Chuyên đề "Một số quan điểm, phương pháp và kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo"
Dạy học nhóm thường được áp dụng để đi sâu, vận dụng, luyện tập, củng cố một chủ đề đã học, nhưng cũng có thể để tìm hiểu một chủ đề mới. Trong các môn khoa học tự nhiên, công việc nhóm có thể được sử dụng để tiến hành các thí nghiệm và tìm các giải pháp cho những vấn đề được đặt ra. Trong các môn nghệ thuật, âm nhạc, các môn khoa học xã hội, các đề tài chuyên môn có thể được xử lý độc lập trong các nhóm, các sản phẩm học tập sẽ được sẽ tạo ra. Trong môn ngoại ngữ có thể chuẩn bị các trò chơi đóng kịch,.
Ở mức độ cao, có thể đề ra những nhiệm vụ cho các nhóm HS hoàn toàn độc lập xử lý các lĩnh vực đề tài và trình bày kết quả của mình cho những HS khác ở dạng bài giảng.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề "Một số quan điểm, phương pháp và kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo"", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề "Một số quan điểm, phương pháp và kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo"
98 PHẦN 2. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ THUẬT DẠY HỌC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, SÁNG TẠO 2.1. DẠY HỌC NHÓM 2.1.1. Khái niệm Dạy học nhóm là một hình thức xã hội của dạy học, trong đó HS của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp. Dạy học nhóm còn được gọi bằng những tên gọi khác nhau như dạy học hợp tác, dạy học theo nhóm nhỏ. Dạy học nhóm không phải một phương pháp dạy học cụ thể mà là một hình thức xã hội, hay là hình thức hợp tác của dạy học. Cũng có tài liệu gọi đây là một hình thức tổ chức dạy học. Tuỳ theo nhiệm vụ cần giải quyết trong nhóm mà có những phương pháp làm việc khác nhau được sử dụng. Khi không phân biệt giữa hình thức và PPDH cụ thể thì dạy học nhóm trong nhiều tài liệu cũng được gọi là PPDH nhóm. Số lượng HS trong một nhóm thường khoảng 4 -6 HS. Nhiệm vụ của các nhóm có thể giống nhau hoặc mỗi nhóm nhận một nhiệm vụ khác nhau, là các phần trong một chủ đề chung. 99 Dạy học nhóm thường được áp dụng để đi sâu, vận dụng, luyện tập, củng cố một chủ đề đã học, nhưng cũng có thể để tìm hiểu một chủ đề mới. Trong các môn khoa học tự nhiên, công việc nhóm có thể được sử dụng để tiến hành các thí nghiệm và tìm các giải pháp cho những vấn đề được đặt ra. Trong các môn nghệ thuật, âm nhạc, các môn khoa học xã hội, các đề tài chuyên môn có thể được xử lý độc lập trong các nhóm, các sản phẩm học tập sẽ được sẽ tạo ra. Trong môn ngoại ngữ có thể chuẩn bị các trò chơi đóng kịch,.... Ở mức độ cao, có thể đề ra những nhiệm vụ cho các nhóm HS hoàn toàn độc lập xử lý các lĩnh vực đề tài và trình bày kết quả của mình cho những HS khác ở dạng bài giảng. 2.1.2. Các cách thành lập nhóm Có rất nhiều cách để thành lập nhóm theo các tiêu chí khác nhau, không nên áp dụng một tiêu chí duy nhất trong cả năm học. Bảng sau đây trình bày 10 cách theo các tiêu chí khác nhau: ☺: ưu điểm /: nhược điểm Tiêu chí Cách thực hiện - Ưu, nhược điểm ☺ Đối với HS thì đây là cách dễ chịu nhất để thành lập nhóm, đảm bảo công việc thành công nhanh nhất. 1. Các nhóm gồm những người tự nguyện, cùng hứng thú / Dễ tạo ra sự tách biệt giữa các nhóm trong lớp, vì vậy cách tạo lập nhóm như thế này không nên là khả năng duy nhất. 100 Bằng cách đếm số, phát thẻ, gắp thăm, sắp xếp theo màu sắc,.... ☺ Các nhóm luôn luôn mới sẽ đảm bảo là tất cả các HS đều có thể học tập chung nhóm với tất cả các HS khác. 2. Các nhóm ngẫu nhiên / Nguy cơ có trục trặc sẽ tăng cao. HS phải sớm làm quen với việc đó để thấy rằng cách lập nhóm như vậy là bình thường. 