Chuyển hóa pháp luật trong thời đại toàn cầu hóa và liên kết quốc tế, khu vực

Toàn cầu hoá và liên kết khu vực là những quá trình đặc trưng cho thời đại ngày nay.

Các quá trình đó làm thay đổi sự tương tác của hệ thống pháp luật của một quốc gia với pháp luật

quốc tế theo hướng bảo đảm tính trội của pháp luật quốc tế; đồng thời, toàn cầu hoá và khu vực

cũng hàng ngày hàng giờ kích thích sự xích lại gần nhau, sự tương tác của pháp luật quốc gia với

các hệ thống pháp luật khác. Bối cảnh đó đặt ra yêu cầu xác lập những cách thức chuyển hoá pháp

luật hướng tới việc xây dựng hệ thống pháp luật hiệu quả đối với nhu cầu phát triển của mỗi quốc

gia và nhu cầu liên kết quốc tế, khu vực.

pdf 9 trang kimcuc 5060
Bạn đang xem tài liệu "Chuyển hóa pháp luật trong thời đại toàn cầu hóa và liên kết quốc tế, khu vực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyển hóa pháp luật trong thời đại toàn cầu hóa và liên kết quốc tế, khu vực

Chuyển hóa pháp luật trong thời đại toàn cầu hóa và liên kết quốc tế, khu vực
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 85-93 
85 
Review Article 
Law Transformation in the Context Globalisation and 
International, Regional Integration 
Vu Thanh Ha* 
Immigration Deparment, 44-46 Tran Phu, Ba Dinh, Hanoi, Vietnam 
Received 25 November 2019 
Revised 15 December 2019; Accepted 19 December 2019 
Abstract: Globalisation and regional integration has become typical in this contemporary context. 
These processes have changed the interaction between a national legal system and the international 
one towards the dominance of international law. At the same time, globalisation and regional 
integration have increasingly stimulated the proximity and interaction of national laws with other 
legal systems. This special context requires to establish approaches of transforming laws towards 
building an effective legal system for each country’s development and integration internationally 
and regionally. 
Keywords: Legal Transplant, transformation, incorporation, implementation. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: vuthanhha1610@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4262 
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 85-93 
86 
Chuyển hóa pháp luật trong thời đại 
toàn cầu hóa và liên kết quốc tế, khu vực 
Vũ Thanh Hà* 
Cục Quản lý Xuất nhập cảnh, 44-46 Trần Phú, Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 25 tháng 11 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 15 tháng 12 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày19 tháng 12 năm 2019 
Tóm tắt: Toàn cầu hoá và liên kết khu vực là những quá trình đặc trưng cho thời đại ngày nay. 
Các quá trình đó làm thay đổi sự tương tác của hệ thống pháp luật của một quốc gia với pháp luật 
quốc tế theo hướng bảo đảm tính trội của pháp luật quốc tế; đồng thời, toàn cầu hoá và khu vực 
cũng hàng ngày hàng giờ kích thích sự xích lại gần nhau, sự tương tác của pháp luật quốc gia với 
các hệ thống pháp luật khác. Bối cảnh đó đặt ra yêu cầu xác lập những cách thức chuyển hoá pháp 
luật hướng tới việc xây dựng hệ thống pháp luật hiệu quả đối với nhu cầu phát triển của mỗi quốc 
gia và nhu cầu liên kết quốc tế, khu vực. 
Từ khóa: Chuyển hoá pháp luật, cấy ghép pháp luật, nội luật hoá, cơ chế thu hút, cơ chế áp dụng. 
1. Sự tương tác mới của pháp luật quốc gia 
với pháp luật quốc tế* 
Cơ sở lý luận và pháp lý của mối liên hệ pháp 
luật quốc gia - pháp luật quốc tế 
Kể từ khi hình thành hệ thống luật quốc tế 
thống nhất thì vấn đề về sự liên hệ và tương tác 
của nó với các hệ thống pháp luật quốc gia luôn 
luôn được đặt ra và quan điểm về vấn đề này 
cũng hết sức đa dạng và khác nhau. Tuy nhiên, 
nhìn chung lại thì đều tập trung ở hai trường 
phái với hai tên gọi đối lập nhau: trường phái 
nhất nguyên và trường phái nhị nguyên. 
________ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: vuthanhha1610@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4262 
Trường phái nhất nguyên quan niệm không 
có sự khác nhau giữa luật quốc gia và luật quốc 
tế mà đó chẳng qua là hai yếu tố của một hệ 
thống. Tuy nhiên, tính nhất nguyên đó cũng lại 
được phân hóa thành 2 loại. Một quan điểm coi 
luật quốc gia có tính trội so với luật quốc tế, 
còn quan điểm khác, ngược lại, coi tính trội đó 
thuộc về luật quốc tế. Dựa vào tư tưởng của G. 
