Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1997 – 2017

Thái Nguyên là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của vùng Đông Bắc. Hòa

nhập với sự phát triển của đất nước, từ sau ngày tái lập tỉnh (1/1/1997) đến năm 2017, Thái

Nguyên đã từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với

vị trí địa lí thuận lợi, đất đai, tài nguyên khoáng sản đa dạng, phong phú, tiềm năng du lịch sinh

thái, du lịch lịch sử, du lịch về nguồn hấp dẫn, tỉnh Thái Nguyên có nhiều điều kiện thuận lợi mà

nhiều tỉnh miền núi phía Bắc không có, giúp cho Thái Nguyên có tiềm năng phát triển, không chỉ

hiện tại, mà cả trong tương lai. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã có những chủ trương hợp lý, đúng

đắn cho sự phát triển bền vững của tỉnh. Thái Nguyên đang từng bước hòa nhập với nền kinh tế thị

trường của cả nước và thế giới trong thế kỉ XXI.

pdf 6 trang kimcuc 15960
Bạn đang xem tài liệu "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1997 – 2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1997 – 2017

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 1997 – 2017
 ISSN: 1859-2171 
e-ISSN: 2615-9562 
TNU Journal of Science and Technology 201(08): 45 - 50 
 Email: jst@tnu.edu.vn 45 
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ TỈNH THÁI NGUYÊN GIAI ĐOẠN 1997 – 2017 
Nguyễn Thị Thu Oanh1*, Hoàng Thị Mỹ Hạnh2 
1 Khoa Ngoại Ngữ - ĐH Thái Nguyên 
 2 Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Thái Nguyên là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của vùng Đông Bắc. Hòa 
nhập với sự phát triển của đất nước, từ sau ngày tái lập tỉnh (1/1/1997) đến năm 2017, Thái 
Nguyên đã từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với 
vị trí địa lí thuận lợi, đất đai, tài nguyên khoáng sản đa dạng, phong phú, tiềm năng du lịch sinh 
thái, du lịch lịch sử, du lịch về nguồn hấp dẫn, tỉnh Thái Nguyên có nhiều điều kiện thuận lợi mà 
nhiều tỉnh miền núi phía Bắc không có, giúp cho Thái Nguyên có tiềm năng phát triển, không chỉ 
hiện tại, mà cả trong tương lai. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã có những chủ trương hợp lý, đúng 
đắn cho sự phát triển bền vững của tỉnh. Thái Nguyên đang từng bước hòa nhập với nền kinh tế thị 
trường của cả nước và thế giới trong thế kỉ XXI. 
Từ khóa: Thái Nguyên; nguồn lực; kinh tế; chuyển dịch; cơ cấu. 
Ngày nhận bài: 06/03/2019; Ngày hoàn thiện: 23/4/2019; Ngày duyệt đăng: 06/6/2019 
THAI NGUYEN ECONOMIC STRUCTURE TRANSFORMATION 
THE PERIOD 1997 - 2017 
Nguyen Thi Thu Oanh
1*
, Hoang Thi My Hanh
2 
1 TNU - School of Foreign Languages 
2 TNU - College of Education 
ABSTRACT 
Thai Nguyen is one of the political, economic and culture of the Northeast. Integrated with the 
development of the country, since after the re-establishment (1/1/1997) to 2017, Thai Nguyen has 
gradually economic restructuring towards industrialization and modernization.With its favorable 
geographical location, land, diverse mineral resources, rich, eco-tourism potential, tourism, 
history, tourist attractions, the province of Thai Nguyen has many favorable conditions thatmany 
northern mountainous provinces, help to Thai Nguyen has the potential to develop, not only now, 
but also in the future. Thai Nguyen Provincial Party has advocated Rational and proper for the 
sustainable development of the province. Thai Nguyen is gradually integrated with the market 
economy of the country and the world in the XXI century. 
Keyword: Thai Nguyen; resources; economy; transition; structure. 
