Chuyển biến tâm lý, sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần của nữ trí thức ở độ tuổi 56 - 60 đang tham gia hoạt động kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh

Mục đích của bài báo là tìm hiểu những khía cạnh tâm lý và tình trạng sức khỏe thể chất và

tinh thần của nữ trí thức khi bước vào tuổi nghỉ hưu 55 tuổi sớm hơn nam 5 tuổi, nhằm đem lại

những minh chứng biện hộ cho những đề nghị bình đẳng giới về tuổi nghỉ hưu. Bài báo là kết

quả của một nghiên cứu dựa trên một cuộc khảo sát định lượng theo bảng hỏi 400 nữ trí thức

trong độ tuổi 56 - 60 tại Thành phố Hồ Chí Minh và phỏng vấn sâu 40 trường hợp.

Nghiên cứu cho thấy tâm trạng chung của nữ trí thức là buồn vì không được tiếp tục làm

việc, đóng góp cho cơ quan và cho xã hội, trong lúc nam giới cùng độ tuổi vẫn tiếp tục làm việc.

Nữ trí thức quan niệm rằng làm việc đến 60 tuổi như nam giới thể hiện quyền bình đẳng mà

chính sách phải thừa nhận chứ không “xin” được làm việc.

Ở độ tuổi 56- 60, sức khỏe thể lực và tinh thần của nữ trí thức không thua kém nam giới.

Khả năng thích nghi với hoàn cảnh của nữ trí thức rất cao. Họ đã biết trước chính sách của

nhà nước về tuổi hưu và đã tích cực chuẩn bị công việc của mình sau khi nghỉ hưu, nhưng đồng

thời họ phản ứng mạnh mẽ sự phân biệt đối xử về tuổi hưu dẫn đến nhiều thiệt thòi cho bản thân

và bất lợi cho mục tiêu bình đẳng giới. Họ quan niệm nữ giới nghỉ hưu ở 60 tuổi như nam giới là

một quyền chứ không hàm ý xin chính sách.

pdf 12 trang kimcuc 3400
Bạn đang xem tài liệu "Chuyển biến tâm lý, sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần của nữ trí thức ở độ tuổi 56 - 60 đang tham gia hoạt động kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyển biến tâm lý, sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần của nữ trí thức ở độ tuổi 56 - 60 đang tham gia hoạt động kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh

