhân bây 
giờ là những người đồng sở hữu với nhà 
tư bản; do vậy, ngày nay không thể nói 
công nhân bị bóc lột nữa. Quan điểm 
này hoàn toàn là ngụy biện. Bởi lẽ, 
người công nhân trong các nhà máy của 
nhà tư bản hiện nay tuy có cổ phiếu, 
nhưng với giá trị quá nhỏ bé của những 
cổ phiếu ấy, người công nhân không bao 
giờ có quyền tham gia quyết định quá 
trình sản xuất. Hơn nữa, cũng không 
phải tất cả công nhân hiện đại ở các 
nước tư bản chủ nghĩa đều có thể mua 
cổ phiếu. Ngay từ năm 1916, trong tác 
phẩm “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột 
cùng của chủ nghĩa tư bản”, V.I.Lênin 
đã chỉ ra rằng, việc cổ phần hóa công ty 
với những cổ phiếu giá thấp mà người 
lao động có thể mua được đang được 
“bọn ngụy biện tư sản và bọn cơ hội 
cũng tự xưng là những người “dân chủ - 
xã hội” đang hy vọng (hoặc đang quả 
quyết rằng chúng hy vọng) là sẽ dẫn đến 
chỗ “dân chủ hóa tư bản”, tăng cường 
vai trò và ý nghĩa của sản xuất nhỏ, v v., 
- thật ra chỉ là trong những phương pháp 
tăng thêm uy lực cho bọn đầu sỏ tài 
chính”(13). 
Như vậy, xét từ lý luận hay từ lịch sử 
và thực tiễn, thì học thuyết hình thái 
kinh tế - xã hội của C.Mác hiện tại 
không hề sai lầm, lỗi thời. 
Tài liệu tham khảo 
1. Hoàng chí Bảo (chủ biên) (2010), Bản 
chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa 
Mác - Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
2. Terry Eagleton (2012), Tại sao Mác 
đúng? Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 
3. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, 
tập 13, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
4. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, 
tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
5. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, 
tập 21, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
6. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, 
tập 46, phần II; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
7. V.I.Lênin (1985), Toàn tập, tập 27, Nxb 
Tiến Bộ Mátxcơva. 
8. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên) (2010), 
Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương 
lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực, Nxb Chính 
trị Quốc gia, Hà Nội. 
(13) V.I.Lênin (1985), Toàn tập, tập 27, Nxb 
Tiến Bộ Mátxcơva, tr. 439. 
 Có phải học thuyết của C.Mác về hình thái kinh tế - xã hội là sai lầm? 
 55 

File đính kèm:

  • pdfco_phai_hoc_thuyet_cua_c_mac_ve_hinh_thai_kinh_te_xa_hoi_la.pdf