Received: 06/03/2019; Revised: 23/4/2019; Approved: 06/6/2019 
* Corresponding author. Email: nguyenthuoanh.sfl@tnu.edu.vn 
Nguyễn Thị Thu Oanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 45 - 50 
 Email: jst@tnu.edu.vn 46 
1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên 
1.1. Vị trí địa lý 
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi, thuộc 
vùng trung du – miền núi Đông Bắc, diện tích 
tự nhiên 3.526,20 km2 nằm trong hệ tọa độ 
địa lý từ 21o19’ đến 22o03’ vĩ độ bắc và 
105
o29’ đến 106o15’ kinh độ đông [1]. Thái 
Nguyên phía Bắc giáp tỉnh Bắc Kạn; phía 
Đông giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang; 
phía Nam giáp thủ đô Hà Nội; phía Tây giáp 
các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang. 
Thái Nguyên có rất nhiều cơ sở kinh tế, văn 
hóa, quốc phòng có tầm chiến lược của đất 
nước: Khu công nghiệp Gang thép, Khu công 
nghiệp Sông Công, 8 trường Đại học, các 
trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và 
dạy nghề, Bộ Tư lệnh Quân khu I. Nằm kề 
phía Bắc thủ đô Hà Nội, Thái Nguyên còn có 
lợi thế rất lớn trong sự nghiệp phát triển kinh 
tế - xã hội cả hiện tại và trong tương lai. Tỉnh 
có vai trò quan trọng trong việc tạo ra các mối 
liên kết về du lịch, dịch vụ với các địa 
phương lân cận trong và ngoài vùng (Hà Nội, 
Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Giang...). 
Quốc lộ 3 nối Thái Nguyên với Hà Nội và các 
tỉnh đồng bằng sông Hồng, với các tỉnh khác 
trong cả nước, đồng thời chạy qua huyện Phú 
Lương lên Bắc Kạn, Cao Bằng để có thể tới 
biên giới Việt – Trung. 
Ngoài ra, các quốc lộ 37, 1B, 279 cùng với hệ 
thống tỉnh lộ, huyện lộ là những mạch máu 
quan trọng nối Thái Nguyên với các tỉnh xung 
quanh. Tuyến đường sắt Hà Nội – Quán Triều 
và tuyến đường sắt Thái Nguyên – Uông Bí là 
mạch giao thông quan trọng giữa Thái 
Nguyên với đồng bằng và vùng Đông Bắc. 
Cùng với vị trí trung tâm của Việt Bắc, Thái 
Nguyên còn là một trung tâm kinh tế, trung tâm 
văn hóa, trung tâm đào tạo lớn của đất nước. 
1.2. Khí hậu 
Cũng như các địa phương khác thuộc miền 
Bắc Việt Nam, tỉnh Thái Nguyên nằm trong 
khu vực nhiệt đới gió mùa biến tính, có hai 
mùa rõ rệt: mùa khô lạnh mát, mùa mưa nóng 
ẩm. Nhiệt độ bình quân là 230C, độ ẩm bình 
quân là 80%. 
1.3. Hệ thống sông, suối, hồ và trữ lượng nước 
Thái Nguyên có một hệ thống sông ngòi khá 
dày. Nguồn nước mặt của Thái Nguyên chủ 
yếu do hệ thống sông ngòi cung cấp. Hệ thống 
sông gồm có: Sông Cầu, sông Chu, sông Đu, 
sông Công, sông Nghinh Tường, sông Khe Mo 
– Huống Thượng. Đại bộ phận lãnh thổ thuộc 
hệ thống sông Cầu, cứ 1 km2 có 0,93 km sông; 
sông Công 1,2 km sông/km
2
; sông Nghinh 
Tường 1,05 km sông/km2. Bên cạnh nguồn 
nước mặt, Thái Nguyên còn có trữ lượng nước 
ngầm khá lớn, khoảng 3 tỷ m3, nhưng việc 
khai thác sử dụng còn hạn chế [1]. 