Chuyển biến tâm lý, sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần của nữ trí thức ở độ tuổi 56 - 60 đang tham gia hoạt động kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (48) 2016 127 
CHUYỂN BIẾN TÂM LÝ, SỨC KHỎE THỂ CHẤT VÀ SỨC KHỎE 
TINH THẦN CỦA NỮ TRÍ THỨC Ở ĐỘ TUỔI 56 - 60 
ĐANG THAM GIA HOẠT ĐỘNG KINH TẾ 
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Ngày nhận bài: 26/02/2016 Thái Thị Ngọc Dư1 
Ngày nhận lại: 23/03/2016 
Ngày duyệt đăng: 18/04/2016 
TÓM TẮT 
Mục đích của bài báo là tìm hiểu những khía cạnh tâm lý và tình trạng sức khỏe thể chất và 
tinh thần của nữ trí thức khi bước vào tuổi nghỉ hưu 55 tuổi sớm hơn nam 5 tuổi, nhằm đem lại 
những minh chứng biện hộ cho những đề nghị bình đẳng giới về tuổi nghỉ hưu. Bài báo là kết 
quả của một nghiên cứu dựa trên một cuộc khảo sát định lượng theo bảng hỏi 400 nữ trí thức 
trong độ tuổi 56 - 60 tại Thành phố Hồ Chí Minh và phỏng vấn sâu 40 trường hợp. 
Nghiên cứu cho thấy tâm trạng chung của nữ trí thức là buồn vì không được tiếp tục làm 
việc, đóng góp cho cơ quan và cho xã hội, trong lúc nam giới cùng độ tuổi vẫn tiếp tục làm việc. 
Nữ trí thức quan niệm rằng làm việc đến 60 tuổi như nam giới thể hiện quyền bình đẳng mà 
chính sách phải thừa nhận chứ không “xin” được làm việc. 
Ở độ tuổi 56- 60, sức khỏe thể lực và tinh thần của nữ trí thức không thua kém nam giới. 
Khả năng thích nghi với hoàn cảnh của nữ trí thức rất cao. Họ đã biết trước chính sách của 
nhà nước về tuổi hưu và đã tích cực chuẩn bị công việc của mình sau khi nghỉ hưu, nhưng đồng 
thời họ phản ứng mạnh mẽ sự phân biệt đối xử về tuổi hưu dẫn đến nhiều thiệt thòi cho bản thân 
và bất lợi cho mục tiêu bình đẳng giới. Họ quan niệm nữ giới nghỉ hưu ở 60 tuổi như nam giới là 
một quyền chứ không hàm ý xin chính sách. 
Từ khóa: Nữ trí thức ở độ tuổi trên 50; tâm lý; sức khỏe; khả năng thích nghi của nữ trí 
thức; tuổi nghỉ hưu. 
Psychological state, mental and physical health of active women intellectuals aged 
56 - 60 in Ho Chi Minh City 
ABSTRACT 
The objective of the article is to assess psychological state as well as mental and physical 
health status of women intellectuals while entering the retirement age at 55 years old, 5 years 
earlier than men. The article aimed at making advocacy for a gender equality policy regarding 
the retirement age in Vietnam. Data collection were from a survey on 400 women intellectuals 
aged 56 – 60 and from 40 in-depth interviews in Ho Chi Minh City. 
The main findings show that unhappiness is the general state of women intellectuals because 
they have to stop their work while men continue to work up to the age of 60. Women intellectuals 
consider that it is their right to work up to 60 years old as equal to men, that they do not have to 
make solicitation to their superiors. 
1
1
 TS, Trường Đại học Hoa Sen. Email: du.thaithingoc@hoasen.edu.vn 
128 GIÁO DỤC – XÃ HỘI 
At the age of 56 -60, there is no difference in term of health between women intellectuals 
and men at the same age group. 
Women intellectuals have strong capability of adaptation to their new situation after 
retirement. In general, they have well prepared new activities and work for their new life, but at 
the same time, they protested strongly against the discrimination toward women regarding the 
retirement policy that causes big disadvantages for women and for the objectives of gender 
equality. They insisted on their right to benefit equal age of retirement. 
Keywords: Women Intellectuals aged over 50; Psychology; Health; Women Intellectuals’ 
Adaptability; Retirement Age. 
1. Mở đầu 
Nội dung bài báo này là một phần của đề 
tài nghiên cứu “Thực trạng năng lực chuyên 
môn và quản lý của nữ trí thức trong độ tuổi 
56 - 60 tuổi tại Thành phố Hồ Chí Minh” 
(TPHCM) do Trung tâm Nghiên cứu Giới và 
Xã hội- trường Đại học Hoa Sen thực hiện 
trong hai năm 2014 và 2015, trong khuôn khổ 
các đề tài nghiên cứu do Sở Khoa học và 
Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh quản lý. 
TP. HCM là nơi quy tụ một lực lượng lao 
động nữ đáng kể có trình độ chuyên môn 
nghiệp vụ cao. Thực chất của lực lượng này 
cần được khảo sát và đánh giá một cách khoa 
học để toàn dụng được họ, đáp ứng nhu cầu 
về nguồn nhân lực có trình độ của các cơ 
quan nhà nước và các thành phần kinh tế 
khác, đáp ứng ước muốn làm việc của phụ nữ 
trí thức và của mục tiêu bình đẳng giới. Bài 
báo này đặc biệt chú trọng đến lực lượng nữ 
trí thức ở độ tuổi từ 56 đến 60 tuổi tại TP. 
HCM. Lý do nghiên cứu độ tuổi này của nữ 
trí thức vì đây là độ tuổi mà đa phần nữ trí 
thức bắt đầu nghỉ hưu, trong lúc họ vẫn còn 
sức khỏe, năng lực và kinh nghiệm để tiếp tục 
làm việc và đóng góp cho xã hội. Nữ trí thức 
đã trải qua những chuyển biến tâm lý trước và 
sau khi nghỉ hưu và tình trạng sức khỏe của 
họ có những đặc điểm gì. Đó là nội dung 
phân tích của bài báo này, dựa trên kết quả 
khảo sát 400 nữ trí thức trong độ tuổi 56-60 
tuổi tại Thành phố Hồ Chí Minh và 40 trường 
hợp phỏng vấn sâu. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
Bên cạnh các phương pháp phân tích và 
tổng hợp các tài liệu thứ cấp, đề tài đã sử 
dụng phương pháp điều tra xã hội với hai 
công cụ chính là bảng hỏi cấu trúc và phỏng 
vấn sâu. Một cuộc phỏng vấn định tính sơ bộ 
được tiến hành trước, tiếp theo là phỏng vấn 
định lượng được gối đầu bởi các cuộc phỏng 
vấn sâu. Phần phân tích tâm lý được đề cập 
đến trong bài này chủ yếu dựa vào kết quả 
phỏng vấn sâu. 
Kết quả phỏng vấn định lượng được xử lý 
bằng phần mềm Statistical Package for the 
Social Sciences (SPSS). Thông tin phỏng vấn 
sâu được phân loại và sắp xếp theo các chủ đề 
phân tích được định trước. 
2.1. Bảng hỏi cấu trúc 
Quy mô mẫu và cơ cấu mẫu 
Quy mô mẫu gồm 400 phụ nữ trong độ 
tuổi 56 -60 đang sinh sống tại TPHCM, có 
trình độ học vấn từ tốt nghiệp đại học trở lên. 