3. Nhóm ghép hình Xé nhỏ một bức tranh hoặc các tờ tài liệu cần xử lý. HS được phát các mẩu xé nhỏ, những HS ghép thành bức tranh hoặc tờ tài liệu đó sẽ tạo thành nhóm. ☺ Cách tạo lập nhóm kiểu vui chơi, không gây ra sự đối địch. / Cần một ít chi phí để chuẩn bị và cần nhiều thời gian hơn để tạo lập nhóm. Ví dụ tất cả những HS cùng sinh ra trong mùa đông, mùa xuân, mùa hè hoặc mùa thu sẽ tạo thành nhóm ☺ Tạo lập nhóm một cách độc đáo, tạo ra niềm vui và HS có thể biết nhau rõ hơn. 4. Các nhóm với những đặc điểm chung / Cách làm này mất đi tính độc đáo nếu được sử dụng thường xuyên. 101 Các nhóm được duy trì trong một số tuần hoặc một số tháng. Các nhóm này thậm chí có thể được đặt tên riêng. ☺ Cách làm này đã được chứng tỏ tốt trong những nhóm học tập có nhiều vấn đề. 5. Các nhóm cố định trong một thời gian dài / Sau khi đã quen nhau một thời gian dài thì việc lập các nhóm mới sẽ khó khăn. Những HS khá giỏi trong lớp cùng luyện tập với các HS yếu hơn và đảm nhận trách nhiệm của người hướng dẫn. ☺ Tất cả đều được lợi. Những HS giỏi đảm nhận trách nhiệm, những HS yếu được giúp đỡ. 6. Nhóm có HS khá để hỗ trợ HS yếu / Ngoài việc mất nhiều thời gian thì chỉ có ít nhược điểm, trừ khi những HS giỏi hướng dẫn sai. Những HS yếu hơn sẽ xử lý các bài tập cơ bản, những HS đặc biệt giỏi sẽ nhận được thêm những bài tập bổ sung. ☺ HS có thể tự xác định mục đích của mình. Ví dụ ai bị điểm kém trong môn toán thì có thể tập trung vào một số ít bài tập. 7. Phân chia theo năng lực học tập khác nhau / Cách làm này dẫn đến kết quả là nhóm học tập cảm thấy bị chia thành những HS thông minh và những HS kém. 102 8. Phân chia theo các dạng học tập Được áp dụng thường xuyên khi học tập theo tình huống. Những HS thích học tập với hình ảnh, âm thanh hoặc biểu tượng sẽ nhận được những bài tập tương ứng. ☺ HS sẽ biết các em thuộc dạng học tập như thế nào ? / HS chỉ học những gì mình thích và bỏ qua những nội dung khác 9. Nhóm với các bài tập khác nhau Ví dụ, trong khuôn khổ một dự án, một số HS sẽ khảo sát một xí nghiệp, một số khác khảo sát một cơ sở chăm sóc xã hội ☺ Tạo điều kiện học tập theo kinh nghiệm đối với những gì đặc biệt quan tâm. / Thường chỉ có thể được áp dụng trong khuôn khổ một dự án lớn. 10. Phân chia HS nam và nữ ☺ Có thể thích hợp nếu học về những chủ đề đặc trưng cho con trai và con gái, ví dụ trong giảng dạy về tình dục, chủ đề lựa chọn nghề nghiệp,... / Nếu bị lạm dụng sẽ dẫn đến mất bình đẳng nam nữ. 103 2.1.3. Tiến trình dạy học nhóm Tiến trình dạy học nhóm có thể được chia thành 3 giai đoạn cơ bản. 1) Nhập đề và giao nhiệm vụ 1. NHẬP ĐỀ VÀ GIAO NHIỆM VỤ • Giới thiệu chủ đề • Xác định nhiệm vụ các nhóm • Thành lập các nhóm 2. LÀM VIỆC NHÓM • Chuẩn bị chỗ làm việc • Lập kế hoạch làm việc • Thoả thuận quy tắc làm việc • Tiến hành giải quyết nhiệm vụ • Chuẩn bị báo cáo kết quả 3. TRÌNH BÀY KẾT QUẢ / ĐÁNH GIÁ • Các nhóm trình bày kết quả • Đánh giá kết quả Tiến trình dạy học nhóm Làm việc toàn lớp Làm việc toàn lớp Làm việc nhóm 104 Giai đoạn này được thực hiện trong toàn lớp, bao gồm những hoạt động chính sau: • Giới thiệu chủ đề chung của giờ học: thông thường GV thực hiện việc giới thiệu chủ đề, nhiệm vụ chung cũng như những chỉ dẫn cần thiết, thông qua thuyết trình, đàm thoại hay làm mẫu. Đôi khi việc này cũng được giao cho HS trình bày với điều kiện là đã có sự thống nhất và chuẩn bị từ trước cùng GV. • Xác định nhiệm vụ của các nhóm: xác định và giải thích nhiệm vụ cụ thể của các nhóm, xác định rõ những mục tiêu cụ thể cần đạt đuợc. Thông thường, nhiệm vụ của các nhóm là giống nhau, nhưng cũng có thể khác nhau. • Thành lập các nhóm làm việc: có rất nhiều phương án thành lập nhóm khác nhau. Tuỳ theo mục tiêu dạy học để quyết định cách thành lập nhóm. 2) Làm việc nhóm Trong giai đoạn này các nhóm tự lực thực hiện nhiệm vụ đuợc giao, trong đó có những hoạt động chính là: • Chuẩn bị chỗ làm việc nhóm: cần sắp xếp bàn ghế phù hợp với công việc nhóm, sao cho các thành viên có thể đối