Chuyển giá và cuộc chiến chống chuyển giá tại Việt Nam

Quản lý thu thuế ở các nước đang phát triển nói chung và ở Việt Nam nói riêng đang phải đối mặt với nhiều thách thức khác nhau tạo ra sức ép ngày càng tăng đối với nhiệm vụ thu thuế của Nhà nước. Một trong những thách thức lớn đó là việc gian lận thuế của doanh nghiệp qua chuyển giá, là vấn nạn chung của nhiều quốc gia trên thế giới.

Hoạt động chuyển giá được nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (DN FDI) và các nhà đầu tư

ưa dùng để giảm nghĩa vụ nộp thuế, gia tăng lợi ích cục bộ. Chuyển giá không chỉ gây thất thu cho NSNN,

mà còn tạo ra rủi to cho DN và ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh trong cơ chế thị trường, ảnh hưởng

đến chính sách quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Chính vì vậy, chuyển giá là hoạt động

trái luật cần phải ngăn chặn. Bài viết góp phần làm rõ những vấn đề lý luận chung về chuyển giá; thực

trạng chuyển giá tại Việt Nam hiện nay và các giải pháp để ngăn chặn chuyển giá.

pdf 8 trang kimcuc 17740
Bạn đang xem tài liệu "Chuyển giá và cuộc chiến chống chuyển giá tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyển giá và cuộc chiến chống chuyển giá tại Việt Nam

Chuyển giá và cuộc chiến chống chuyển giá tại Việt Nam
6NHAÄN DIEÄN VAØ ÑOÁI PHOÙ VÔÙI VAÁN ÑEÀ CHUYEÅN GIAÙ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 114 - tháng 4/2017
*Phó Giám đốc Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán
CHUYEÅN GIAÙ VAØ CUOÄC CHIEÁN
CHOÁNG CHUYEÅN GIAÙ TAÏI VIEÄT NAM
PGS.TS. NGUYỄN ĐìNH HòA*
Quản lý thu thuế ở các nước đang phát triển nói chung và ở Việt Nam nói riêng đang phải đối mặt với nhiều thách thức khác nhau tạo ra sức ép ngày càng tăng đối với nhiệm vụ thu thuế của Nhà nước. Một trong những thách thức lớn đó là việc gian lận thuế của doanh nghiệp qua chuyển giá, là vấn nạn chung của nhiều quốc gia trên thế giới.
Hoạt động chuyển giá được nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (DN FDI) và các nhà đầu tư 
ưa dùng để giảm nghĩa vụ nộp thuế, gia tăng lợi ích cục bộ. Chuyển giá không chỉ gây thất thu cho NSNN, 
mà còn tạo ra rủi to cho DN và ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh trong cơ chế thị trường, ảnh hưởng 
đến chính sách quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Chính vì vậy, chuyển giá là hoạt động 
trái luật cần phải ngăn chặn. Bài viết góp phần làm rõ những vấn đề lý luận chung về chuyển giá; thực 
trạng chuyển giá tại Việt Nam hiện nay và các giải pháp để ngăn chặn chuyển giá.
Từ khóa: Chuyển giá
Pricing transfer and the fight against Pricing transfer in Vietnam
Tax administration in developing countries in general and in Vietnam in particular is facing various 
challenges and creating increasing pressure on the state’s tax collection task. One of the major challenges 
is the tax fraud of the business through transfer pricing, which is a common problem in many countries 
around the world.
Transfer pricing is preferred by many foreign invested enterprises (FDI enterprises) and investors to 
reduce their tax obligations, increase local interests. Transfer pricing not only causes losses to the state 
budget, but also creates risks for enterprises and affects the business environment in the market mechanism, 
affecting the government’s macro-economic management and management policies. Therefore, price 
transfer is illegal activity should be prevented. The article contributes to the general theoretical issues of 
transfer pricing; Current situation of transfer pricing in Vietnam and solutions to prevent transfer pricing.
Key words: Transfer price
1. Tổng quan về chuyển giá
1.1. Cơ sở của việc chuyển giá
Bản chất của hoạt động chuyển giá là việc lựa 
chọn nơi ưu đãi nhất về thuế để nộp thuế của một 
doanh nghiệp mà không làm trái các quy định pháp 
luật hiện hành, là hoạt động tối ưu thuế một cách 
hợp pháp thông qua việc phân bổ nguồn lực một 
cách có kế hoạch và phù hợp giữa các địa phương, 
các quốc gia có các mức thuế suất khác nhau nhằm 
mang lại lợi ích thuế tốt nhất cho cả Tập đoàn, 
nghĩa là giảm tối đa nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà 
7NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 114 - tháng 4/2017
nước. Nhưng vấn đề đáng nói ở đây là các Tập đoàn 
đa quốc gia và ngay cả các Tập đoàn trong nước đã 
và đang lợi dụng những kẽ hở của pháp luật, cố 
tình tạo ra một hệ thống giá không phù hợp với giá 
thị trường để chuyển dịch lợi nhuận trái pháp luật.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ 
thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị trao 
đổi hàng hóa, dịch vụ không theo nguyên tắc thị 
trường trong quan hệ với các bên liên kết, nhằm tối 
thiểu hóa nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Hành vi 
ấy có đối tượng tác động chính là giá cả. 