Heghen về quyền tuyệt đối [1, tr.15-16] trường 
phái nhất nguyên suy luận rằng, Nhà nước - 
người đại diện cho quốc gia - có quyền đặt ra và 
sửa đổi mọi thứ luật lệ “trong và ngoài quốc 
gia”. Việc suy luận quyền tuyệt đối của Nhà 
nước theo hướng đặt cả các quan hệ quốc tế vào 
tầm quyết định của một quốc gia đã được coi là 
đồng nghĩa với việc xem thường trật tự pháp 
luật quốc tế và lịch sử đã và đang cho thấy 
V.T. Ha / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 85-93 
87 
những hệ lụy nguy hiểm của quan điểm đó. 
Quan điểm thứ hai của trường phái nhất nguyên 
mà đại diện là nhà luật học người Áo Hans 
Kelsen đặt luật quốc tế vào vị trí nổi trội so với 
luật của quốc gia. Trong hai tác phẩm nổi tiếng 
Lý thuyết thuần túy về pháp luật (1934) và Các 
nguyên tắc của Luật quốc tế (1952), H. Kelsen 
khẳng định mọi vấn đề trong nước đều là khách 
thể hiện tại hoặc tiềm tàng của luật quốc tế và 
do đó luật quốc tế đương nhiên có vai trò quyết 
định so với luật quốc gia [2, tr.368]. 
Trường phái nhị nguyên về mối quan hệ 
giữa Luật quốc tế và luật quốc gia cũng ra đời 
vào khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX đầu thế 
kỷ XX, cũng có khởi nguồn từ trường phái thực 
chứng pháp lý, tuy nhiên, quan niệm rằng, Luật 
quốc tế và Luật quốc gia là những hệ thống 
pháp luật riêng rẽ độc lập với nhau bởi chúng 
có khách thể điều chỉnh khác nhau: Luật quốc 
tế điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia, trong 
khi Luật của quốc gia điều chỉnh các vấn đề 
trong nước: giữa công dân với công dân, giữa 
Nhà nước với công dân của Nhà nước đó, 
không thể coi pháp luật quốc tế là công cụ để 
giải quyết các vấn đề nội tại của một quốc gia, 
luật của quốc gia không có hiệu lực trên phạm 
vi quốc tế, một Nhà nước không thể căn cứ vào 
pháp luật của mình trong việc giải quyết các 
vấn đề quốc tế [3, tr.152]. 
Học thuyết luật quốc tế hiện đại đặt cả luật 
quốc tế và luật của quốc gia vào trong một 
không gian pháp luật thống nhất, có đối tượng 
điều chỉnh, phạm vi ảnh hưởng và vai trò khác 
nhau nhưng hoàn toản có thể có sự tương tác, 
thâm nhập lẫn nhau giữa các quan điểm, 
nguyên tắc cũng như các chế định và quy phạm 
pháp luật. 
Nếu như pháp luật của quốc gia là kết quả 
của việc “đưa ý chí” của quốc gia đó lên thành 
luật thì pháp luật quốc tế là kết quả của sự tham 
vấn lẫn nhau, của sự thỏa thuận và thống nhất ý 
chí của các quốc gia với nhau. Vì vậy, một khi 
đã hình thành các nguyên tắc, các chế định và 
quy phạm của Luật quốc tế có vị trí chi phối đối 
với luật quốc gia trong mọi trường hợp có sự 
tương tác. Nguyên tắc tương tác đó đã được xác 
nhận tại Điều 27 Công ước Viên năm 1969 về 
Luật điều ước quốc tế (Vienna Convention on 
the Law of Treaties). Và đó chính là điều kiện 
cần thiết cho các quan hệ pháp lý quốc tế hiện 
đại và tiến bộ. Nội hàm của Nguyên tắc Pacta 
sunt servanda – một nguyên tắc nổi tiếng của 
luật quốc tế đã được xác định tại Công ước 
Viên năm 1969 với tính cách là nguyên tắc về 
hiệu lực của điều ước quốc tế. Điều kiện đầu 
tiên cho việc thực hiện nguyên tắc Pacta sunt 
servanda là quốc gia thành viên cần tạo dựng cơ 
chế thích hợp cho việc thực hiện các quy định 
của điều ước quốc tế. Theo đó, về mặt lý thuyết, 
có ba cơ chế phổ biến có thể áp dụng đối với 
quốc gia, gồm cơ chế chuyển hóa quy phạm 
luật quốc tế vào trong luật quốc gia 
(transformation), cơ chế thu hút điều ước quốc 
tế vào luật quốc gia (incorporation) và cơ chế 
áp dụng quy phạm luật quốc tế trong hoạt động 
thực tiện trong nước (implementation). 
Cơ chế chuyển hóa hay còn gọi là nội luật 
hóa cho kết quả là sự chuyển hóa tinh thần và 
nội dung của quy phạm luật quốc tế vào pháp 
luật quốc gia nhằm tạo ra một loại quan hệ pháp 
luật “trong nước” với các chủ thể pháp luật 
“trong nước”; kết quả là quy phạm luật quốc tế 
đã không còn tồn tại về mặt hình thức, mặc dù 
về nội dung có thể có sự giống nhau giữa quy 
phạm luật quốc tế ban đầu với quy phạm đã 
được chuyển hóa thành quy phạm pháp luật 
trong nước. Phương thức thực hiện việc chuyển 
hóa này phải là việc ban hành văn bản pháp luật 
của quốc gia. Chuyển hóa là để thực hiện cam 
kết trong điều ước quốc tế, nhưng phải trên cơ 
sở một “động tác” của Nhà nước có chủ quyền. 