Đề tài sử dụng phương pháp chọn mẫu tình 
cờ, tiện lợi, nhưng có chú ý đến địa bàn cư trú 
là các quận nội thành và nhất là sự đa dạng 
ngành nghề khả dĩ phản ánh được cơ cấu 
ngành nghề thực của nữ trí thức. 
Ngành nghề 
Phần lớn phụ nữ trong cuộc khảo sát làm 
việc trong ngành giáo dục, với 13% là giảng 
viên đại học và 25% là giáo viên phổ thông. 
Một tỷ lệ nhỏ hơn làm việc trong các ngành 
kinh tế và kỹ thuật. Có khá nhiều bác sĩ và 
dược sĩ trong thống kê ngành kỹ thuật. Tuy 
không có số liệu cụ thể, vẫn có thể nhận định 
rằng cơ cấu của mẫu phản ánh khá xác thực 
cơ cấu thực của nữ trí thức. 
Ngành nghề của các phụ nữ khá đa dạng, 
ngoài những ngành chính nêu trên, còn có các 
nhóm làm việc trong các lĩnh vực hành chính, 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (48) 2016 129 
luật, tư vấn, đoàn thể, xã hội, văn nghệ sĩ, làm 
việc tại nhà. 
Trình độ học vấn 
Cơ cấu mẫu theo trình độ học vấn có 3/4 
số phụ nữ có trình độ đại học (cử nhân, kỹ 
sư), và trong phần còn lại, số có bằng thạc sĩ 
chiếm tỷ lệ cao hơn số tiến sĩ. Cơ cấu này 
cũng phản ánh đúng tình hình thực tế. Đáng 
lưu ý là số có bằng tiến sĩ chiếm 7%, đó là 
một tỷ lệ cao, chứng tỏ lớp tuổi 56 – 60 tại 
thời điểm 2014 đã bao gồm những phụ nữ có 
trình độ học vấn cao. 
Bảng 1. Thông tin về cá nhân tham gia phỏng vấn 
Đặc điểm N % 
Tuổi 56 97 24.3 
57 105 26.3 
58 62 15.5 
59 60 15.0 
60 45 11.3 
61 25 6.3 
62 3 0.8 
63 2 0.5 
64 1 0.3 
Tổng số 400 100.0 
Ngành nghề 
(lĩnh vực làm 
việc trước 56 
tuổi) 
Giảng viên đại học 52 13.0 
Giáo viên phổ thông 102 25.5 
Kỹ thuật (*) 43 10.8 
Kinh tế (**) 71 17.8 
Xã hội (***) 96 24.0 
Khác (****) 36 9.0 
Tổng số 400 100.0 
Trình độ học 
vấn 
Cử nhân/ Kỹ sư/ Bác sĩ 306 76.5 
Thạc sĩ 56 14.0 
Tiến sĩ 28 7.0 
Khác (*****) 10 2.5 
Tổng số 400 100.0 
Nguồn: Điều tra của nhóm nghiên cứu (2014). 
Ghi chú: 
(*) Kỹ thuật: bác sĩ, dược sĩ, y tế, sức khỏe, xây dựng, thiết kế, kỹ sư, hóa học, chăn nuôi 
(**) Kinh tế: kế toán, tài chính, doanh nghiệp, du lịch, tư vấn kinh tế 
(***) Xã hội: luật, pháp lý, hành chính, tư vấn khoa học xã hội, công tác xã hội, tâm lý, đoàn thể 
(****) Khác: các hình thức làm việc tại nhà như buôn bán, dạy nghề tư nhân, nhà trẻ tư nhân 
(*****) Khác: giáo sư, phó giáo sư, cao đẳng có thâm niên làm việc, nghệ sĩ kịch nói. 
130 GIÁO DỤC – XÃ HỘI 
2.2. Phỏng vấn sâu đã được thực hiện với 
- 15 nữ trí thức 56 – 60 tuổi nhằm tìm 
hiểu lịch sử phát triển nghề nghiệp, nhận thức, 
cảm xúc, khủng hoảng khi về hưu, những rào 
cản trong công việc và hoài bão của nữ trí 
thức, những đề nghị về chính sách nhằm thúc 
đẩy bình đẳng giới. 
- 5 nữ trí thức ở độ tuổi gần nghỉ hưu (53 
– 55 tuổi): tìm hiểu những diễn biến tâm lý 
trước sự kiện nghỉ hưu, chuẩn bị cho việc nghỉ 
hưu, mong muốn, những đề nghị về chính 
sách nhằm thúc đẩy bình đẳng giới. 
3. Tổng quan tư liệu 
Tài liệu tiếng Việt liên quan đến tình trạng 
sức khỏe và tâm lý của nữ trí thức trước sự 