Thực tế cho thấy, chuyển giá là hiện tượng phổ 
biến trong nền kinh tế thị trường, xuất phát từ 
nhiều căn nguyên sau:
Một là, xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong 
kinh doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết 
định giá cả của một giao dịch. Do đó, họ hoàn toàn 
có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ 
mong muốn.
Hai là, xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chung 
về lợi ích giữa nhóm liên kết nên sự khác biệt về 
giá giao dịch được thực hiện giữa các chủ thể kinh 
doanh có cùng lợi ích không làm thay đổi lợi ích 
toàn cục.
Ba là, việc quyết định chính sách giá giao dịch 
giữa các thành viên trong nhóm liên kết không 
thay đổi tổng lợi ích chung nhưng có thể làm thay 
đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ. Thông qua việc định 
giá, nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết 
cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. 
Bốn là, các doanh nghiệp thấy rằng lợi ích chuyển 
giá thu được lớn hơn rất nhiều, cho dù họ phải trả 
một khoản chi phí không nhỏ thuê tư vấn để “lách 
luật” và chấp nhận rủi ro nếu bị phát hiện trốn thuế 
và chịu phạt theo kiểu so sánh “lợi ích - chi phí”.
Năm là, tình trạng thanh toán dùng tiền mặt 
còn phổ biến, là điều kiện thuận lợi để các tổ chức 
có mưu đồ trốn thuế có thể che giấu, không khai 
báo đầy đủ các giao dịch. 
Sáu là, hệ thống pháp luật hiện hành còn nhiều 
bất cập, chưa đủ cơ sở pháp lý cho việc xác định 
các hành vi chuyển giá và chế tài áp dụng còn yếu 
và thiếu. Mặt khác, hệ thống pháp luật hiện hành 
còn có quá nhiều kẽ hở, chưa đồng bộ, từ đó tạo 
điều kiện cho hành vi chuyển giá dễ dàng được 
thực hiện.
Bảy là, cơ chế phối hợp trong kiểm tra, giám 
sát, thanh tra, kiểm toán còn nhiều bất cập, chưa 
đủ khả năng phát hiện để xử lý tất cả các hành vi 
chuyển giá.
Tám là, vai trò quản lý của Nhà nước còn yếu, 
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận 
8NHAÄN DIEÄN VAØ ÑOÁI PHOÙ VÔÙI VAÁN ÑEÀ CHUYEÅN GIAÙ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 114 - tháng 4/2017
cán bộ quản lý chưa cao. Bên cạnh đó, trình độ của 
một số doanh nhân khi cùng góp vốn với đối tác 
cũng còn nhiều hạn chế, do vậy thường bị yếu thế 
trong kinh doanh, đối tác lợi dụng để chuyển giá. 
1.2. Khái niệm về chuyển giá
Tùy theo cách tiếp cận khác nhau, các nhà 
nghiên cứu, các nhà quản lý đưa ra khá nhiều 
khái niệm về “chuyển giá”. Như phân tích ở phần 
trên, theo quan niệm truyền thống, chuyển giá là 
công việc tổ chức thực hiện một chính sách giá 
theo kế hoạch đối với hàng hóa, dịch vụ, tài sản 
được chuyển dịch giữa các thành viên của một Tập 
đoàn đa quốc gia không theo theo nguyên tắc giá 
thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế phải đóng 
của tất cả các thành viên của mình trên toàn cầu. 
Ban đầu, chuyển giá không phải là hành vi xấu hay 
phạm pháp mà là một biện pháp tối ưu thuế của 
các Tập đoàn đa quốc gia trước thực tiễn đánh thuế 
thu nhập khác nhau giữa các quốc gia. Do đó, trong 
thực tế, các công ty đa quốc gia thường lựa chọn 
đăng ký đặt tổng hành dinh tại những nơi áp dụng 
chế độ ưu đãi thuế, thủ tục kê khai thuế đơn giản 
được biết đến là “thiên đường thuế - Tax Heaven”. 
Do những năm về sau, nhiều nước áp dụng chính 
sách ưu đãi thuế để phát triển kinh tế các vùng, 
miền hay lĩnh vực đã trở thành cơ hội cho các Tập 
đoàn và doanh nghiệp chuyển giá.
 Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể 
đưa ra khái niệm chuyển giá như sau: Chuyển giá là 
việc thực hiện chính sách giá không theo nguyên tắc 
thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được 
chuyển dịch giữa các thành viên trong Tập đoàn, 
hay doanh nghiệp có mối quan hệ liên kết, nhằm tối 
thiểu hóa nghĩa vụ thuế của mình đối với Nhà nước.
Qua đó, chúng ta cũng cần phải phân tích làm 
rõ các khái niệm quen thuộc thường gặp như: 
“chuyển giá”, “gian lận giá” và “gửi giá”. Cái giống 
nhau chung nhất của 3 hành vi này đều là hành vi 
vi phạm pháp luật và kết quả của 3 hành vi này đều 
dẫn đến việc xác định kết quả kinh doanh, nghĩa 
vụ thuế đối với Nhà nước của các chủ thể tiến hành 
các hành vi trên, cũng như việc quyết toán kinh phí 
của các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước không 
đúng với thực tế khách quan và quy định của pháp 
luật. Tuy nhiên giữa chúng có sự khác nhau về 
phạm vi, mức độ tinh vi, phức tạp. 