diện nhau để thảo luận. Cần làm nhanh để không tốn thời gian và giữ trật tự. • Lập kế hoạch làm việc: - Chuẩn bị tài liệu học tập; - Đọc sơ qua tài liệu ; 105 - Làm rõ xem tất cả mọi người có hiểu các yêu cầu của nhiệm vụ hay không ; - Phân công công việc trong nhóm ; - Lập kế hoạch thời gian. • Thoả thuận về quy tắc làm việc: - Mỗi thành viên đều có phần nhiệm vụ của mình; - Từng người ghi lại kết quả làm việc; - Mỗi người người lắng nghe những người khác; - Không ai được ngắt lời người khác. • Tiến hành giải quyết nhiệm vụ: - Đọc kỹ tài liệu; - Cá nhân thực hiện công việc đã phân công; - Thảo luận trong nhóm về việc giải quyết nhiệm vụ; - Sắp xếp kết quả công việc. • Chuẩn bị báo cáo kết quả trước lớp: - Xác định nội dung, cách trình bày kết quả; - Phân công các nhiệm vụ trình bày trong nhóm; - Làm các hình ảnh minh họa; - Quy định tiến trình bài trình bày của nhóm. 3) Trình bày và đánh giá kết quả • Đại diện các nhóm trình bày kết quả trước toàn lớp: thông thường trình bày miệng hoặc trình miệng với báo 106 cáo viết kèm theo. Có thể trình bày có minh hoạ thông qua biểu diễn hoặc trình bày mẫu kết quả làm việc nhóm. • Kết quả trình bày của các nhóm được đánh giá và rút ra những kết luận cho việc học tập tiếp theo. 2.1.4. Ưu điểm và nhược điểm của dạy học nhóm Ưu điểm: Ưu điểm chính của dạy học nhóm là thông qua cộng tác làm việc trong một nhiệm vụ học tập có thể phát triển tính tự lực, sáng tạo cũng như năng lực xã hội, đặc biệt là khả năng cộng tác làm việc, thái độ đoàn kết của HS. Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt, sẽ thực hiện được những chức năng và công dụng khác với dạy học toàn lớp, do đó có tác dụng bổ sung cho dạy học toàn lớp: • Phát huy tính tích cực, tự lực và tính trách nhiệm của HS: trong học nhóm, HS phải tự lực giải quyết nhiệm vụ học tập, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các thành viên, trách nhiệm với nhiệm vụ và kết quả làm việc của mình. Dạy học nhóm hỗ trợ tư duy, tình cảm và hành động độc lập, sáng tạo của HS. • Phát triển năng lực cộng tác làm việc: công việc nhóm là phương pháp làm việc được HS ưa thích. HS được luyện tập những kỹ năng cộng tác làm việc như tinh thần đồng đội, sự quan tâm đến những người khác và tính khoan dung. • Phát triển năng lực giao tiếp: thông qua cộng tác làm việc trong nhóm, giúp HS phát triển năng lực giao tiếp 107 như biết lắng nghe, chấp nhận và phê phán ý kiến người khác, biết trình bày, bảo vệ ý kiến của mình trong nhóm. • Hỗ trợ qúa trình học tập mang tính xã hội: dạy học nhóm là quá trình học tập mang tính xã hội. HS học tập trong mối tương tác lẫn nhau trong nhóm, có thể giúp đỡ lẫn nhau, tạo lập, củng cố các quan hệ xã hội và không cảm thấy phải chịu áp lực của GV. • Tăng cường sự tự tin cho HS: vì HS được liên kết với nhau qua giao tiếp xã hội, các em sẽ mạnh dạn hơn và ít sợ mắc phải sai lầm. Mặt khác, thông qua giao tiếp sẽ giúp khắc phục sự thô bạo, cục cằn. • Phát triển năng lực phương pháp: thông qua quá trình tự lực làm việc và làm việc nhóm giúp HS rèn luyện, phát triển phuơng pháp làm việc. • Dạy học nhóm tạo khả năng dạy học phân hoá: lựa chọn nhóm theo hứng thú chung hay lựa chọn ngẫu nhiên, các đòi hỏi như nhau hay khác nhau về mức độ khó khăn, cách học tập như nhau hay khác nhau, phân công công việc như nhau hoặc khác nhau, nam HS và nữ HS làm bài cùng nhau hay riêng rẽ. • Tăng cường kết quả học tập: những nghiên cứu so sánh kết quả học tập của HS cho thấy rằng, những trường học đạt kết quả dạy học đặc biệt tốt là những trường có áp dụng và tổ chức tốt hình thức dạy học nhóm. 108 Nhược điểm của dạy học nhóm • Dạy học nhóm đòi hỏi thời gian nhiều. Thời gian 45 phút của một tiết học cũng là một trở ngại trên con đường đạt được thành công cho công việc nhóm. Một quá trình học tập với các