1.4. Địa hình, đất đai 
Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 
352.621,50 ha [2], Thái Nguyên có các loại 
đất sau: Đất Feralit đỏ vàng chiếm phần lớn 
đất đồi núi của tỉnh. Đất thích hợp trồng cây 
ăn quả và cây công nghiệp; đất đá vôi; đất 
đầm lầy; đất ruộng lúa (đất có nguồn gốc từ 
đất Feralit, đất đá vôi, hoặc đất phù sa các 
sông Cầu, sông Công, sông Chu... Mặc dù là 
một tỉnh trung du miền núi, nhưng địa hình 
tỉnh Thái Nguyên không phức tạp lắm so với 
các tỉnh trung du, miền núi khác. Đây cũng là 
một thuận lợi của tỉnh trong việc phát triển 
kinh tế - xã hội nói chung mà nhiều tỉnh trung 
du miền núi khác không có. 
Thái Nguyên có 165,1 nghìn ha đất lâm 
nghiệp, trong đó diện tích rừng tự nhiên 
khoảng 104,8 nghìn ha và rừng trồng có trên 
60 nghìn ha. Rừng phòng hộ có diện tích gần 
55,6 nghìn ha, rừng đặc dụng gần 28,2 nghìn 
ha và rừng kinh tế 81,4 nghìn ha. Tổng diện 
tích đất chưa sử dụng có trên 49 nghìn ha, 
trong số này có trên 39 nghìn ha có khả năng 
phục vụ mục đích lâm nghiệp [2]. 
Về tính đa dạng sinh học, có thể thấy Thái 
Nguyên khá đa dạng về các loài động thực vật, 
đặc biệt có nhiều loại cây con dược liệu quý có 
thể phát triển ở quy mô sản xuất hàng hóa. 
1.5. Tài nguyên rừng và khoáng sản 
Thái Nguyên nằm trong vùng sinh khoáng 
Đông Bắc Việt Nam, thuộc vành đai sinh 
khoáng Thái Bình Dương. Hiện đã phát hiện 
Nguyễn Thị Thu Oanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 45 - 50 
 Email: jst@tnu.edu.vn 47 
177 điểm quặng và mỏ khoáng sản với hơn 30 
loại hình khoáng sản khác nhau phân bố tập 
trung ở các huyện Đại Từ, Phú Lương, Đồng 
Hỷ, Võ Nhai... [3]. Nhìn chung, tài nguyên 
khoáng sản của Thái Nguyên rất phong phú 
về chủng loại, trong đó có nhiều loại có ý 
nghĩa trong phạm vi cả nước như quặng, sắt, 
than (đặc biệt là than mỡ). Đây là một lợi thế 
lớn của tỉnh trong việc phát triển các ngành 
công nghiệp như luyện kim, khai khoáng, sản 
xuất xi măng và vật liệu xây dựng... 
1.6. Tài nguyên du lịch 
Tài nguyên du lịch của Thái Nguyên rất đa 
dạng. Trong đó, hồ Núi Cốc với diện tích 25 
km
2
 cùng nhiều đảo lớn nhỏ trong lòng hồ đã 
mở ra tiềm năng du lịch lớn nhất tỉnh. Khu du 
lịch Hồ Núi Cốc cách thành phố Thái Nguyên 
20 km về phía tây, với phong cảnh sơn thủy hữu 
tình đã trở thành khu du lịch lớn nhất của tỉnh, 
thu hút đông đảo du khách đến tham quan, nghỉ 
dưỡng, kéo theo sự phát triển của các loại hình 
dịch vụ du lịch, tạo thêm nhiều việc làm cho 
người dân địa phương, đồng thời mang lại cho 
tỉnh khoản thu không nhỏ. Ngoài ra, Thái 
Nguyên còn có bãi đá cổ Thần Sa, Mái Đá 
Ngườm, nơi được coi là cái nôi của người tiền 
cổ. Cùng với đó, hang Phượng Hoàng, suối Mỏ 
Gà, thác Mưa Roi (huyện Võ Nhai), thác bảy 
tầng, cây đa nghìn tuổi (huyện Định Hóa)... là 
những tiềm năng du lịch lớn của tỉnh [3]. 