Đối với hành vi “gian lận giá” thường có phạm 
vi rộng hơn hành vi “chuyển giá” bởi vì hành vi 
“chuyển giá” theo định nghĩa ở trên chỉ có thể thực 
hiện được bởi cả 2 bên “có mối quan hệ liên kết” 
mua và bán hoặc cùng với cả bên thứ ba. Trong khi 
đó “gian lận giá” có thể đồng thời được thực hiện 
bởi cả 2 hoặc nhiều bên trong giao dịch mua, bán 
hàng hóa, dịch vụ nhưng cũng không ít trường hợp 
“gian lận giá” được thực hiện ngay trong một bên 
bằng những “thủ thuật” nghiệp vụ tinh vi. (Khai giá 
hàng hóa nhập khẩu thấp hơn giá thực tế...)
Còn hành vi “gửi giá” cũng tinh vi không kém 
so với hai hành vi trên, bởi nó có thể xảy ra ở nhiều 
nơi và ở nhiều cấp có phát sinh quan hệ giao dịch, 
không chỉ ở các Tập đoàn mà còn ở ngay trong từng 
doanh nghiệp, trong mỗi tổ chức, cơ quan của Nhà 
nước hay tổ chức xã hội khác.
Như vậy, về mặt lý thuyết, chuyển giá không 
chỉ diễn ra trong các giao dịch quốc tế do doanh 
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện, mà có 
thể còn do doanh nghiệp trong nước thực hiện.
1.3. Một số dấu hiệu “lâm sàng” chuyển giá 
điển hình
(1) Tổng mức giao dịch lớn có nội dung giống 
nhau với một hoặc một số ít đối tượng/ tổ chức 
nhất định.
(2) Lỗ một thời gian dài hoặc lãi rất ít mà vẫn mở 
rộng kinh doanh, mở rộng thị trường. 
(3) Lãi thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp cùng 
loại trong cùng môi trường kinh doanh.
(4) Có doanh số giao dịch lớn với các đối tác ở 
những quốc gia có thuế thu nhập doanh nghiệp 
thấp, thuế nhập khẩu thấp, hoặc đang trong quá 
trình được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh 
nghiệp (TNDN), hoặc các đối tác đang ở thiên 
đường thuế.
(5) Có giao dịch nhập khẩu nhiều máy móc thiết 
bị, công nghệ, tài sản vô hình để hình thành tài sản 
cố định, trong khi có thể sử dụng nhiều loại tương tự 
sẵn có trong nước có thể thay thế.
9NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 114 - tháng 4/2017
(6) Có giao dịch vay vốn từ các tổ 
chức nước ngoài không phải là ngân 
hàng thương mại (NHTM), tổ chức 
tín dụng được phép hoạt động cung 
cấp tín dụng tại Việt Nam, không có 
tài sản đảm bảo và mức lãi vay cố 
định và cao hơn lãi suất cho vay tại 
thị trường Việt nam.
(7) Các doanh nghiệp có giao dịch 
trả thương quyền, hoặc nhận nhượng 
quyền thương mại, giao dịch tài sản cố 
định vô hình có giá trị lớn từ các đối 
tác giao dịch nước ngoài. 
(8) Các DN FDI, nhưng kinh doanh trong những 
ngành nghề giao dịch chủ yếu bằng tiền mặt, có 
nhiều điều kiện để che giấu doanh thu thực. 
(9) Các doanh nghiệp có người chủ sở hữu danh 
nghĩa là người Việt Nam và chủ sở hữu thực tế là 
người nước ngoài: các giao dịch mua, hoặc bán chủ 
yếu với một số đối tác cố định nước ngoài, lãnh đạo 
là người nước ngoài, cơ cấu tổ chức và mọi vấn đề 
quan trọng thực chất không do người sở hữu danh 
nghĩa thực hiện. Những tổ chức này thường có sự 
chuẩn bị rất kỹ lưỡng để đối phó, sử dụng các tư 
vấn pháp lý đắt tiền.
(10) Xuất xứ của nguyên vật liệu phức tạp, 
không rõ ràng; thường xuyên không chịu cung cấp 
tài liệu, giấy tờ theo quy định hoặc cung cấp không 
đầy đủ. Thông thường là xuất, nhập khẩu các hàng 
hóa dịch vụ vòng vèo.
Mục tiêu của chuyển giá là nhằm tối thiểu hóa 
nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước của các chủ thể 
kinh doanh và để thực hiện được mục tiêu này các 
DN có thể thực hiện bằng một trong hai phương 
thức hoặc đồng thời cả hai:
Phương thức 1: Chuyển giá thông qua việc khai 
tăng chi phí đầu vào.