Cơ chế chuyển hóa được diễn đạt bằng những 
cách khác nhau trong Hiến pháp của các nước 
tuân theo cơ chế này. Chẳng hạn, theo Hiến 
pháp các nước Bắc Âu thì các quy phạm pháp 
luật quốc tế được thừa nhận chung và các điều 
ước đã được ký kết không thể trở thành những 
quy định có hiệu lực trực tiếp để điều chỉnh các 
quan hệ mà phải được nội luật hóa vào nội dung 
của pháp luật trong nước. Vì vậy, trong quy 
trình lập pháp của các nước này đã hình thành 
một quy trình lập pháp như sau: cùng với việc 
chuẩn bị ký kết một điều ước quốc tế thì cơ 
quan soạn thảo của Chính phủ đệ trình Quốc 
V.T. Ha / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 85-93 
88 
hội một dự án luật, theo đó dự kiến sẽ nội luật 
hóa điều ước này sau khi nó được ký kết. Hiến 
pháp Israel (Đ.108), Cộng hòa Nam Phi 
(Đ.112) cũng có quy định tương tự, rằng một 
điều ước quốc tế chỉ có thể điều chỉnh các quan 
hệ trong nước sau khi được nội luật hóa. 
Ưu điểm của cơ chế chuyển hóa nội dung 
và tinh thần của pháp luật quốc tế vào luật quốc 
gia là sự khẳng định rõ ràng về chủ quyền lập 
pháp của quốc gia. Đồng thời, cơ chế đó không 
dẫn đến xung đột giữa quy phạm của pháp luật 
trong nước với quy phạm của Điều ước quốc tế 
bởi nó đã được xem xét kỹ trong quá trình nội 
luật hóa. Tuy nhiên, nhiều ý kiến của các 
chuyên gia pháp luật quốc tế cho rằng, trong 
điều kiện thay đổi nhanh chóng của các vấn đề 
quốc tế và cường độ của sự hội nhập quốc tế 
giữa các quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa và 
khu vực hóa, cơ chế này đã bộc lộ những hạn 
chế của nó bởi cần đến một quy trình chuyển 
quy phạm luật quốc tế vào nguồn của pháp luật 
trong nước theo các thủ tục của việc nội luật 
hóa như đã nêu ở trên. Theo các chuyên gia 
này, nếu nói về chủ quyền thì phải chăng gia 
nhập điều ước quốc tế, chấp nhận các cam kết 
và điều kiện của điều ước đó đã chính là biểu 
hiện không thể tranh cãi của chủ quyền lập 
pháp quốc gia [4, tr.152]. 
Cơ chế thu hút (incorporation) xác định 
rằng, các quy phạm luật quốc tế có thể tự động 
trở thành một phần của pháp luật quốc gia mà 
không cần bất kỳ một động tác lập pháp nào 
của cơ quan có thẩm quyền tương ứng của quốc 
gia đó. Như vậy, thu hút đồng nghĩa với việc 
coi Điều ước quốc tế là nguồn pháp luật trực 
tiếp của quốc. Việc xác lập cơ chế thu hút được 
thực hiện bằng quy định hoặc ở tầm Hiến pháp, 
hoặc ở tầm một đạo luật. Về mặt lịch sử, cơ chế 
này hình thành từ khá sớm trên cơ sở thực tiễn 
xét xử của các Tòa án nước Anh vào các thế kỷ 
XVIII-XIX khi chủ trương coi các quy phạm 
tập quán quốc tế là một phần của Thông luật và 
đương nhiên được áp dụng trong quá trình xét 
xử các vụ việc trong nước [5, tr.242]. Hoa Kỳ 
đã ngay lập tức vận dụng cơ chế này cho hệ 
thống pháp luật của mình thông qua điều khoản 
được gọi là “điều khoản tối thượng” 
(Superemacy Clause) của Hiến pháp năm 1787: 
“Bản Hiến pháp này nhằm thực thi Hiến pháp 
của Hoa Kỳ, cũng như các điều ước mà chính 
quyền Hoa Kỳ đã và sẽ ký kết, là pháp luật cao 
nhất của đất nước, và do vậy, các Thẩm phán 
tại mỗi tiểu bang có nghĩa vụ thực hiện quy 
định này kể cả khi Hiến pháp hoặc pháp luật ở 
tiểu bang có những quy định trái và khác” 
(Điều VI phần 2 Hiến pháp Hoa Kỳ) [6, tr.72]. 
Hiến pháp nhiều nước khác như CHLB Đức, 
Tây Ban Nha, Pháp, Hà Lan, Thụy Sỹ, Nhật 
Bản, Ai Cập, Argentina v.v.. cũng quy định 
theo hướng này. 