Thái Nguyên còn có tài nguyên du lịch nhân 
văn khá lớn với nhiều di tích lịch sử, công 
trình kiến trúc, nghệ thuật, phong tục, tập 
quán, lễ hội, truyền thống văn hóa đặc sắc của 
đồng bào các dân tộc thiểu số... Thái Nguyên 
là nơi có truyền thống cách mạng lâu đời, thủ 
đô kháng chiến – “Thủ đô gióa ngàn” trong 
kháng chiến chống thực dân Pháp. An toàn 
khu (ATK) với nhiều địa danh như: đồi Tỉn 
Keo – nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và 
làm việc; khu nhà làm việc của Bộ Chính trị, 
Bộ Quốc phòng là những di tích lịch sử vô 
cùng quý giá. Bên cạnh đó, với vị trí là trung 
tâm văn hóa của các dân tộc thiểu số miền 
núi, có Bảo tàng văn hóa của các dân tộc Việt 
Nam, Thái Nguyên có lợi thế lớn để phát triển 
đa dạng các loại hình du lịch. 
Với vị trí địa lí thuận lợi, đất đai, tài nguyên 
khoáng sản đa dạng, phong phú, tiềm năng du 
lịch sinh thái, du lịch lịch sử, du lịch về nguồn 
hấp dẫn, tỉnh Thái Nguyên có nhiều điều kiện 
thuận lợi mà nhiều tỉnh miền núi phía Bắc 
không có, giúp cho Thái Nguyên có tiềm 
năng phát triển, không chỉ hiện tại, mà cả 
trong tương lai. 
2. Tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung 
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản 
của tỉnh Thái Nguyên tăng trung bình 
40,4%/năm. Năm 2000 giá trị sản xuất ngành 
nông nghiệp chung đạt 1526,57 tỷ đồng (theo 
giá thực tế) đến năm 2010 tăng gấp 5,04 lần 
đạt 7696,58 tỷ đồng. Trong đó, giá trị sản 
xuất ngành nông nghiệp tăng nhanh nhất từ 
1445,13 tỷ đồng lên 7368,58 tỷ đồng (2000 – 
2010); giá trị sản xuất lâm nghiệp năm 2010 
tăng 3,19 lần so với năm 2000; giá trị sản xuất 
ngành thuỷ sản năm 2000 là 30,80 tỷ đồng 
tăng lên 166,30 tỷ đồng năm 2010. Đến năm 
2017, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 
đạt 12,75% (cao nhất trong vùng và cao gấp 
gần hai lần mức bình quân chung cả nước); cơ 
cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng 
tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, 
thương mại và dịch vụ. Năm 2017, khu vực 
công nghiệp - xây dựng chiếm 55,4%; khu 
vực dịch vụ chiếm 32%; khu vực nông - lâm - 
thủy sản chiếm 12,6%. 
Cơ cấu giá trị nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 
của tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2000 – 2017 
đã có sự chuyển dịch, tuy nhiên chưa rõ nét và 
ổn định do chịu nhiều tác động của yếu tố thị 
trường và dịch bệnh bùng phát trong những 
năm gần đây. Nhìn chung, trong cơ cấu giá trị 
ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ngành 
nông nghiệp giữ vị trí chủ yếu luôn chiếm trên 
90% giá trị sản xuất. Điều này được lý giải do 
trong những năm vừa qua tỉnh Thái Nguyên đã 
chú trọng đầu tư vào một số mặt hàng chủ yếu 
(cây trồng, vật nuôi) tạo năng suất và sản 
lượng cao, tạo dựng thương hiệu mạnh trên thị 
trường trong và ngoài tỉnh như: chè Tân 
Cương, gạo Bao Thai - Định Hoá, 
Nguyễn Thị Thu Oanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 45 - 50 
 Email: jst@tnu.edu.vn 48 
2.2. Ngành nông – lâm – thủy sản 
Đây là ngành giữ vai trò chủ đạo trong ngành 
kinh tế của tỉnh. Nhìn chung nông nghiệp và 
nông thôn Thái Nguyên trong những năm vừa 
qua có những chuyển biến tích cực, sản phẩm 
lương thực tăng nhanh và cơ bản bảo đảm an 
ninh lương thực tại chỗ. Cơ cấu kinh tế trồng 
trọt, chăn nuôi và khai thác, dịch vụ nông-
lâm-thủy sản đang từng bước chuyển đổi tích 
cực và sản xuất thêm nhiều mặt hàng, tạo 
thêm nhiều việc làm và nâng cao đời sống cho 
nhân dân. Tỷ trọng nông - lâm -thủy sản trong 
cơ cấu kinh tế của tỉnh giảm từ 33,68% 
(2000) xuống còn 21,73% năm 2010 và đến 
năm 2017 chiếm 12,6%. 