Phương thức này thường được các DN FDI 
thực hiện thông qua các giao dịch với các công ty 
mẹ ở nước ngoài như mua thiết bị, máy móc, vật 
tư với giá cao hơn bình thường hoặc đẩy giá các 
tài sản sở hữu trí tuệ dưới dạng nhãn hiệu thương 
mại, nhượng quyền giấy phép sản xuất, phí bản 
quyền, chi trả lãi vay vốn trong quá trình sản xuất 
kinh doanh; khai tăng chi phí trả lương, đào tạo, 
chi phí quảng cáo, bán hàng... Chuyển giá thông 
qua nâng khống giá trị tài sản hữu hình và tài sản 
vô hình trong quá trình góp vốn liên doanh, liên 
kết. Chuyển giá thông qua cơ chế giá cung cấp dịch 
vụ: Hành vi này thường được các Tập đoàn áp dụng 
thông qua hoạt động cung cấp dịch vụ nội bộ của 
các đơn vị trong một Tập đoàn. Do dịch vụ thường 
đa dạng và mang tính đặc thù nên rất khó định giá 
như dịch vụ kế toán, tài chính, tư vấn nên các 
Tập đoàn thường tính giá ở mức rất cao để chuyển 
lợi nhuận từ DN thành viên tại Việt Nam sang 
bên liên kết nước ngoài nhằm giảm nghĩa vụ thuế 
TNDN của DN thành viên tại Việt Nam; phân bổ 
nhiều khoản chi phí toàn cầu bất hợp lý cho công 
ty ở Việt Nam như hệ thống công nghệ thông tin, 
chi phí marketing, chi phí quản lý... 
Phương thức 2: Chuyển giá qua việc hạ thấp giá 
bán sản phẩm.
Chuyển giá thông qua hạ thấp giá bán sản 
phẩm: Hoạt động này thường được các DN FDI 
thực hiện thông qua các hợp đồng xuất khẩu cho 
công ty mẹ hoặc các đối tác liên kết của công ty mẹ 
ở nước ngoài với giá thấp hơn so với giá bán cho 
các bên không liên kết; công ty mẹ giao cho công ty 
con ở Việt Nam thực hiện gia công hàng hóa với giá 
thấp hơn so với giá ký kết với các bên không liên 
kết...; các tập đoàn, công ty mẹ tại nước ngoài ký 
hợp đồng sản xuất kinh doanh và dịch vụ với các 
công ty của các nước với đơn giá cao, sau đó giao 
lại cho công ty con tại Việt Nam theo giá do công ty 
mẹ quy định thấp hơn nhiều.
10
NHAÄN DIEÄN VAØ ÑOÁI PHOÙ VÔÙI VAÁN ÑEÀ CHUYEÅN GIAÙ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 114 - tháng 4/2017
1.4. Hệ lụy của hành vi chuyển giá
Thứ nhất, làm thất thu ngân sách nhà nước. Đây 
có thể coi là tác động tất yếu đầu tiên vì với việc 
DN được lợi về thuế thì phần thuế lẽ ra có thể thu 
được theo Luật đã không được nộp vào NSNN, và 
thực tế ở Việt Nam thì số thất thu này không nhỏ. 
Tuy nhiên hậu quả thật sự đáng lo ngại là sự mất 
cân đối và lệch lạc trong thực hành ngân sách, do 
các dự toán thu ngân sách thường được xây dựng 
theo dạng truyền thống, tỷ lệ tăng thu chi quan hệ 
tuyến tính với năm trước, và không lường đến các 
khả năng thất thu do gian lận và trốn thuế.
Thứ hai, tạo ra môi trường cạnh tranh không 
lành mạnh giữa các chủ thể kinh tế. Mặc nhiên, 
khi một DN được hưởng lợi về nghĩa vụ thuế 
thông qua hành vi chuyển giá, doanh nghiệp này 
sẽ thu lợi cao hơn những DN khác có cùng điều 
kiện nhưng không thực hiện hành vi chuyển giá. 
Một môi trường cạnh tranh lành mạnh phải tạo ra 
khả năng hưởng lợi chính đáng từ hoạt động kinh 
doanh chính đáng. 
Sự tồn tại kéo dài của những người khổng lồ 
báo cáo lỗ không chỉ đơn thuần là làm mất đi 
nguồn thu của ngân sách nhà nước, làm tổn hại 
đến các đối thủ cạnh tranh cùng ngành do có hành 
vi không công bằng, mà tiềm ẩn theo đó là khả 
năng vỡ nợ một khi con số lỗ lũy kế lớn, các công 
ty này có thể tuyên bố phá sản để không chỉ rũ sạch 
mọi trách nhiệm xã hội, mà kéo theo đó là nhiều 
nhà cung cấp hàng hóa bị tổ chức này chiếm dụng 
vốn rơi vào tình trạng vỡ nợ. Hiệu ứng đô mi nô 
của tình trạng này có thể tạo ra hậu quả không kém 
so với việc một NHTM bị phá sản, vì số các đối tác 
là các nhà cung cấp của những đối tượng này là vô 
cùng lớn.
2. Thực trạng chuyển giá tại Việt Nam
Hiện tượng chuyển giá ở Việt Nam hiện nay mặc 
dù đã được báo chí phản ánh khá nhiều, nhưng thật 
đáng tiếc là chúng ta chưa có đủ bằng chứng để đưa 
ra công luận một trường hợp nào đối với DN FDI 
để xử lý theo pháp luật theo đúng nghĩa của nó mà 
vẫn đang là những vấn đề phức tạp và khó tiếp cận. 