Hiến pháp năm 1993 của Liên bang Nga 
(Khoản 4 Điều 15) còn xác định một nguyên tắc 
có tính khái quát cao hơn: “Các nguyên tắc và 
các quy phạm luật quốc tế được thừa nhận 
chung và các điều ước quốc tế của LB Nga là 
một phần của hệ thống pháp luật. Nếu điều ước 
quốc tế của LB Nga có quy định khác với quy 
định của pháp luật thì áp dụng quy định của 
điều ước quốc tế”. Điều khác biệt được cho là 
“đi xa hơn” ở đây chính là hai yếu tố mà Hiến 
pháp LB Nga quy định. Thứ nhất, đó không chỉ 
là các điều ước quốc tế của LB Nga (tức là 
những điều ước quốc tế mà LB Nga tham gia) 
mà còn là các nguyên tắc pháp luật quốc tế, các 
quy phạm luật quốc tế được thừa nhận chung; 
thứ hai, những yếu tố quốc tế đó, theo Hiến 
pháp, không chỉ đơn thuần được đưa vào các 
văn bản pháp luật của Nhà nước Nga mà đương 
nhiên là “một phần của hệ thống pháp luật”. 
Quy định như vậy đã chỉ rõ, cũng như nhiều 
nước đã nêu ở trên, LB Nga đã chọn con đường 
thu hút pháp luật quốc tế. 
Đi xa hơn Hiến pháp LB Nga là Hiến pháp 
các nước như Áo (Đ.9), Hungari (Đ.7), Ireland 
(Đ.29), Estonia (Đ.3), Somali (Đ.19), 
Uzbekistan (Lời nói đầu), theo đó, không chỉ 
các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật quốc tế 
được thừa nhận chung và các điều ước của các 
quốc gia đó mà các tập quán quốc tế cũng có 
tính trội so với luật trong nước. 
Những trường hợp vừa nêu trên đây có thể 
được diễn giải theo một cách khái quát rằng, 
bằng cách coi các yếu tố của luật pháp quốc tế 
mà chủ yếu là các điều ước mà các quốc gia 
V.T. Ha / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 85-93 
89 
tham gia, kế đó là các nguyên tắc, các quy 
phạm luật quốc tế “được thừa nhận chung” 
hoặc kể cả các tập quán quốc tế, là một phần 
của hệ thống pháp luật của quốc gia; các quốc 
gia đó đã làm cho các yếu tố của luật pháp quốc 
tế có hiệu lực điều chỉnh trực tiếp đối với các 
quan hệ xã hội tương ứng phát sinh trong lãnh 
thổ của mình mà không cần bất kỳ một động tác 
lập pháp nào khác, ngoại trừ việc phê chuẩn 
điều ước đã được ký kết. 
Cơ chế áp dụng pháp luật quốc tế 
(Implementation) không nhằm “hóa thân” quy 
phạm luật quốc tế vào trong phạm vi luật trong 
nước thông qua việc coi các điều ước quốc tế là 
“một phần” của hệ thống pháp luật quốc gia mà 
đặt ra vấn đề về sự công nhận hiệu lực của quy 
phạm đó và tổ chức thực hiện nó. Nói cách 
khác, đây là một hệ thống các giải pháp thực 
tiễn với mục đích rất rõ ràng là để thực hiện 
các cam kết quốc tế hoặc các quy phạm khác 
của luật quốc tế mà không hề làm thay đổi bản 
chất, nội dung của quy phạm đó. Văn bản duy 
nhất mà quốc gia có thể ban hành trong trường 
hợp này là văn bản công nhận hiệu lực của điều 
ước và đề ra những giải pháp nhằm thực hiện 
điều ước quốc tế. Với nghĩa đó, quy phạm của 
điều ước quốc tế về bản chất vẫn tiếp tục là quy 
phạm luật quốc tế, không chuyển hóa thành yếu 
tố của luật trong nước mà chỉ là vấn đề thực 
hiện nó khi quốc gia có đầy đủ những điều kiện 
cần thiết để áp dụng trong thực tế. 
Cơ chế thu hút và cơ chế áp dụng đòi hỏi 
làm rõ hai loại điều ước quốc tế là điều ước áp 
dụng trực tiếp và điều ước không áp dụng trực 
tiếp. Việc phân biệt này là cần thiết, xuất phát 
từ nhu cầu của việc tôn trọng luật pháp quốc tế 
và từ đó, các quốc gia phải bằng những nỗ lực 
cần thiết đưa vào trong hệ thống pháp luật của 
mình các quy phạm của luật quốc tế. Bởi lẽ, 
những cơ chế vừa nêu trên đây trong việc 
chuyển quy phạm của điều ước quốc tế vào luật 
quốc gia chỉ có thể được thực hiện trong thực 
tiễn khi các cơ quan áp dụng pháp luật trong 
nước biết rõ quy phạm của điều ước nào phù 
hợp cho cơ chế nào. 