Tiềm năng phát triển nông – lâm nghiệp của 
tỉnh khá dồi dào. Năm 1997, diện tích trồng 
rừng là 2.175 ha, tăng 3,1%, đến năm 2017, 
đã tăng lên 6.684 ha [2]. Thái Nguyên tích 
cực triển khai thực hiện Đề án tái cơ cấu 
ngành nông nghiệp, từng bước chuyển đổi mô 
hình theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung; 
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, an toàn 
(tỉnh đang triển khai thí điểm việc dồn điền, 
đổi thửa, xây dựng cánh đồng mẫu lớn...,) 
phát triển kinh tế đồi rừng, kinh tế trang trại. 
Trong quá trình thực hiện chuyển đổi cơ cấu 
cây trồng, một trong những điểm mới của 
Thái Nguyên là sự hình thành kinh tế trang 
trại. Năm 2017, toàn tỉnh có hơn 1.000 trang 
trại, với quy mô vừa và nhỏ. Ngành thuỷ sản 
vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong giá trị nông – 
lâm – thuỷ sản của tỉnh. 
Có thể nói, từ năm 1997 – 2017, nông - lâm – 
thủy sản là những ngành kinh tế sản xuất quan 
trọng của tỉnh. Ngành này đang từng bước tiếp 
cận với sản xuất hàng hoá. Các sản phẩm nông 
nghiệp chủ yếu của tỉnh là thóc, chè, lạc, đậu 
tương, gia súc, gia cầm, hoa quả tươi. Cơ cấu 
sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi được chuyển 
dịch phù hợp với nhu cầu thị trường. 
2.3. Ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp 
Trong thời kỳ 1997 - 2017, GDP ngành tăng 
bình quân hằng năm 38,6%. Tỷ trọng của 
ngành trong GDP toàn tỉnh liên tục tăng lên 
qua các năm. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
theo hướng công nghiệp hóa đã góp phần 
quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế của 
tỉnh, từng bước khẳng định xu thế đúng đắn 
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. 
Công nghiệp có bước phát triển vượt bậc. Giá 
trị sản xuất công nghiệp tỉnh tính theo giá so 
sánh 1994 đạt 4.760 tỷ đồng năm 2005. Năm 
2009, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so 
sánh năm 1994) trên địa bàn là 9.912 tỷ đồng, 
bằng 99,6% kế hoạch đầu năm và bằng 
101,66% kế hoạch điều chỉnh, tăng 13,3% so 
với năm 2008. Giá trị sản xuất công nghiệp 
bình quân năm 2017 đạt hơn 571 nghìn tỷ 
đồng (đứng thứ 7 trong số 63 tỉnh, thành phố 
trong cả nước). Giá trị xuất khẩu bình quân 
năm 2017 tăng 23% đạt 23,563 tỷ USD 
(chiếm khoảng 11% giá trị xuất khẩu chung 
của cả nước). Khu vực kinh tế Nhà nước vẫn 
đóng vai trò quan trọng nhất trong ngành công 
nghiệp tỉnh và thường xuyên đóng góp trên 
70% cho giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh [2]. 