giai đoạn dẫn nhập vào một chủ đề, phân công nhiệm vụ, làm việc nhóm và tiếp theo là sự trình bày kết quả của nhiều nhóm, ... những việc đó khó được tổ chức một cách thỏa đáng trong một tiết học. • Công việc nhóm không phải bao giờ cũng mang lại kết quả mong muốn. Nếu được tổ chức và thực hiện kém, nó thường sẽ dẫn đến kết quả ngược lại với những gì dự định sẽ đạt. • Trong các nhóm chưa được luyện tập dễ xảy ra hỗn loạn. Ví dụ, có thể xảy ra chuyện là một HS phụ trách nhóm theo kiểu độc đoán, đa số các thành viên trong nhóm không làm bài mà lại quan tâm đến những việc khác, trong nhóm và giữa các nhóm có thể phát sinh tình trạng đối địch và giận dữ. Khi đó, sự trình bày kết quả làm việc sẽ cũng như bản thân quá trình làm việc của nhóm sẽ diễn ra theo cách không thỏa mãn. 2.1.5. Những chỉ dẫn đối với giáo viên Nếu muốn thành công với dạy học nhóm thì người GV phải nắm vững phương pháp thực hiện. Dạy học nhóm đòi hỏi GV phải có năng lực lập kế hoạch và tổ chức, còn HS phải có sự hiểu biết về phương pháp, được luyện tập và thông thạo cách học này. Khi lập kế hoạch, công việc nhóm phải được phản ánh trong toàn bộ quá trình dạy học. Ví dụ cần phải suy nghĩ xem cần sự hướng dẫn của GV như thế nào để các nhóm có thể làm 109 việc một cách hiệu quả. Điều kiện để HS đạt được thành công trong học tập cũng là phải nắm vững các kỹ thuật làm việc cơ bản. Thành công của công việc nhóm còn phụ thuộc vào việc đề ra các yêu cầu công việc một cách rõ ràng và phù hợp. Để phát huy cao hiệu quả của dạy học nhóm thì cần có thời gian thích hợp, có thể gồm một vài tiết học. Dạy học nhóm cũng có thể vận dụng xen kẽ trong một tiết thuyết trình để giải quyết một nhiệm vụ học tập nhỏ. Tuy nhiên nếu chỉ giới hạn trong hình thức này thì sẽ hạn chế hiệu quả của dạy học nhóm, và dễ gây nhàm chán cho học sinh. Mặt khác trong dạy học nhóm, cần chú ý đến việc tích cực hoá bên trong của hoạt động nhận thức của học sinh. Nên tránh việc sử dụng làm việc nhóm như một ”phong trào” đổi mới PPDH mang tính hình thức bên ngoài, mà cần chú ý đến kết quả dạy học thực tế. Sau đây là các câu hỏi kiểm tra dùng cho việc chuẩn bị dạy học nhóm: • Chủ đề có hợp với dạy học nhóm không? • Các nhóm làm việc với nhiệm vụ giống nhau hay khác nhau? • HS đã có đủ kiến thức điều kiện cho công việc nhóm chưa? • Cần trình bày nhiệm vụ làm việc nhóm nhóm như thế nào? • Cần chia nhóm theo tiêu chí nào? • Cần tổ chức phòng làm việc, kê bàn ghế như thế nào? Một số chú ý trong khi thực hiện dạy học nhóm: 110 • Cần luyện tập cho HS quy tắc làm việc nhóm; • Trao đổi về tiến trình làm việc nhóm; • Luyện tập về kỹ thuật làm việc nhóm; • Duy trì trật tự cần thiết trong làm việc nhóm; • GV quan sát các nhóm HS; • Giúp ổn định các nhóm làm việc khi cần thiết. V Bài tập 1. Ông/bà hãy so sánh ưu, nhược điểm của dạy học nhóm so với dạy học toàn lớp theo truyền thống quen thuộc. 2. Ông/bà hãy thảo luận với đồng nghiệp về khả năng áp dụng dạy học nhóm trong môn học mà mình phụ trách, tìm ra một số chủ đề có thể vận dụng dạy học nhóm. 3. Ông/bà hãy thảo luận với đồng nghiệp về vấn đề sau: Trong làm việc nhóm, dễ quan sát và đánh giá được hoạt động bên ngoài của HS, Nhưng có phải cứ có làm việc nhóm là có sự tích cực ”bên trong” hay không? Thông qua những yếu nào để nhận biết và tăng cường tính tích cực bên trong của HS trong hoạt động nhóm? 4. Ông/bà hãy xây dựng một ví dụ phác thảo một kế hoạch dạy học nhóm cho một đề tài cụ thể trong môn học. 2.2. DẠY HỌC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Dạy học giải quyết vấn đề (DH GQVĐ) là con đường quan trọng để phát huy tính tích cực của HS. Quan điểm dạy học này không xa lạ ở Việt Nam và đã được trình bày trong hầu hết 111 các giáo trình về PPDH đại cương và bộ môn. Bài này trình bày tóm tắt những nội dung cơ bản của DHGQVĐ nhằm làm cơ sở cho những PPDH phát huy tính tích cực tiếp theo sau. 2.2.1. Khái niệm vấn đề và dạy học giải quyết vấn đề Vấn đề là những câu hỏi hay nhiệm vụ đặt ra mà việc giải quyết chúng chưa có quy luật sẵn cũng như những tri thức, kỹ năng sẵn có chưa đủ giải quyết mà còn khó khăn, cản trở cần vượt qua. Một vấn đề được đặc trưng bởi ba thành phần: • Trạng thái xuất phát: không mong muốn; • Trạng thái đích: trạng thái mong muốn; • Sự cản trở. Cấu ... a chọn • Rút ra kết luận hành động. Ứng dụng • Dùng trong giai đoạn nhập đề vào một chủ đề; • Tìm các phương án giải quyết vấn đề; • Thu thập các khả năng lựa chọn và ý nghĩ khác nhau. Ưu điểm • Dễ thực hiện; • Không tốn kém; • Sử dụng được hiệu ứng cộng hưởng, huy động tối đa trí tuệ của tập thể; • Huy động được nhiều ý kiến; • Tạo cơ hội cho tất cả thành viên tham gia. Nhược điểm • Có thể đi lạc đề, tản mạn; • Có thể mất thời gian nhiều trong việc chọn các ý kiến thích hợp; 173 • Có thể có một số HS „quá tích cực“, số khác thụ động. Kỹ thuật động não được áp dụng phổ biến và nguời ta xây dựng nhiều kỹ thuật khác dựa trên kỹ thuật này, có thể coi là các dạng khác nhau của kỹ thuật động não. 2.6.2. Động não viết Khái niệm Động não viết là một hình thức biến đổi của động não. Trong động não viết thì những ý tưởng không được trình bày miệng mà được từng thành viên tham gia trình bày ý kiến bằng cách viết trên giấy về một chủ đề. Trong động não viết, các đối tác sẽ giao tiếp với nhau bằng chữ viết. HS đặt trước mình một vài tờ giấy chung, trên đó ghi chủ đề ở dạng dòng tiêu đề hoặc ở giữa tờ giấy. Các em thay nhau ghi ra giấy những gì mình nghĩ về chủ đề đó, trong trật tự. Trong khi đó, các em xem các dòng ghi của nhau và cùng lập ra một bài viết chung. Bằng cách đó có thể hình thành những câu chuyện trọn vẹn hoặc chỉ là bản thu thập các từ khóa. HS có thể thực hiện các cuộc nói chuyện bằng giấy bút cả khi làm bài trong nhóm. Sản phẩm có thể có dạng một lược đồ tư duy. Cách thực hiện • Đặt trên bàn 1-2 tờ giấy để ghi các ý tưởng, đề xuất của các thành viên; • Mỗi một thành viên viết những ý nghĩ của mình trên các tờ giấy đó; • Có thể tham khảo các ý kiến khác đã ghi trên giấy của các thành viên khác để tiếp tục phát triển ý nghĩ; 174 • Sau khi thu thập xong ý tưởng thì đánh giá các ý tưởng trong nhóm. Ưu điểm • Ưu điểm của phương pháp này là có thể huy động sự tham gia của tất cả HS trong nhóm; • Tạo sự yên tĩnh trong lớp học; • Động não viết tạo ra mức độ tập trung cao. Vì những HS tham gia sẽ trình bày những suy nghĩ của mình bằng chữ viết nên có sự chú ý cao hơn so với các cuộc nói chuyện bình thường bằng miệng; • Các HS đối tác cùng hoạt động với nhau mà không sử dụng lời nói. Bằng cách đó, thảo luận viết tạo ra một dạng tương tác xã hội đặc biệt; • Những ý kiến đóng góp trong cuộc nói chuyện bằng giấy bút thường được suy nghĩ đặc biệt kỹ. Nhược điểm • Có thể HS sa vào những ý kiến tản mạn, xa đề; • Do được tham khảo ý kiến của nhau, có thể một số HS ít có sự độc lập. 2.6.3. Động não không công khai • Động não không công khai cũng là một hình thức của động não viết. Mỗi một thành viên viết những ý nghĩ của mình về cách giải quyết vấn đề, nhưng chưa công khai, sau đó nhóm mới thảo luận chung về các ý kiến hoặc tiếp tục phát triển. 175 • Ưu điểm: mỗi thành viên có thể trình bày ý kiến cá nhân của mình mà không bị ảnh hưởng bởi các ý kiến khác. • Nhược điểm: không nhận được gợi ý từ những ý kiến của người khác trong việc viết ý kiến riêng. 