Tại các nước theo hệ thống luật lục địa, 
theo cách mà Tòa án châu Âu sử dụng, thường 
có các khái niệm như “áp dụng trực tiếp” 
(direct application); “hiệu lực trực tiếp” (direct 
effect), “có khả năng áp dụng trực tiếp” (direct 
applicability), hoặc “có hiệu lực đối với mọi đối 
tượng” (binding on all persons). Đó là những 
khái niệm để chỉ những điều ước được áp dụng 
trực tiếp. Trong khi đó, các nước thuộc hệ 
thống Thông luật thường chỉ sử dụng từ ngữ 
“hợp nhất” (incorporation) để chỉ trường hợp 
áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế và từ ngữ 
“chuyển hóa” (transformation) để chỉ trư ...  
pháp luật quốc gia thì đó là quá trình mỗi quốc 
gia kiếm tìm cho mình một cách có chủ đích 
những cách thức điều chỉnh pháp luật tốt nhất 
của các quốc gia khác đối với các vấn đề của 
quá trình phát triển kinh tế xã hội, chính trị, văn 
hóa; không chỉ nhằm bảo đảm nhu cầu của quá 
trình liên kết kinh tế mà còn nhằm điều chỉnh 
có hiệu quả của những vấn đề trong nước. Bởi 
V.T. Ha / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 85-93 
90 
trong quá trình toàn cầu hóa và liên kết đa 
phương thì cái gọi là “biên giới pháp lý quốc 
gia” càng ngày càng giảm vai trò do sự cần thiết 
của chính các quốc gia phải cùng nhau tìm 
kiếm, xác lập những quy chuẩn hành vi chung 
trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và 
từ đó mà bước vào sân chơi quốc tế chung. 
Trong lý luận pháp luật hiện đại, quá trình 
tương tác, ảnh hưởng và tiếp nhận lẫn nhau 
giữa các hệ thống pháp luật được gọi là quá 
trình chuyển hóa pháp luật (legal transplant). 
Một số khái niệm đồng nghĩa cũng được sử 
dụng với một vài sự khác nhau không lớn, gồm 
các từ ngữ như “du nhập pháp luật”, “cấy ghép 
pháp luật”, “tham khảo luật nước ngoài” v.v 
Có thể nói một cách khái quát nhất rằng chuyển 
hóa pháp luật là quá trình chuyển hóa một 
chính sách pháp luật, hay một khái niệm, ý 
tưởng pháp luật, quy phạm pháp luật, chế định 
pháp luật cũng như các giải pháp lập pháp hay 
áp dụng pháp luật từ một hệ thống pháp lý này 
sang một hệ thống pháp lý khác. 
Lịch sử chuyển hóa pháp luật trên thế giới 
diễn ra theo hai kênh khác nhau, nếu xét từ góc 
độ ý chí của “bên chuyển” và “bên nhận” pháp 
luật. Đó là “chuyển hóa áp đặt” và “chuyển hóa 
tự nguyện”. Về chuyển hóa áp đặt, các nhà 
nghiên cứu phương Tây thường nêu ví dụ về sự 
áp đặt pháp luật của người Norman ở Anh bắt 
đầu từ thời trị vì của Hoàng đế người Norman 
William Đệ Nhất (1066-1087) với sự hình 
thành hệ thống Thông luật (Common Law) [8, 
tr.3], trường hợp tiếp nhận Bộ luật Dân sự Pháp 
năm 1804 ở một vùng rộng lớn các quốc gia 
châu Âu trong suốt thế kỷ XIX cũng được gắn 
với cuộc chinh phục của quân đội Napoleon [9] 
về phía Đông châu Âu nhất là các quốc gia như 
Bỉ, Luxemburg, Hà Lan, phần tả sông Rhein 
của nước Đức, một số vùng đất của Italia [10, 
tr.47]. Sự ra đời của các bộ luật dân sự ở Việt 
Nam vào những năm 20-30 của thế kỷ XX cũng 
nằm trong quỹ đạo của quá trình khai thác 
thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam. Như 
vậy, sự áp đặt pháp luật đã diễn ra cùng với các 
yếu tố như các cuộc chinh phục, quá trình thực 
dân hóa và chiếm đóng lãnh thổ. Sự chuyển hóa 
có tính áp đặt bao giờ cũng xuất phát từ mục 
đích và lợi ích của bên chuyển, cho dù quá 
trình tiếp theo sau đó có thể đã diễn ra trong 
sự cọ xát giữa các nền văn hóa và tập quán 
khác nhau. 
Chuyển hóa tự nguyện, như tên gọi của nó, 
là sự “trao” và “nhận” pháp luật một cách tự 
nguyện, trước hết là sự tự nguyện của nền tài 
phán nhận, theo đó, nền tài phán “chuyển” đã 
chứng tỏ được uy tín và những tính chất vượt 
trội hoặc đại diện cho những nền kinh tế, chính 
trị, xã hội mà “bên nhận” cho là đáng học hỏi. 