Đến năm 2017, toàn tỉnh có trên 10.452 cơ sở 
sản xuất công nghiệp. Trong số các cơ sở sản 
xuất công nghiệp lớn, điển hình là Công ty 
Gang thép Thái Nguyên, Công ty vật liệu xây 
dựng, Điện lực Thái Nguyên, Công ty phụ 
tùng máy số I, Công ty Natsteel Vina... Tỉnh 
Thái Nguyên đã tập trung đầu tư phát triển hạ 
tầng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, 
trong đó tập trung đẩy mạnh việc hoàn thành 
giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng kỹ 
thuật Khu công nghiệp Sông Công 2. Đồng 
thời, quan tâm, chú trọng tỷ lệ lấp đầy các khu 
công nghiệp (35%), cụm công nghiệp còn lại 
(74,7%); ưu tiên phát triển công nghiệp công 
nghệ cao, công nghiệp phụ trợ; chú trọng phát 
triển công nghiệp địa phương gắn với công 
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; ưu tiên hình 
thức liên doanh, liên kết sản xuất với các 
doanh nghiệp địa phương, hỗ trợ dẫn dắt các 
doanh nghiệp địa phương cùng phát triển. 
- Các ngành tiểu thủ công nghiệp 
Hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp của 
Thái Nguyên còn nhỏ bé, tập trung chủ yếu ở 
thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công, 
Nguyễn Thị Thu Oanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 45 - 50 
 Email: jst@tnu.edu.vn 49 
huyện Đồng Hỷ và huyện Phổ Yên. Trong 
những năm gần đây, một số lĩnh vực sản xuất 
và một số nghề đã từng bước được khôi phục 
và có chiều hướng phát triển như đan lát (cót, 
rổ rá, rọ tôm); sản xuất mía đường; chế biến 
mì, bún bánh và thêu ren. 
Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp 
đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng 
kinh tế của tỉnh, đáp ứng nhu cầu trong tỉnh 
về các loại sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và 
mở rộng thị trường ra ngoài tỉnh đối với một 
số sản phẩm. Sự phát triển tiểu thủ công 
nghiệp đã góp phần thúc đẩy tiến trình đô thị 
hoá nông thôn, hình thành thêm các thị trấn, 
thị tứ trên cơ sở hình thành những ngành nghề 
mới tại các xã và cụm xã, góp phần nâng cao 
dân trí, thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng kết 
cấu hạ tầng nông thôn. 
2.4. Ngành thương mại, dịch vụ, du lịch 
Nhìn chung, lĩnh vực dịch vụ tỉnh có mức tăng 
trưởng cao kể từ khi tách tỉnh đến nay (đạt bình 
quân 10,5% thời kỳ 1997 - 2005, năm 2005 
tăng 10,7% so với năm 2004, tăng bình quân 
cho cả giai đoạn 2007-2017 là trên 21,1%). 
Dịch vụ thương mại 
Dịch vụ thương mại đạt tốc độ tăng trưởng 
GDP bình quân thời kỳ 1997 - 2017 tăng 
nhanh. Phân ngành này luôn chiếm tỷ trọng 
tương đối lớn trong ngành dịch vụ tỉnh. Tổng 
mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ xã 
hội của Thái Nguyên tăng bình quân trên 
12,3% trong cả thời kỳ 1997 - 2017. 
Mạng lưới thương mại trên địa bàn tỉnh phát 
triển rộng khắp. Thương mại miền núi được 
quan tâm đầu tư phát triển nhiều hơn trong 
những năm gần đây. 
Dịch vụ du lịch - khách sạn – nhà hàng 
Điểm đáng lưu ý là mặc dù ngành du lịch được 
xác định là một ngành kinh tế có nhiều tiềm 
năng phát triển của tỉnh và được quan tâm đầu 
tư nhiều hơn trong những năm qua nhưng tỷ 
trọng ngành này trong GDP dịch vụ tỉnh lại 
không tăng lên trong suốt giai đoạn 2000 - 2002 
(chiếm 4,7%) và giảm đáng kể từ sau đó. Năm 
2005 phân ngành này chỉ chiếm 3,74% GDP 
toàn ngành dịch vụ. 