Trên cơ sở phân tích các số liệu, Thanh tra Chính 
phủ cho rằng đó “là biểu hiện của việc chuyển giá, 
nhưng do không xác minh được thông tin đầu ra 
đối với các doanh nghiệp nước ngoài nên cơ quan 
thuế không đủ cơ sở để xem xét, xử lý”.
 Thực trạng chuyển giá đó một mặt cho chúng 
ta thấy những tác động tiêu cực đến nền kinh tế 
nhưng qua đó cũng cho chúng ta thấy rõ hơn sự 
yếu kém từ trong nội bộ nền kinh tế, đây được coi 
là một lỗ hổng tài chính lớn của Việt Nam hiện nay. 
Bản chất của vấn đề chuyển giá ở đây chính là mối 
quan hệ về lợi ích giữa các bên. Nếu Việt Nam có 
những chính sách, chiến lược kém thì các DN FDI 
sẽ không bao giờ bỏ lỡ thời cơ tối đa hóa lợi nhuận 
bằng cách chuyển giá.
Một trong những cơ sở để đưa ra nghi vấn 
chuyển giá trong khu vực có FDI ở Việt Nam 
thường là: (1) số doanh nghiệp FDI thường xuyên 
báo cáo lỗ trong nhiều năm chiếm tỷ lệ lớn, trong 
tổng số doanh nghiệp FDI, có doanh nghiệp lỗ mất 
vốn chủ sở hữu; và mặc dù lỗ thường xuyên như 
vậy nhưng vẫn tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất, 
kinh doanh; (2) tỷ suất lợi nhuận (đối với những 
doanh nghiệp có lãi) trên doanh thu không đáng 
kể; (3) tỷ lệ đóng góp vào ngân sách quốc gia của 
khu vực FDI (không kể dầu thô) thấp (chỉ dao động 
9-10% tổng thu ngân sách của quốc gia), trong khi 
tổng dự án và tổng kinh phí đầu tư khá cao (23,3% 
tổng vốn đầu tư xã hội năm 2012). Trong đó, dấu 
hiệu đầu tiên (1) là rõ nhất.
Theo thống kê, cả nước có khoảng 50% doanh 
nghiệp FDI kê khai lỗ, trong đó nhiều doanh 
nghiệp thua lỗ liên tục trong 3 năm liên tiếp. Thành 
phố Hồ Chí Minh, có tới gần 60% trong số 3500 
DN FDI nhiều năm qua thường xuyên kê khai lỗ. 
Tỉnh Lâm Đồng cũng xuất hiện tình trạng tương 
tự với 104/111 doanh nghiệp FDI báo cáo lỗ liên 
tục. Tỉnh Bình Dương, một trong những tỉnh 
thu hút được nhiều dự án FDI cũng có đến 50% 
doanh nghiệp FDI báo cáo lỗ từ năm 2006-2011 
(Năm 2007, số doanh nghiệp khai báo lỗ chiếm tỷ 
lệ 53%, năm 2008 là 58%, năm 2009 là 55%, năm 
2010 là 44% và năm 2011 là 48%). Mới đây, Thanh 
tra Chính phủ công bố Kết luận Thanh tra việc thu 
nộp ngân sách tại khu chế xuất và doanh nghiệp 
chế xuất trên địa bàn thành phố Hà Nội, thành phố 
11NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 114 - tháng 4/2017
Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và 
Đồng Nai đã phát hiện có 57% trong 
tổng số 399 doanh nghiệp chế xuất 
kiểm tra không phát sinh doanh 
thu hoặc hạch toán lỗ hoặc không 
lãi; nhiều DN báo lỗ liên tục nhiều 
năm. Trong đó, qua xem xét 125 DN 
hạch toán lỗ trong 3 năm từ 2009 
đến 2011 thì có đến 36 DN lỗ 3 năm 
liên tiếp với tổng mức lỗ lên tới trên 
2.856 tỷ đồng, 69 DN lỗ 2 năm liên 
tiếp với tổng mức lỗ 1.829 tỷ đồng, nhiều DN có 
số lỗ vượt quá số vốn chủ sở hữu. Đáng chú ý, kết 
luận thanh tra nêu trên cho thấy nhiều DN mặc dù 
kê khai lỗ lớn trong nhiều năm nhưng hằng năm, 
tốc độ tăng doanh thu vẫn cao, hoạt động sản xuất 
kinh doanh liên tục được mở rộng. Các báo cáo của 
cơ quan thuế cho thấy, các DN FDI báo cáo kinh 
doanh thua lỗ thường tập trung trong lĩnh vực 
gia công may mặc, da giày; sản xuất, kinh doanh 
chè xuất khẩu; công nghiệp chế biến Đặc biệt, 
ở thành phố Hồ Chí Minh, có đến 90% DN FDI 
hoạt động trong lĩnh vực may mặc có kết quả kinh 
doanh thua lỗ trong khi hầu hết các DN trong nước 
cùng ngành nghề đều có lãi. Mặc dù thua lỗ triền 
miên song các DN FDI này vẫn đầu tư mở rộng sản 
xuất, kinh doanh.