Vì vậy, tác giả Norbert Reich – giáo sư trường 
Đại học Luật Breman, CHLB Đức, đã hết sức 
có lý khi gọi “chuyển hóa pháp luật là một 
phạm trù của sự học hỏi và thay đổi” [11, tr.44], 
xuất phát từ nhu cầu của bên nhận trong việc 
cải cách, sửa đổi pháp luật nhằm thúc đẩy 
những chuyển biến về kinh tế, xã hội, tìm kiếm 
các giải pháp cho những vấn đề trong nước. Ví 
dụ về sự tiếp nhận pháp luật một cách căn bản, 
có hệ thống nhất và thành công nhất là sự du 
nhập pháp luật phương Tây, trong đó có hai bộ 
luật chủ đạo nhất là Bộ luật dân sự Pháp năm 
1804 và Bộ luật dân sự Đức năm 1896 tại Nhật 
Bản trong thời Minh Trị kể từ những năm cuối 
thế kỷ XIX [12, tr.56-62]. Trong thời đại ngày 
nay, ví dụ về sự chuyển hóa pháp luật thành 
công và mang lại hiệu quả cao về kinh tế, chính 
trị, văn hóa, xã hội là quá trình hình thành và 
phát triển không gian pháp luật của Liên minh 
châu Âu. Sự thành công này chứng tỏ tính hữu 
dụng của việc chuyển hóa pháp luật trong quá 
trình cải cách pháp luật. 
Mặc dù vậy, trong các giới nghiên cứu pháp 
luật vẫn tồn tại hai luồng quan điểm khác biệt 
nhau về tính khả thi của chuyển hóa pháp luật. 
Một số ý kiến cho rằng, chuyển hóa pháp luật là 
điều hoàn toàn cần thiết và khả thi, một số 
khác, ngược lại, xem đó là điều không thể và 
thậm chí là vô nghĩa, là độc hại! Tuy nhiên, 
những ý kiến bi quan và cực đoan như trên 
không phổ biến trong giới nghiên cứu luật học 
so sánh. Ngược lại với quan điểm đó là quan 
điểm khẳng định rằng, chuyển hóa pháp luật là 
điều “đặc biệt phổ biến” cả trong lịch sử và cả 
trong thời đại ngày nay. Theo Alan Watson, nhà 
nghiên cứu lịch sử pháp luật và luật so sánh nổi 
V.T. Ha / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 85-93 
91 
tiếng người Scotland thì “vay mượn, cấy ghép 
pháp luật nước ngoài là nguồn chủ yếu nhất 
của sự phát triển pháp luật” và “những thay đổi 
chủ yếu nhất của các hệ thống pháp luật đều là 
sản phẩm của sự vay mượn pháp luật” [13, 
tr.95]. A.Watson còn cho rằng, trong luật tư thì 
“cho dù là nguồn gốc lịch sử của các quy định, 
chế định pháp luật ấy có như thế nào thì nhiều 
quy định có thể tồn tại mà không cần có bất kỳ 
một sự liên hệ gần gũi mang tính dân tộc nào, 
một thời gian hay địa điểm nào” [14]. 
Nhiều nhà nghiên cứu và chuyên gia pháp 
luật cho rằng sự khác biệt của các hệ thống 
pháp luật là động lực quan trọng cho việc tìm 
kiếm và vay mượn pháp luật. Thậm chí họ còn 
khẳng định rằng, chỉ có khác biệt mới giúp có 
được những bài học và dễ truyền cảm hứng học 
hỏi [15, tr.16]. Giáo sư Alan Watson cho rằng, 
“có thể vay mượn mọi thứ từ bất cứ đâu” [16, 
tr.80]. Ông cho rằng, điều quan trọng ở đây 
không phải là sự tương đồng hay khác biệt giữa 
các hệ thống pháp luật mà là tính hữu dụng của 
quy phạm hay chế định được chuyển đổi và tiếp 
nhận, đặc biệt là trong thời đại toàn cầu hóa, khi 
mà những vấn đề chung của nhiều quốc gia đòi 
hỏi tìm kiếm kịp thời những quy tắc pháp lý 
cho nhiều vấn đề mới nảy sinh, chưa có tiền lệ. 
Nhiều ý kiến khác cũng đã lập luận cho yếu tố 
“tính hữu dụng”. Việc tiếp nhận pháp luật nước 
ngoài không phải là vấn đề có tính dân tộc mà 
là vấn đề về tính hữu dụng và nhu cầu, khả 
năng áp dụng những giải pháp đã có sẵn với kết 
quả đã được chứng minh ở một nơi nào đó 
trong các hệ thống pháp luật tương tự hoặc khác 
biệt [17]. Những quy định trong các hệ thống 
pháp luật khác nhau có thể được nghiên cứu 
tiếp thu nếu chúng có cùng chức năng, hoặc 
nói cách khác, các hệ thống pháp luật có thể 
vay mượn từ nhau cho dù giữa các quốc gia 
có thể có nhiều điểm khác nhau, miễn là 
những quy định pháp luật đó cùng xử lý một 
vấn đề. Một ví dụ rõ nhất là việc nhiều quốc 
gia đã tham khảo và tiếp nhận nội hàm khái 
niệm “rửa tiền” do Liên hợp quốc và Liên 
minh châu Âu đưa ra bởi khái niệm đó liên 
quan đến những hành vi rửa tiền phổ biến ở 
nhiều quốc gia [18, tr.28-29]. 