kiện nghỉ hưu là rất hiếm, do đó đề tài có điểm 
qua một số tài liệu tiếng Anh và tiếng Pháp. 
Những nghiên cứu về tâm lý nữ và nam 
gần đây đều cho rằng sự khác biệt về tâm lý 
giữa nam và nữ là do kiến tạo xã hội, có nghĩa 
là những khác biệt này không mang tính phổ 
quát mà có những nét riêng biệt tùy theo bối 
cảnh văn hóa, xã hội, tùy theo quan niệm của 
xã hội về vai trò của nam giới và nữ giới, có 
nhiều định kiến giới hay không. 
Một số nghiên cứu phát hiện ra rằng khác 
biệt tâm lý về giới không lớn bằng khác biệt 
tâm lý của các nhóm khác nhau trong cùng 
một giới tính. 
Maccoby và Jacklin (1974) đã kết luận là 
có sự tương đồng về tâm lý giữa nam giới và 
nữ giới, dựa trên sự đánh giá lại 
gần 2.000 khảo sát về những khác biệt giữa 
nam giới và nữ giới trong các lĩnh vực như 
năng lực, nhân cách, hành vi xã hội và trí nhớ. 
 Carothers và Reis (2012), sau khi khảo 
sát một mẫu 109 nam và 167 nữ với 122 đặc 
điểm, đã kết luận rằng những đặc điểm tâm lý 
của nam và nữ không khác nhau mấy. Không 
thể xác định giới tính của một người nếu chỉ 
dựa vào đặc điểm tâm lý của họ. Các tác giả 
cho rằng sự khác biệt về tâm lý giữa nam và 
nữ có phần nhỏ hơn những khác biệt giữa các 
cá nhân trong cùng một giới tính. 
Tác động tâm lý của việc nghỉ hưu đối 
với người lao động được Osborne (2012) đề 
cập, gồm những tác động tiêu cực và tác động 
tích cực. Bài báo đã phân tích những tác động 
tiêu cực như xáo trộn căn tính, suy giảm lòng 
tự tin, lo sợ tuổi già, mất các mối quan hệ xã 
hội, không theo kịp thời cuộc. Bài báo cũng 
thảo luận về việc chuẩn bị, không những về 
phương diện tài chính mà cả về phương diện 
tâm lý để có một tuổi hưu tốt đẹp. 
Bogadi (2011) cho rằng sự kiện về hưu dễ 
gây ra hụt hẫng cho người lao động, do đó cần 
chuẩn bị tốt cho tuổi hưu. Tuy nhiên, các tài 
liệu nói về chuẩn bị tuổi hưu hay tuổi già đều 
đề cập đến nhóm người trên 60 tuổi, nam 
cũng như nữ, chứ không nói đến lứa tuổi 56 – 
60 tuổi. Đối với các nước phương Tây, tuổi 
hưu thường là trên 60. 
Tác động của việc về hưu lên nam giới và 
nữ giới được tác giả Blanché (2010) phân 
tích. Theo tác giả này, cả nam giới lẫn nữ giới 
đều bị tác động bởi biến cố nghỉ hưu, nữ giới 
lo lắng về sự già nua của thời kỳ mãn kinh, 
nhưng nam giới cũng lo lắng về sự xuống cấp 
của thể lực. 
Chính vì tác dụng tích cực của việc tiếp 
tục làm việc khi tuổi đã cao, nên các tổ chức 
của Liên minh châu Âu đã có những nghiên 
cứu ủng hộ cho việc làm của người cao tuổi, 
mà người cao tuổi được xác định là trên 65 
tuổi vì phần lớn các nước này đều quy định 
tuổi hưu là 65 tuổi. 
Về tâm lý của nữ giới ở tuổi trung niên từ 
40 đến 60 tuổi, một số tác giả như Gottlieb và 
Rosenswig (2005), McQuaide (1998), Clay 
(2003) cho rằng đến tuổi trung niên là bước 
qua một giai đoạn mới, xác định lại con 
đường đi của đời mình và tìm thấy ý nghĩa 
mới của cuộc sống. Các cuộc khảo sát niềm 
tin, thái độ và cảm nhận của phụ nữ trung niên 