Trường hợp điển hình có những biểu hiện 
“đáng ngờ” về chuyển giá, trước tiên, phải nói đến 
công ty Coca-Cola Việt Nam. Trong gần 20 năm 
đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, Coca-Cola liên 
tục báo lỗ, lỗ lũy kế tính đến 30-9-2011 của công 
ty này đã lên tới 3.768 tỷ đồng. Do lỗ liên tục như 
vậy nên Coca-Cola Việt Nam không phải đóng 
thuế TNDN, trong khi doanh thu liên tục tăng từ 
20-30%/năm. Và điều đáng ngạc nhiên hơn là tuy 
lỗ lớn như vậy nhưng DN này đã có kế hoạch đầu 
tư thêm 300 triệu USD tại Việt Nam.
Một công ty khác nằm trong diện nghi vấn 
chuyển giá với giá trị lớn lên đến hơn 1.200 tỷ 
đồng, là Công ty PepsiCo Việt Nam. Từ khi thành 
lập năm 1991, gần 20 năm qua PepsiCo lỗ liên tục, 
cho đến một số năm gần đây mới có lãi nhưng tỷ lệ 
lợi nhuận trên doanh thu rất thấp, chỉ trên 2%. Mặc 
dù vậy, PepsiCo Việt Nam vẫn liên tục mở rộng đầu 
tư, xây dựng các nhà máy mới ở Đồng Nai (45 triệu 
USD), Bắc Ninh (73 triệu USD). Công ty TNHH 
Metro Cash & Carry Việt Nam (thường gọi là siêu 
thị Metro) cũng trong diện “nghi vấn”; thành lập 
từ năm 2001, đến nay đơn vì này đã phát triển 19 
trung tâm bán sỉ trên cả nước nhưng thua lỗ triền 
miên dù doanh thu tăng liên tục hàng năm. Cụ thể, 
năm 2007 lỗ 157 tỷ đồng/doanh thu 6.607 tỷ đồng; 
năm 2008, lỗ hơn 190 tỷ đồng/doanh thu 8.175 tỷ 
đồng; năm 2009, lỗ 160 tỷ đồng/doanh thu 8.728 
tỷ đồng.[6]
Một loạt doanh nghiệp FDI chuyên sản xuất, 
kinh doanh chè ở Lâm Đồng cũng thực hiện 
chuyển giá và đã được cơ quan thuế của tỉnh này 
xử lý. Theo số liệu của Cục thuế tỉnh Lâm Đồng, 17 
doanh nghiệp FDI sản xuất, kinh doanh chế biến 
chè trên địa bàn tỉnh năm 2009 xuất khẩu được 
1.522 tấn, doanh thu 105 tỷ đồng, lỗ 63,68 tỷ đồng, 
lũy kế lỗ đến thởi điểm 31-12-2009 là 317 tỷ đồng. 
Nguyên nhân dẫn đến lỗ của các doanh nghiệp này 
rất phi lý. Cụ thể, để sản xuất 1kg chè ô long thành 
phẩm giá nguyên liệu chính là 175.000 đồng/kg 
trong khi đó các doanh nghiệp này xuất khẩu với 
giá chỉ từ 2,8-4USD/kg (không quá 84.000 VND).
Mới đây, báo cáo của Thanh tra Chính phủ [1] 
cũng cho thấy điều bất thường khi nhiều doanh 
nghiệp FDI có “tiếng tăm” khai lỗ lớn song họ vẫn 
không hề có “nao núng” mà tiếp tục mở rộng sản 
xuất, kinh doanh. Có thể nêu một số trường hợp 
điển hình sau:
Công ty TNHH Sumitomo Bakelite Việt Nam, 
100% vốn Nhật Bản có trụ sở tại Khu công nghiệp 
Thăng Long Hà Nội có số lỗ lũy kế 3 năm lên tới 
hơn 777 tỷ đồng. Công ty TNHH điện tử Meiko 
12
NHAÄN DIEÄN VAØ ÑOÁI PHOÙ VÔÙI VAÁN ÑEÀ CHUYEÅN GIAÙ
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 114 - tháng 4/2017
Việt Nam - một trong 10 dự án đầu tư trực tiếp 
nước ngoài lớn nhất năm 2006 và là dự án sản xuất 
điện tử có vốn FDI lớn nhất vào Vệt Nam tại thời 
điểm cấp phép – có số lỗ 3 năm là hơn 300 tỷ đồng. 
Công ty TNHH Sản phẩm công nghiệp Toshiba 
Asia với mức lỗ lũy kế 3 năm là hơn 430 tỷ đồng. 
Công ty TNHH Kureha Việt Nam với mức lỗ lũy kế 
2 năm là 256 tỷ đồng. Công ty TNHH Saigon Stec 
(Bình Dương) với mức lỗ lũy kế 3 năm trên 218 tỷ 
đồng [1]. Ngoài các công ty trên, còn một loạt các 
“tên tuổi” khác cũng nằm trong nghi án chuyển giá, 
như: Adidas, Big C, Keangnam Vina.
Trong vòng 3 năm (2012-2014), Bộ Tài chính 
đã thanh tra, kiểm tra 714 DN FDI lỗ, đấu tranh 
chống chuyển giá giảm lỗ của DN 6.487,3 tỷ đồng. 