2.2. Những yếu tố của pháp luật có thể chuyển hóa 
Chuyển hóa, tiếp nhận các thuật ngữ, khái 
niệm pháp lý là hình thức chuyển hóa pháp luật 
ở mức cụ thể thường thấy trong hoạt động lập 
pháp và áp dụng pháp luật của các nước. Chẳng 
hạn, khái niệm rửa tiền đã được pháp luật nhiều 
nước tiếp nhận từ Liên minh châu Âu, về sau 
được Liên hợp quốc sử dụng và bổ sung trên cơ 
sở kinh nghiệm của Hoa Kỳ trong đấu tranh với 
các tội phạm tổ chức. 
Ở mức độ cao hơn so với việc chuyển hóa 
và tiếp nhận các khái niệm pháp lý là chuyển 
hóa và tiếp nhận các chế định pháp luật. Chẳng 
hạn, trước năm 1986 Ấn Độ không hề có chế 
định bảo vệ người tiêu dùng. Trong bối cảnh 
đó, khi có những vụ việc liên quan đến quyền 
lợi người tiêu dùng thì các thẩm phán Ấn Độ - 
nước theo truyền thống Thông luật của Anh – 
đã chỉ dựa vào khái niệm chung về công lý, 
công bằng và lương tâm (Justice, equity and 
good conscience), nhưng trong nhiều trường 
hợp thì điều đó không đủ để giải quyết những 
tranh chấp phức tạp ngày một tăng ở Ấn Độ 
nhất là các tranh chấp của người tiêu dùng 
bình dân. Trước sức ép của người tiêu dùng 
đã trở thành một phong trào rộng lớn, Quốc 
hội Ấn độ đã ban hành Luật bảo vệ người tiêu 
dùng vào năm 1986 dựa trên việc tiếp nhận 
chế định này từ pháp luật của Liên minh châu 
Âu và vay mượn một số khái niệm từ mô hình 
bảo vệ người tiêu dùng của Mỹ, nhằm khắc 
phục những thiếu hụt do áp dụng thông luật 
[19, tr.187]. 
Chuyển hóa và tiếp nhận các loại nguồn 
pháp luật thường được thực hiện ở tầm các hệ 
thống pháp luật lớn trên thế giới. Nói khác đi, 
pháp luật của các quốc gia thuộc truyền thống 
Luật lục địa, Thông luật và Luật Hồi giáo đã có 
sự thay đổi lớn trong cách nhìn nhận, đánh giá 
vai trò của các nguồn luật được áp dụng rộng 
rãi và có hiệu quả tại các quốc gia khác truyền 
thống. Từ đó, chúng ta có thể hiểu việc các 
V.T. Ha / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 85-93 
92 
quốc gia thuộc hệ thống luật lục địa đã thừa 
nhận và áp dụng rộng rãi hơn Án lệ của Tòa án 
vốn là nguồn pháp luật chủ đạo của hệ thống 
Thông luật. Do vậy, hàng năm tại các quốc gia 
châu Âu như Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Italia một 
khối lượng lớn các tập án lệ được ban hành. 
Các nước châu Âu đều đồng nhất quan điểm 
pháp lý về giá trị bắt buộc áp dụng phán quyết 
của Tòa án Hiến pháp đối với các Tòa án [20, 
tr.132-186]. Ngược lại, các nước thuộc truyền 
thống Thông luật cũng đã quen dần và ban hành 
ngày càng nhiều hơn các văn bản pháp luật 
trước nhu cầu của chính quốc gia mình cũng 
như nhu cầu áp dụng pháp luật trong liên kết 
kinh tế, giải quyết các vấn đề chung toàn cầu và 
khu vực. Chẳng hạn, ở Anh, quốc gia đặc trưng 
của hệ thống Thông luật, Nghị viện đã ngày 
càng coi trọng hơn việc ban hành các đạo luật 
nhằm lấp những “lỗ hổng” của Thông luật, với 
tên gọi là Disabling Acts hoặc để bổ sung, bãi 
bỏ một nội dung nào đó của Thông luật 
(Enabling Acts), nhất là để điều chỉnh các lĩnh 
vực cần nhiều hơn sự can dự và vai trò ngày 
càng tăng của Nhà nước như lĩnh vực chính 
sách xã hội, y tế, khoa học công nghệ, giáo 
dục Nếu nhìn vào hệ thống pháp luật của 
nước Anh ngày nay, chúng ta có thể thấy sự ra 
đời các văn bản pháp luật của Nhà nước nhiều 
hơn bao giờ hết [21, tr.86-89]. 
Chuyển hóa, tiếp thu kinh nghiệm trong 
cách giải thích pháp luật, kinh nghiệm xét xử là 
cách mà các thiết chế tài phán thường hay sử 
dụng và đó chắc chắn cũng là một cách chuyển 
hóa pháp luật thực tế nhất mà nhiều khi chưa 
cần đến chuyển hóa các quy phạm hay các chế 
định pháp luật. Tác giả Cyril Mathias Vincent 
cho biết, khi chưa ban hành vào năm 1986 Luật 
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các Thẩm 
phán Ấn Độ đã không thể “xoay xở” trong 
khuôn khổ của các phạm trù của Thông luật về 
“công lý, công bằng và lương tâm” khi giải 
quyết các vụ việc tranh chấp và đã phải dẫn 
chiếu tới kinh nghiệm xét xử từ các nước thuộc 
hệ thống luật lục địa về bảo vệ quyền lợi người 
tiêu dùng [22, tr.401-478]. 