của các tác giả này cho thấy một cách tổng 
quát là họ hạnh phúc ở tuổi trung niên: họ có 
tự do, tự tin hơn khi còn trẻ, tự biết năng lực 
của mình, tích lũy nhiều kinh nghiệm. 
Nhận xét chung về các tài liệu liên quan 
đến tâm lý mà nhóm nghiên cứu tiếp cận được: 
- Khác biệt tâm lý giữa nam và nữ là do 
kiến tạo xã hội. Như vậy, những khác biệt này 
thường rõ nét nếu môi trường xã hội và văn 
hóa còn chịu ảnh hưởng nặng nề của phân biệt 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (48) 2016 131 
đối xử và của định kiến xã hội về vị trí và vai 
trò của nam giới và nữ giới. Trong các xã hội 
đã đạt bình đẳng giới cao thì sự khác biệt này 
không đáng kể. 
- Phát hiện của những nghiên cứu gần 
đây cho thấy không có sự khác biệt lớn về các 
khía cạnh tâm lý giữa nam và nữ giới, khác 
biệt tâm lý giữa các cá nhân và các nhóm 
cùng giới tính quan trọng hơn. Do đó, tác 
động của việc nghỉ hưu lên tâm lý của nam 
giới và nữ giới đều có những nét tương đồng. 
- Phụ nữ trung niên cho đến 60 tuổi làm 
việc có thu nhập là một yếu tố quan trọng 
giúp họ thấy hạnh phúc. 
4. Chuyển biến tâm lý của nữ trí thức 
trong độ tuổi 56 - 60 trước sự kiện nghỉ hưu 
Theo bác sĩ Phan Hoài Nam (Nam Trân, 
2013), về hưu là một trong bốn biến cố lớn 
nhất của đời người gặp phải, đó là: bệnh tật, ly 
dị, mất việc và về hưu. Biến cố về hưu có 
những tác động đến tâm lý, sức khỏe và tình 
hình tài chính của cá nhân. Ba khía cạnh này 
cùng tồn tại trong một con người nên có mối 
tương tác lẫn nhau. Về hưu là một sự cắt đứt 
đột ngột về phương diện xã hội và tâm lý. 
Cảm giác mình không còn ích lợi, cần thiết 
cho những người chung quanh, mất hết các 
mối quan hệ xã hội dẫn đến sự buồn bã, cáu 
gắt, và trong những trường hợp nặng hơn là 
đương sự có thể rơi vào tình trạng trầm cảm 
(Bùi, 2014). Trầm cảm lại dẫn đến những hậu 
quả bệnh lý về mặt sức khỏe như các bệnh tim 
mạch gây cao huyết áp, rối loạn chuyển hóa 
đưa đến tiểu đường. Những người có chức vụ 
quản lý thường có tâm trạng mình không còn 
được nể trọng bởi đồng nghiệp, bởi những 
người trong gia đình. Thu nhập giảm sút là 
một yếu tố góp phần tô đậm thêm tâm trạng 
này. “Hẫng hụt” là một từ được nhiều người 
nhắc đến. 
Dựa vào những phân tích trên đây, nhóm 
nghiên cứu đề cập đến phần chuyển biến tâm 
lý trước và sau khi nghỉ hưu trong các mẫu 
phỏng vấn sâu nữ trí thức sau 55 tuổi, và từ 53 
đến 55 tuổi. 
4.1. Chuyển biến tâm lý trước khi nghỉ hưu 
Nhìn chung, các khách thể đều có suy 
nghĩ về việc nghỉ hưu của mình, chỉ khác 
nhau ở điểm là có người có kế hoạch rõ ràng 
cho giai đoạn mới này (hoặc làm việc, hoặc 
nghỉ hẳn ở nhà lo việc gia đình), có người thì 
lo lắng nhưng lúng túng không biết sẽ làm gì. 
Tình trạng khác nhau này liên quan đến năng 
lực và viễn cảnh có cơ hội làm việc hay không 
sau tuổi 55. 
 Tích cực chuẩn bị cho tuổi hưu, hài 
lòng với công việc 
Một nữ tiến sĩ cho biết chị đã suy nghĩ, 
trăn trở nhiều hai năm trước khi nghỉ hưu: nên 