2.6.4. Kỹ thuật XYZ Kỹ thuật XYZ là một kỹ thuật nhằm phát huy tính tích cực trong thảo luận nhóm. X là số người trong nhóm, Y là số ý kiến mỗi người cần đưa ra, Z là phút dành cho mỗi người. Ví dụ kỹ thuật 635 thực hiện như sau: • Mỗi nhóm 6 người, mỗi người viết 3 ý kiến trên một tờ giấy trong vòng 5 phút về cách giải quyết 1 vấn đề và tiếp tục chuyển cho người bên cạnh; • Tiếp tục như vậy cho đến khi tất cả mọi người đều viết ý kiến của mình, có thể lặp lại vòng khác; • Con số X-Y-Z có thể thay đổi; • Sau khi thu thập ý kiến thì tiến hành thảo luận, đánh giá các ý kiến. 2.6.5. Kỹ thuật “bể cá” Kỹ thuật bể cá là một kỹ thuật dùng cho thảo luận nhóm, trong đó một nhóm HS ngồi giữa lớp và thảo luận với nhau, còn những HS khác trong lớp ngồi xung quanh ở vòng ngoài theo dõi cuộc thảo luận đó và sau khi kết thúc cuộc thảo luận thì đưa ra những nhận xét về cách ứng xử của những HS thảo luận. Trong nhóm thảo luận có thể có một vị trí không có người ngồi. HS tham gia nhóm quan sát có thể thay nhau ngồi vào chỗ đó và đóng góp ý kiến vào cuộc thảo luận, ví dụ đưa ra một câu 176 hỏi đối với nhóm thảo luận hoặc phát biểu ý kiến khi cuộc thảo luận bị chững lại trong nhóm. Cách luyện tập này được gọi là phương pháp thảo luận “bể cá”, vì những người ngồi vòng ngoài có thể quan sát những người thảo luận, tương tự như xem những con cá trong một bể cá cảnh. Trong quá trình thảo luận, những người quan sát và những người thảo luận sẽ thay đổi vai trò với nhau. Bảng câu hỏi cho những người quan sát • Người nói có nhìn vào những người đang nói với mình không ? • Họ có nói một cách dễ hiểu không ? • Họ có để những người khác nói hay không ? • Họ có đưa ra được những luận điểm đáng thuyết phục hay không ? • Họ có đề cập đến luận điểm của người nói trước mình không ? • Họ có lệch hướng khỏi đề tài hay không ? • Họ có tôn trọng những quan điểm khác hay không ? 2.6.6. Kỹ thuật “ổ bi” Kỹ thuật “ổ bi” là một kỹ thuật dùng trong thảo luận nhóm, trong đó HS chia thành hai nhóm ngồi theo hai vòng tròn đồng tâm như hai vòng của một ổ bi và đối diện nhau để tạo điều kiện cho mỗi HS có thể nói chuyện với lần lượt các HS ở nhóm khác. Cách thực hiện: 177 • Khi thảo luận, mỗi HS ở vòng trong sẽ trao đổi với HS đối diện ở vòng ngoài, đây là dạng đặc biệt của phương pháp luyện tập đối tác; • Sau một ít phút thì HS vòng ngoài ngồi yên, HS vòng trong chuyển chỗ theo chiều kim đồng hồ, tương tự như vòng bi quay, để luôn hình thành các nhóm đối tác mới. 2.6.7. Tranh luận ủng hộ – phản đối Tranh luận ủng hộ – phản đối (tranh luận chia phe) là một kỹ thuật dùng trong thảo luận, trong đó đề cập về một chủ đề có chứa đựng xung đột. Những ý kiến khác nhau và những ý kiến đối lập được đưa ra tranh luận nhằm mục đích xem xét chủ đề dưới nhiều góc độ khác nhau. Mục tiêu của tranh luận không phải là nhằm “đánh bại” ý kiến đối lập mà nhằm xem xét chủ đề dưới nhiều phương diện khác nhau. Cách thực hiện: • Các thành viên được chia thành hai nhóm theo hai hướng ý kiến đối lập nhau về một luận điểm cần tranh luận. Việc chia nhóm có thể theo nguyên tắc ngẫu nhiên hoặc theo nguyên vọng của các thành viên muốn đứng trong nhóm ủng hộ hay phản đối. • Một nhóm cần thu thập những lập luận ủng hộ, còn nhóm đối lập thu thập những luận cứ phản đối đối với luận điểm tranh luận. • Sau khi các nhóm đã thu thập luận cứ thì bắt đầu thảo luận thông qua đại diện của hai nhóm. Mỗi nhóm trình bày một lập luận của mình: Nhóm ủng hộ đưa ra một 178 lập luận ủng hộ, tiếp đó nhóm phản đối đưa ra một ý kiến phản đối và cứ tiếp tục như vậy. Nếu mỗi nhóm nhỏ hơn 6 người thì không cần đại diện mà mọi thành viên có thể trình bày lập luận. • Sau khi các lập luận đã đưa ra thì tiếp theo là giai đoạn thảo luận chung và đánh giá, kết luận thảo luận. 2.6.8. Thông tin phản hồi trong quá trình dạy học Thông tin phản hồi trong quá trình dạy học là GV và HS cùng nhận xét, đánh giá, đưa ra ý kiến đối với những yếu tố cụ thể có ảnh hưởng tới quá trình học tập nhằm mục đích là điều chỉnh, hợp lí hoá quá trình dạy và học. Những đặc điểm của việc đưa ra thông tin phản hồi tích cực là: • Có sự cảm thông; • Có