3. Kết luận 
Trong quá trình toàn cầu hóa sự tiếp nhận 
và chuyển hóa lẫn nhau giữa pháp luật của các 
quốc gia diễn ra với một cường độ lớn dưới ảnh 
hưởng của sự hợp tác và liên kết với 
 Những hình thức khác nhau. Quá trình này 
đến lượt nó tác động đến các quy phạm, chế 
định làm mới cấu trúc các nguồn luật, làm thay 
đổi nhận thức về pháp luật, làm xuất hiện 
những khái niệm pháp lý mới, những chế định 
pháp luật mới trong mỗi hệ thống pháp luật. 
Toàn cầu hóa làm thay đổi nội dung, 
phương thức và mục tiêu tương tác giữa pháp 
luật quốc tế và pháp luật quốc gia trong quá 
trình cùng điều chỉnh các vấn đề pháp lý toàn 
cầu trên cơ sở nguyên tắc về tính trội của pháp 
luật quốc tế. 
Pháp luật của mỗi quốc gia cần thích nghi 
và thay đổi nhanh nhạy với những vấn đề toàn 
cầu, phù hợp dễ hơn và tiếp nhận các yếu tố của 
hệ thống pháp luật khác trong bối cảnh liên kết, 
hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau trong thời đại 
toàn cầu hóa. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Houlgate Stephen, The Opening of Hegel’s Logic: 
From Being to Infinity, Purdue University Press, 
2005. 
[2] Jabloner, Clemens, Hans Kelsen and His Cicle: 
The Viennese Years, European Journal of 
International Law, 1998. 
[3] M.N. Shaw, International Law, Fourth Edition, 
Cambridge, 1997, P.105, Bederman D.J., 
International Law Framework, New York, 2001. 
[4] D.J. Bederman, International Law Framework, 
New York, 2001. 
[5] T. Ingham, The English Legal Process, 
Blackstone Press, 1996. 
[6] E. Allan Farnsworth, Introduction to the Legal 
System of the United States, Oceana – London – 
Rome – New York, 2nd ed., 1991. 
[7] J. Winter, Direct Applicability and Direct Effect: 
Two Distinct and Different Concepts in 
Community Law, Common Market Law Review, 
Vol.9, 1972. 
[8] A.R. Kiralfy, The English Legal System. 7th ed., 
London: Sweet and Maxwell, 1984. 
V.T. Ha / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 85-93 
93 
[9] Amos, The Code Napoleon and the Modern 
World 10 J. Comp. leg. 222, 1928. 
[10] Norbert Reich, Theoretical Issues on Legal 
Transplant: Theories, Phenomena, Trends and 
Relevant Factors, Challenges and Practices of 
Legal Transplants in Vietnam: Sharing European 
Experience, Hong Duc Publishing House, Hanoi 
2016. 
[11] Norbert Reich, Theoretical Issues on Legal 
Transplant: Theories, Phenomena, Trends and 
Relevant Factors, Challenges and Practices of 
Legal Transplants in Vietnam: Sharing European 
Experience, Hong Duc Publishing House, Hanoi 
2016. 
[12] A. Mehren, Law in Japan – The Legal Order in a 
Changing Society, 1963; Kichisaburo Nakamura, 
The Formation of Modern Japan, Honolulu, East 
West Press Center, 1964. 
[13] Alan Watson, Legal Transplants: An Approach to 
Comparative Law, 2nd ed, Athens, GA: University 
of Georgia Press, 1993. 
[14] Alan Watson, Legal Transplants and European 
Private Law, in Commune Lecture on European 
Private Law, No.2. 
[15] JWF Allison, A Continental Distinction in the 
Common Law: A Historical and Comparative 
Perspective on English Public Law, 1996, 
Clarendon Press, Oxford. 
[16] Alan Watson, Legal Transplants and Legal 
Reform, 92 ,1976, LQR 79. 
[17] L.A. Mistelis, Regulatory Aspects: Globalization, 
Harmonization, Legal Transplants, and Law 
Reform – Some Fundatmental Observations, No, 
34, International Lawyer, 2000. 
[18] C.J.P. van Laer, Comparative Concepts and 
Connective Integration, Fifth Benelux - 
Scandinavian Conference on Legal Theory: 
European Legal Integration and Analytical Legal 
Theory, Maastrich, 10-2002. 
[19] A. Singh, Law of Consumer Protection in India, 
New Deli, 2005. 
[20] Schemidhauser, Comparative Judicial Systems. 
Challenging Frontiers in Conceptual and 
Empirical Analysis, 1987. 
[21] J. Sauverplanne, The Role of Courts and 
Legislators in Civil and Common Law Systems, 
Amsterdam, 2012. 
[22] Cyril Mathias Vincent, Legal Culture and Legal 
Transplants – the Evolution of the Indian Legal 
System, Legal Culture and Legal Transplants, 
International Congress of Comparative Law, 
Washington DC, 2010. 
A 
a 

File đính kèm:

  • pdfchuyen_hoa_phap_luat_trong_thoi_dai_toan_cau_hoa_va_lien_ket.pdf