Năm 2012 ngành thuế đã thanh tra, kiểm tra tại 
243 DN FDI lỗ có dấu hiệu chuyển giá, lập biên 
bản, ban hành kết luận thanh tra, kiểm tra loại bỏ 
những chi phí không hợp lý, hợp lệ, không đúng 
chế độ quy định, không có chứng từ hợp pháp, tăng 
số thuế phải nộp NSNN 170,2 tỷ đồng, đấu tranh 
chống chuyển giá giảm lỗ của DN 2.354,7 tỷ đồng. 
Năm 2013 các con số tương ứng lần lượt là 225 DN, 
390,3 tỷ đồng và 1.625,4 tỷ đồng. Năm 2014 là 246 
DN; 341,5 tỷ đồng và 2.507,2 tỷ đồng.[7]
 Theo Tổng cục Thuế, tính đến hết tháng 8/2014, 
ngành thuế đã rà soát 39.637 doanh nghiệp, phát 
hiện 1.938 doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá. 
Kết quả, ngành thuế đã truy thu 1.317,9 tỷ đồng, 
giảm lỗ 4.129,8 tỷ đồng, giảm khấu trừ hoàn thuế 
82,8 tỷ đồng.
Tại cuộc kiểm toán Tổng công ty CP Bia - Rượu 
- Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) năm 2014, 
KTNN đã phát hiện Sabeco có hành vi chuyển giá 
dẫn đến kê khai thiếu thuế tiêu thụ đặc biệt số tiền 
408 tỷ đồng, cụ thể: Sabeco vừa thực hiện sản xuất, 
vừa thực hiện phân phối sản phẩm bia. Sabeco sản 
xuất và bán bia cho công ty con của mình là các 
công ty thương mại Sabeco. Công ty này không 
bán bia ngay cho người tiêu dùng mà bán qua công 
ty con khác do doanh nghiệp này chi phối với giá 
thấp. Sau đó bia được bán lại cho công ty khu vực, 
đến đại lý cập 1, cấp 2, cấp 3, đến nhà hàng sau 
đó mới đến người tiêu dùng. Như vậy, theo quy 
định tại Thông tư 05/2012/TT-BTC, khó xác định 
giá ở mốc thời điểm nào trong chuỗi bán hàng của 
Sabeco để tính thuế. KTNN kết luận Sabeco phải 
nộp thuế tiêu thụ đặc biệt dựa trên giá bán ra của 
các công ty thương mại khu vực - đơn vị trực tiếp 
bán hàng ra khỏi hệ thống của Sabeco chứ không 
phải giá bán của Sabeco ra Công ty thương mại 
Sabeco. Theo đó, Sabeco phải nộp thêm ngân sách 
hơn 408 tỷ đồng.[8]
3. Một số giải pháp chống chuyển giá cần triển 
khai thực hiện ở Việt Nam thời gian tới
Để phòng chống chuyển giá có hiệu quả đòi hỏi 
phải thực hiện đồng bộ và hệ thống các giải pháp. 
Theo chúng tôi cần thực hiện một số giải pháp 
chống chuyển giá như sau:
Thứ nhất, việc cần làm đầu tiên là hoàn thiện 
hành lang pháp lý về chống chuyển giá để bịt các 
kẽ hở về mặt luật pháp. Những nội dung cụ thể cần 
hoàn thiện hành lang pháp lý về chống chuyển giá 
bao gồm:
- Trước hết, trong Luật Quản lý thuế cần bổ 
sung một điều luật về chống chuyển giá, còn về lâu 
dài nên ban hành Luật Chống chuyển giá - đây là 
cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho hoạt động chống 
chuyển giá, không chỉ có ý nghĩa đối với quản lý 
thuế TNDN mà còn liên quan đến quản lý các sắc 
thuế về giá nói chung.
- Cần sửa đổi mẫu kê khai thông tin giao dịch 
theo hướng tăng thêm một số chỉ tiêu về doanh 
thu, chi phí; quy định về các chế tài thưởng phạt 
rõ ràng, toàn diện và nghiêm khắc hơn đối với vấn 
đề chuyển giá; bổ sung quy định về ngưỡng kê khai 
thông tin giao dịch liên kết phù hợp với điều kiện 
Việt Nam hiện nay để đơn giản hoá cho DN trong 
việc kê khai thông tin giao dịch liên kết; tăng thêm 
quyền hạn của cơ quan Thuế trong quá trình xử lý 
các vụ việc cố tình vi phạm chuyển giá.
- Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan 
chức năng có liên quan với cơ quan thuế trong hoạt 
động chống chuyển giá, đặc biệt là sự phối hợp của 
các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ hai, thu hẹp các ưu đãi thuế. Xem xét điều 
chỉnh mức thuế suất đối với thuế TNDN của Việt 
Nam không quá chênh lệch với thuế suất của các 
nước trong khu vực, cũng như giữa các địa phương 
trong nước, để ngăn chặn động cơ chuyển giá nhờ 
13NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 114 - tháng 4/2017
khai thác chênh lệch mức thuế giữa các địa phương 
trên cơ sở cân nhắc các cách thức khác để điều tiết 
các vấn đề kinh tế, chỉ sử dụng ưu đãi thuế trong 
những trường hợp có lợi nhất so với các hình thức 
ưu đãi khác, chẳng hạn như trợ cấp, trợ giá, hỗ trợ 
phát triển kết cấu hạ tầng... 