tiếp tục làm ở trường hay chọn một hướng 
khác. Chị đã thiền định để suy nghĩ về công 
việc của mình, và đã chọn nghỉ hưu, không tiếp 
tục ký hợp đồng với trường, mặc dù chị vẫn có 
thể tiếp tục ở lại trường. Chị và một số phụ nữ 
có trình độ không ham ở lại nhà nước vì bị 
ràng buộc và có khi bị đố kỵ. Bên cạnh việc 
tiếp tục dạy sau đại học cho các trường, chị đã 
chọn cho mình một hướng đi mới, ứng dụng 
khoa học kỹ thuật và kiến thức, về làm việc với 
cộng đồng, đồng thời đi du lịch, thực hành 
thiền định. Chị cho biết một khi đã xác đ ... i về hưu thì 
thấy hụt hẫng và lâm bệnh. 
Nhiều chị lo lắng vì khi chuyển qua công 
việc mới, họ như đi vào một lĩnh vực còn 
nhiều ẩn số, họ phải tìm hiểu, thích nghi, lo 
lắng không biết năng lực có đáp ứng không, vì 
vậy họ vẫn thích tiếp tục công việc ở cơ quan 
cũ hơn. 
Một cách tổng quát, do chế độ hưu đã 
được thực hiện từ lâu nên phần lớn các nữ trí 
thức đã biết trước thời điểm nghỉ hưu, tâm lý 
đã ít nhiều được chuẩn bị. Một số khách thể 
có trình độ đại học và làm việc hành chính đã 
cho rằng về hưu là “quy luật” nên phải chấp 
nhận. Họ ít nói lên ý thua thiệt so với nam 
giới được về hưu trễ hơn 5 năm nếu người 
phỏng vấn không khơi gợi. Tuy nhiên, trạng 
thái tâm lý thuận lợi nêu trên không phản ánh 
quan điểm của nữ trí thức về tuổi hưu của nữ 
giới. Đứng trước một chính sách chưa thay 
đổi được, nữ trí thức phải tìm cách thích nghi 
trong những điều kiện tốt nhất có thể. 
Do có thái độ thích nghi với hoàn cảnh, 
phần lớn nữ trí thức cho rằng quy định tuổi hưu 
không ảnh hưởng đến họ nhiều lắm (Bảng 2). 
Bảng 2. Ý kiến về ảnh hưởng của quy định tuổi nghỉ hưu đến sự phấn đấu 
về chuyên môn của cá nhân 
Ảnh hưởng của quy định tuổi nghỉ hưu 
Phụ nữ trí 
thức về hưu 
hiện đang 
làm việc 
Phụ nữ trí thức 
về hưu hiện 
đang ở nhà 
n % N % 
Giảm động lực phấn đấu nâng cao trình độ khi bước vào tuổi 50 
74 
26.0 
25 
21.7 
Thôi thúc phấn đấu nhiều hơn khi còn trẻ (dưới 40 tuổi) 29 10.1 7 6.1 
Không gây ảnh hưởng nhiều lắm 182 63.9 83 72.2 
Tổng số 285 100.0 115 100.0 
Nguồn: Điều tra của nhóm nghiên cứu (2014). 
4.2. Chuyển biến tâm lý sau khi nghỉ hưu 
Nhìn chung, các khách thể ổn định tâm lý 
nhanh chóng sau khi về hưu. Điều này là tất 
nhiên đối với những chị tiếp tục làm việc, 
nhưng ngay cả đối với những người không 
làm việc, họ cũng “an phận” với công việc 
nhà, chăm sóc gia đình, con cháu, hoặc hài 
lòng với những hoạt động chăm sóc bản thân 
như đi du lịch, giải trí. Mặc dù vậy, nhiều chị 
vẫn mang một nỗi buồn. Cùng với nhu cầu vật 
chất, cần có thu nhập, nhu cầu giao tiếp xã hội 
của con người là rất quan trọng, góp phần tạo 
nên niềm vui sống. Các nữ trí thức cũng 
không là ngoại lệ. 
Có một khía cạnh khiến nhóm nghiên cứu 
có thể đặt giả thuyết là trong thực tế có một số 
nữ trí thức có trình độ cử nhân mang mặc cảm 
về sự yếu kém và cô lập của mình sau khi nghỉ 
hưu. Lý do là trong quá trình tiếp cận các 