kiểm soát; • Cụ thể; • Không nhận xét về giá trị; • Đúng lúc; • Có thể biến thành hành động; • Cùng thảo luận, khách quan. Sau đây là những quy tắc trong việc đưa thông tin phản hồi: • Diễn đạt ý kiến một cách đơn giản và có trình tự (không nói quá nhiều); 179 • Cố gắng hiểu được những suy tư, tình cảm (không vội vã); • Tìm hiểu các vấn đề cũng như nguyên nhân của chúng; • Giải thích những quan điểm không đồng nhất; • Chấp nhận cách thức đánh giá của người khác; • Chỉ tập trung vào những vấn đề có thể giải quyết được trong thời điểm thực tế; • Coi cuộc trao đổi là cơ hội để tiếp tục cải tiến; • Chỉ ra các khả năng để lựa chọn. Có nhiều kỹ thuật khác nhau trong việc thu nhận thông tin phản hồi trong dạy học. Ngoài việc sử dụng các phiếu đánh giá, sau đây là một số kỹ thuật có thể áp dụng trong dạy học nói chung và trong thu nhận thông tin phản hồi. 2.6.9. Kỹ thuật tia chớp Kỹ thuật tia chớp là một kỹ thuật huy động sự tham gia của các thành viên đối với một câu hỏi nào đó, hoặc nhằm thu thông tin phản hồi nhằm cải thiện tình trạng giao tiếp và không khí học tập trong lớp học, thông qua việc các thành viên lần lượt nêu ngắn gọn và nhanh chóng (như chớp!) ý kiến của mình về câu hỏi hoặc tình trạng vấn đề. Quy tắc thực hiện: • Có thể áp dụng bất cứ thời điểm nào khi các thành viên thấy cần thiết và đề nghị; 180 • Lần lượt từng người nói suy nghĩ của mình về một câu hỏi đã thoả thuận, ví dụ: Hiện tại tôi có hứng thú với chủ đề thảo luận không? • Mỗi người chỉ nói ngắn gọn 1-2 câu ý kiến của mình; • Chỉ thảo luận khi tất cả đã nói xong ý kiến. 2.6.10. Kỹ thuật “3 lần 3” Kỹ thuật “3 lần 3“ là một kỹ thuật lấy thông tin phản hồi nhằm huy động sự tham gia tích cực của HS. Cách làm như sau: • HS được yêu cầu cho ý kiến phản hồi về một vấn đề nào đó (nội dung buổi thảo luận, phương pháp tiến hành thảo luận...). • Mỗi người cần viết ra: - 3 điều tốt; - 3 điều chưa tốt; - 3 đề nghị cải tiến. • Sau khi thu thập ý kiến thì xử lý và thảo luận về các ý kiến phản hồi. 2.6.11. Lược đồ tư duy Khái niệm Lược đồ tư duy (bản đồ tư duy, bản đồ khái niệm) là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng mang tính kế hoạch hay kết quả làm việc của cá nhân hay nhóm về một chủ đề. Lược đồ tư duy có thể được viết trên giấy, trên bản trong, trên bảng hay thực hiện trên máy tính. 181 Cách làm • Viết tên chủ đề ở trung tâm, hay vẽ một hình ảnh phản ánh chủ đề. • Từ chủ đề trung tâm, vẽ các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết một khái niệm, phản ánh một nội dung lớn của chủ đề, viết bằng CHỮ IN HOA. Nhánh và chữ viết trên đó được vẽ và viết cùng một màu. Nhánh chính đó được nối với chủ đề trung tâm. Chỉ sử dụng các thuật ngữ quan trọng để viết trên các nhánh. • Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc nhánh chính đó. Các chữ trên nhánh phụ được viết bằng chữ in thường. • Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo. Ứng dụng của lược đồ tư duy Lược đồ tư duy có thể ứng dụng trong nhiều tình huống khac nhau như: • Tóm tắt nội dung, ôn tập một chủ đề; • Trình bày tổng quan một chủ đề; • Chuẩn bị ý tưởng cho một báo cáo hay buổi nói chuyện, bài giảng; • Thu thập, sắp xếp các ý tưởng; • Ghi chép khi nghe bài giảng. 182 Ưu điểm của lược đồ tư duy • Các hướng tư duy được để mở ngay từ đầu; • Các mối quan hệ của các nội dung trong chủ đề trở nên rõ ràng; • Nội dung luôn có thể bổ sung, phát triển, sắp xếp lại; • Hoc sinh được luyện tập phát triển, sắp xếp các ý tưởng. Ví dụ lược đồ tư duy Sau đây là ví dụ sử dụng lược đồ tư duy để hệ thống hoá các khái niệm trong phạm trù PPDH. Các nhánh chính thể hiện các khái niệm lớn của phạm trù PPDH. Trên mỗi nhánh đó là các khái niệm nhỏ hơn. 183 V Câu hỏi và bài tập 1. Ông/bà hãy thảo luận với đồng nghiệp về khả năng áp dụng các kỹ thuật dạy học tích cực trong môn học mà mình phụ trách. 