Từ năm 2000 đến nay, lượng khách du lịch 
tăng liên tục với tốc độ bình quân 58,6%/năm 
(riêng năm 2001 tăng gần 2,2 lần so với năm 
2000). Năm 2005 đạt 507 nghìn lượt (trong 
đó khách nước ngoài có trên 12,2 nghìn lượt). 
Doanh thu du lịch cũng tăng nhanh (bình 
quân 15%/năm). Năm 2010 đạt trên 27,2%. 
Đến năm 2017, du lịch Thái Nguyên đã duy 
trì ổn định tốc độ tăng trưởng du lịch đảm bảo 
mục tiêu đặt ra. Tổng số lượt khách đến Thái 
Nguyên là 2.229.700 lượt, tăng 8% so với 
cùng kỳ, trong đó khách quốc tế đạt 66.297 
lượt tăng 3,5% so với cùng kỳ, khách do cơ 
sở lưu trú phục vụ đạt 947.625 lượt tăng 5% 
so với cùng kỳ, khách du lịch đến các điểm 
tham quan 1.172.075 lượt tăng 10% so với 
cùng kỳ, khách do các công ty lữ hành phục 
vụ 110.000 lượt tăng 15% so với cùng kỳ. 
Tổng doanh thu từ các doanh nghiệp du lịch 
đạt 310 tỷ đồng tăng 24% so với cùng kỳ [2]. 
2.5. Xây dựng cơ sở hạ tầng 
Để tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế - xã hội 
phát triển, tỉnh Thái Nguyên rất coi trọng việc 
xây dựng cơ sở kết cấu hạ tầng. 
Trong những năm 1997 – 2017, Thái Nguyên 
huy động mọi nguồn vốn đầu tư cho xây dựng 
và sửa chữa các tuyến đường giao thông do 
địa phương quản lý. Mặt khác, tỉnh cũng 
tranh thủ tối đa các nguồn vốn viện trợ, vốn 
vay ODA (Quỹ giúp đỡ phát triển nước 
ngoài), đóng góp các tổ chức kinh tế, xã hội 
và sức dân để phát triển mạnh giao thông 
nông thôn. Hệ thống thông tin liên lạc trên địa 
bàn tiếp tục được hiện đại hóa, đảm thông tin 
ở trong nước và quốc tế thông suốt. Mạng 
lưới điện cũng được mở rộng tới phần lớn các 
xã trên địa bàn, góp phần cải thiện đời sống 
văn hóa tinh thần của nhân dân các dân tộc 
trong tỉnh. Hệ thống cấp nước ở đô thị và các 
khu công nghiệp được cải tạo nâng cấp. 
Những năm 1997 – 2017, tỉnh đã đầu tư xây 
dựng hệ thống cấp nước các thị trấn, thị tứ 
theo dự án; tiếp tục thực hiện chương trình 
nước sạch nông thôn và vệ sinh môi trường... 
Nguyễn Thị Thu Oanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 201(08): 45 - 50 
 Email: jst@tnu.edu.vn 50 
3. Một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy 
sự phát triển kinh tế tỉnh thái nguyên trong 
giai đoạn tiếp theo 
3.1. Giải pháp về vốn đầu tư 
- Đối với vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, 
cần phải phân định rõ thành phần vốn của 
Nhà nước, của nhân dân đóng góp. 
- Đối với vốn đầu tư phát triển các ngành sản 
xuất cần có chính sách đẩy mạnh hơn nữa quá 
trình tích lũy tập trung các nguồn vốn vào các 
ngành mũi nhọn và các khu vực trọng điểm [4]. 
Như vậy, phương châm là huy động tối đa và 
sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn để tạo ra 
sức bật cho ngành kinh tế toàn tỉnh. 