Thứ ba, nghiên cứu giao thêm thẩm quyền điều 
tra cho Tổng cục Thuế. Cân nhắc việc thành lập bộ 
phận tình báo thuế ở Tổng cục Thuế. Đây chính là 
cơ quan có chức năng chuyên trách thu thập thông 
tin phục vụ quản lý thuế ở cả trong nước và quốc tế. 
Tình báo thuế không chỉ cần thiết cho hoạt động 
chống chuyển giá, mà còn rất hữu ích cho công tác 
thanh tra, kiểm tra thuế.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống thông tin, số hóa 
dữ liệu về người nộp thuế. 
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và liên thông 
dữ liệu, thông tin về doanh nghiệp FDI nói riêng 
và DN nói chung trong các cơ quan chức năng của 
Việt Nam để có sự phối hợp đồng bộ, thông suốt 
trong kiểm soát chuyển giá của các cơ quan liên 
quan. Coi trọng và tăng cường việc khai thác các 
thông tin, số liệu cũng như các nội dung kết luận và 
kiến nghị trong các Báo cáo kiểm toán của KTNN 
để xác định các hoạt động chuyển giá, đối tượng và 
chủ thể chuyển giá, từ đó tiến hành đối chiếu, xâu 
chuỗi thông tin để khoanh vùng và tìm ra được các 
DN cần được đưa vào diện thanh tra, kiểm tra toàn 
diện hoặc theo chuyên đề chống chuyển giá, đặc 
biệt là các DN FDI liên tục kê khai lỗ kéo dài nhưng 
vẫn đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh. 
- Đồng thời, tăng cường đầu tư trang bị những 
điều kiện, phương tiện để theo dõi, lưu trữ kết nối 
các dữ liệu để phân tích và phát hiện các trường 
hợp vi phạm chuyển giá; xây dựng hệ thống thông 
tin chung và chuyên ngành về chuyển giá, trong đó 
có tập hợp hệ thống và cập nhật các mức giá tham 
chiếu cần thiết trong các lĩnh vực thuế của các công 
ty xuyên quốc gia và các nước khu vực, thế giới 
để tiện lợi cho các hoạt động nhận dạng và đấu 
tranh với các hành vi chuyển giá.
Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế, kể cả việc 
mua tin tức tình báo có liên quan đến chuyển giá và 
tham gia các liên minh quốc tế chống chuyển giá. 
Mới đây, ngày 5-10-2015, 62 quốc gia trên thế giới 
đã đạt được thỏa thuận về kế hoạch chống thất thu 
thuế và điều chuyển lợi nhuận, mà khi được ký kết 
và khi có hiệu lực, sẽ giúp các nước tham gia thu 
về từ 100-240 tỉ USD/năm từ trốn thuế của các Tập 
đoàn xuyên quốc gia.
Thứ sáu, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, 
tinh nhuệ và chuyên trách thực hiện nhiệm vụ liên 
quan đến chống chuyển giá nằm tại Tổng cục Thuế 
và các cơ quan thuế lớn, và chịu trách nhiệm thực 
hiện các cuộc thanh tra chống chuyển giá cho cả 
nước. Đội ngũ này phải được đào tạo cơ bản, giỏi 
tin học, ngoại ngữ, hiểu biết rất sâu và cập nhật về 
thuế quốc tế, được tiếp cận với nguồn thông tin và 
cơ sở dữ liệu so sánh được cập nhật thường xuyên.
Thứ bảy, cần tăng cường áp dụng rộng rãi cơ chế 
giá thỏa thuận trước theo phương pháp định giá 
APA(Advance Pricing Agreement). Tại Việt Nam, 
theo quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều 
của Luật Quản lý Thuế, từ 1/7/2013 cơ quan thuế 
được phép áp dụng APA.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thanh tra Chính phủ (2013), “Kết luận 
Thanh tra về thu nộp ngân sách tại khu 
chế xuất và doanh nghiệp chế xuất trên địa 
bàn thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí 
Minh, tỉnh Bình Dương và Đồng Nai” (Số 
2053/KL-TTCP, ngày 10-09-2913).
2. Báo cáo đánh giá thực trạng quản lý thuế 
hoạt động chuyển giá tại Việt Nam giai 
đoạn 2006-2010 và định hướng nâng cao 
hiệu quả quản lý thuế đối với hoạt động 
này trong giai đoạn tới của Tổng Cục thuế 
năm 2011.
3. 
tra-thue-Tang-thu-cho-ngan-sach-27.540-
ty-dong-18.htm; 08/01/2014 02:54:18 CH4.
4. 
dai-gia-ngoai.1.509705.htm; Thứ Hai, 
06/10/2014 | 12:22 GMT+7
5. 
kiem-soat-doanh-nghiep-chuyen-gia.html.
6. Đầu tư online 25.4.2015
7. Báo Hải quan online 23.5.2015
8. Báo cáo kiểm toán của KTNN

File đính kèm:

  • pdfchuyen_gia_va_cuoc_chien_chong_chuyen_gia_tai_viet_nam.pdf