2. Ông/bà hãy xây dựng một ví dụ phác thảo kế hoạch dạy học cho một bài dạy học trong đó sử dụng các kỹ thuật dạy học tích cực. 3. Ông/bà hãy mô tả một số kỹ thuật dạy học tích cực khác mà mình đã biết hoặc đã vận dụng. Tài liệu tham khảo 1. Bộ Giáo dục và đào tạo: Chương trình giáo dục phổ thông. Những vấn đề chung. NXB Giáo dục 2006 2. Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010. NXB Giáo dục, 2005 3. Dự án phát triển giáo dục THPT: Đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực nhận thức của HS THPT. Một số ví dụ cho các môn học. Tài liệu sản phẩm dự án của nhóm chuyên gia PPDH. 2006 4. Victor Jakupec/Bernd Meier/Nguyễn Văn Cường: Các xu hướng quốc tế trong xây dựng chương trình dạy học và sự liên hệ với chương trình THPT ở Việt Nam. Tạp chí Giáo dục số 40, kỳ 2-6/2006 184 5. Trần Bá Hoành: Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo khoa. NXB Đại học sư phạm. Hà nội 2006 6. Bernd Meier /Nguyễn Văn Cường: Phát triển năng lực thông qua phương pháp và phương tiện dạy học mới (Tài liệu hội thảo -Tập huấn). Bộ giáo dục và đào tạo – Dự án phát triển giáo dục THPT, 2005 7. Apel, H.J./ Knoll, M.: Aus Projekten lernen. München, 2001 8. Baumgart, F.: Entwicklungs- und Lerntheorien. Bad Heilbrunn, 2001 9. Bodenmann, G.: Klassische Lerntheorien. Bern, 2004 10. Dewey, J.: Demokratie und Erziehung. Weinheim und Basel, 2000 11. Edelmann, W.: Lernpychologie. Weinheim, 2000 12. Frey, K. : Die Projektmethode. Weinheim und Basel, 2002 13. Gudjons, H.: Handlungsorientiert lehren und lernen: Projektunterricht und Schueleraktivität. Bad Heilbrunn, 1997 14. Hänsel, D.: Projektunterricht. Weinheimund Basel, 1999 15. Hungienschmidt, B./Technau, A.: Methoden schnell zur Hand. München, 2004 185 16. Klingberg, L.: Einführung in die Allgemeine Didaktik. Berlin (Ost), 1982 17. Mattes,W.: Methoden für den Unterricht. Schöningh, 2005 18. Meyer, H. : Unterrichtsmethoden. Berlin 2002 19. Peterßen, W.H.: Kleines Methoden – Lexikon. München, 2005 20. Robinsohn, S. B.: Bildungsreform als Revision des Curriculum, Neuwied und Berlin.1967 21. Straka,G.A./ Macke,G.: Lern-Lehrtheoretische Didaktik. Münster und München, 2005 22. Terhart, E.: Lehr-Lern-Methoden. Weinheim und München, 2000 23. (Zugriff am 2009/12/17) 24. (Zugriff am 2009/12/17) 25. (Zugriff am 2009/12/17) Μέθοδοιμέθοδος ISBN 3-932598-21-0 Das Buch wurde im Rahmen von Projekten der vietnamesischen Regie- rung zu Bildungsreformen in der Lehrerbildung und in der Sekundarstufe II entwickelt. Die Autoren waren internationale Berater der Projekte. Das Buch stellt theoretische und praktische Grundlagen der Methodenreform dar. Methode wird in ihrem ursprünglichen, d.h. griechischen Sinn „Me- thodos (Μέθοδος)“ als Weg zum Ziel verstanden. Beschrieben werden konkrete Unterrichtskonzepte, Methoden und Techniken. Das Buch ist in vietnamesischer Sprache verfasst. Cuốn sách được biên soạn trong phạm vi các dự án cải cách giáo dục của Việt Nam về đào tạo giáo viên và phát triển giáo dục trung học phổ thông. Các tác giả là chuyên gia quốc tế của dự án. Nội dung sách đề cập đến cơ sở lý luận và thực tiễn, các biện pháp đổi mới phương pháp dạy học cũng như một số quan điểm, phương pháp và kỹ thuật dạy học. Autoren: Dr. Nguyen Van Cuong, Internationaler Consultant, Mitarbeiter an der Professur für Technologie und berufliche Orientierung an der Universität Potsdam Prof. Dr. habil. Bernd Meier, Professor für Technologie und berufliche Orientierung an der Universität Potsdam M Ộ T S Ố V Ấ N Đ Ề C H U N G V Ề Đ Ổ I M Ớ I P H Ư Ơ N G P H Á P D Ạ Y H Ọ C Ở T R Ư Ờ N G T R U N G H Ọ C P H Ổ T H Ô N G N G U Y Ễ N V Ă N C Ư Ờ N G B E R N D M E IE R
File đính kèm:
- chuyen_de_mot_so_quan_diem_phuong_phap_va_ky_thuat_day_hoc_p.pdf