3.2. Phát triển nguồn nhân lực 
Nhìn chung, nguồn nhân lực của tỉnh Thái 
Nguyên rất dồi dào. Để tận dụng được nguồn 
nhân lực đáp ứng quá trình công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa cho sự phát triển kinh tế, xã hội 
thì Thái Nguyên cần phải có những biện pháp 
đào tạo, nâng cao hiệu quả, sử dụng lao động 
theo những hướng sau: 
- Nâng cao dân trí và trình độ học vấn cho 
nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa trong 
tỉnh bằng các hình thức thông tin đại chúng, 
văn hóa, thông tin tuyên truyền. 
- Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, dạy nghề, 
nâng cấp chất lượng các cấp học, phát triển 
các loại hình liên kết đào tạo. 
- Phát triển các ngành dịch vụ để giải quyết 
việc làm cho người lao động, dạy nghề cho 
con em đồng bào dân tộc nhằm mục đích sử 
dụng nguồn nhân lực tại chỗ. 
- Ưu tiên đào tạo cán bộ là người dân tộc, tạo 
điều kiện tiếp xúc với khoa học công nghệ, 
qua các lớp tập huấn. 
3.3. Nghiên cứu, đẩy mạnh ứng dụng khoa 
học công nghệ và bảo vệ môi trường 
- Đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học 
công nghệ vào mọi lĩnh vự sản xuất và các 
khâu quản lý. 
- Từng bước đồng bộ hóa công nghệ tiên tiến 
vào những ngành công nghiệp tạo sản phẩm 
mũi nhọn xuất khẩu như: chè, vật liệu xây 
dựng, khai thác và chế biến khoáng sản. 
- Ứng dụng công nghệ sinh học vào quá 
trình chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật 
nuôi. Phát triển mô hình nông - lâm kết hợp 
để tăng hiệu quả sử dụng, bảo vệ đất và bảo 
vệ môi trường. 
3.4. Đổi mới cơ chế quản lý 
Cần thực hiện triệt để việc cải cách hành 
chính, sắp xếp lại bộ máy quản lý của tỉnh sao 
cho gọn nhẹ và điều hành có hiệu lực, phù 
hợp với cơ chế quản lý mới. Phát huy hiệu 
quả vai trò của trung tâm giáo dục thường 
xuyên và trường chính trị để tiếp tục đào tạo, 
bồi dưỡng cán bộ công chức của tỉnh, đảm 
bảo yêu cầu về số lượng và chất lượng có 
trình độ lý luận chính trị, quản lý Nhà nước 
và trình độ chuyên môn cao [4]. 
4. Kết luận 
Hòa nhập với sự phát triển của đất nước, Thái 
Nguyên đã từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 
Tỉnh đã đạt được những kết quả bước đầu đáng 
phấn khởi: cơ sở vật chất tăng cường, đời sống 
nhân dân từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, 
trong cơ cấu nền kinh tế hiện nay của tỉnh, 
nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng lớn. Để phản 
ánh đúng điều kiền và tiềm năng, tương xứng 
với sự đầu tư và các lợi thế của địa phương, 
Thái Nguyên cần có nhiều giải pháp hơn nữa 
để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát huy nguồn 
lực sẵn có của mình, đáp ứng yêu cầu phát 
triển kinh tế- xã hội của đất nước. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân 
tỉnh Thái Nguyên, Địa chí Thái Nguyên, Nxb 
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.22, tr.68, 2009. 
[2]. Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên -Thai 
Nguyen Statistical YearBook, Thái Nguyên, 
tr.20, tr.195, tr.271, tr.303, 2017, 2018. 
[3]. Thái Nguyên - Thế và lực mới trong thế kỉ XXI, 
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.25 - 29, 2005. 
[4]. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Báo cáo 
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội 
tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020, tr.121 - 136, 
5/2007. 

File đính kèm:

  • pdfchuyen_dich_co_cau_kinh_te_tinh_thai_nguyen_giai_doan_1997_2.pdf