khách thể để đề nghị được phỏng vấn qua bảng 
hỏi hay qua phỏng vấn sâu, một số ít nữ trí 
thức không tiếp tục làm việc đã từ chối tham 
134 GIÁO DỤC – XÃ HỘI 
gia phỏng vấn, nêu lý do là họ không còn làm 
việc nữa, không có gì để nói. Thái độ của họ là 
không muốn đề cập đến tình trạng của họ. 
Theo nhận định của nhóm nghiên cứu thì có 
một số số nữ trí thức sau khi nghỉ hưu mang 
tâm lý mặc cảm với danh xưng “trí thức” khi 
mình không có cơ hội tiếp tục làm việc trong 
lĩnh vực nghề nghiệp có sử dụng kiến thức. 
Khung 2: Tuổi hưu 55 dễ gây mặc cảm cho nữ trí thức 
- Phụ nữ cũng cần chứng tỏ mình có giá trị, do đó nữ trí thức không muốn về hưu ở độ tưổi 
55. Nhưng cũng có người mệt mỏi vì không theo kịp tiến bộ của công nghệ. (Một nữ tiến sĩ). 
- Nhà nước cho phụ nữ 55 tuổi về hưu làm người ta mặc cảm. Vì nhu cầu của người lao động 
là muốn thấy mình còn có ích, đó là nhu cầu về tinh thần, chứ về vật chất thì đâu có cần gì 
nhiều. (Một nữ tiến sĩ). 
- Có nữ về hưu thì rất buồn vì trước đây ở cương vị lãnh đạo thì nhiều người vây quanh, nay 
về hưu thì cấp dưới lơ là, nên họ dễ bị hụt hẫng. 
Có người muốn tiếp tục làm việc, nhưng cũng có người muốn về nhà nghỉ ngơi. Nhưng nếu nhà 
nước có chế độ về hưu 60 tuổi thì nữ cũng sẵn sàng làm. Đa số bạn bè của chị nói về hưu 55 
tuổi rất buồn, đi làm thì vui hơn. Chồng còn đi làm, còn mình thì ở nhà chợ búa đầu tắt mặt 
tối, không có dịp chưng diện. (Một nữ giảng viên, trình độ cử nhân). 
- Nhà nước thì cho rằng người lao động đến tuổi hưu về nghỉ và lãnh lương hưu là xong, 
nhưng thực tế về mặt xã hội và tâm lý con người thì không đơn giản nhận lương hưu là đủ. Họ 
cảm thấy bị bỏ rơi, hụt hẫng về mặt tình cảm, còn lương hưu ở Việt Nam thì lại không đủ sống 
(không đủ cho chi phí cá nhân). Do vậy, cuộc sống tuổi hưu làm cho người ta chóng già hơn – 
già về thể chất, già về tinh thần (tâm tư tình cảm), bởi những động viên của nhà nước, của xã 
hội tiếp theo sau khi người lao động nghỉ hưu gần như không có. Hoạt động của người cao tuổi 
hiện tại cũng chưa thiết thực lắm đối với người nghỉ hưu, nó mang tính chất đại trà nên thiếu 
thực tiễn. (Một nữ cử nhân, nguyên phó chủ tịch thường trực Liên minh Hợp tác xã TP.HCM). 
Trong các trường hợp phỏng vấn sâu, 
trạng thái tâm lý xấu nhất là cảm thấy buồn vì 
bị cô lập với thế giới sinh động bên ngoài, sức 
khỏe giảm sút. Không gặp trường hợp bị trầm 
cảm. Các trạng thái tâm lý khác có phần tích 
cực hơn: dù không tán đồng việc nữ về hưu ở 
tuổi 55, họ vẫn cảm thấy được tự do, nhẹ 
nhõm, hài lòng vì đã tìm được ngay công việc, 
quá trình chuyển tiếp qua giai đoạn về hưu 
diễn ra thuận lợi. 
Trong các trường hợp phỏng vấn bảng 
hỏi, đối với những người đang làm việc, tâm 
lý chung là thoải mái, hài lòng với thành quả 
công việc được thực hiện sau 55 tuổi. Có 337 
người trả lời với 371 câu trả lời vì có người 
nêu hai ý. 63 người không trả lời thuộc nhóm 
115 người không tiếp tục tham gia hoạt động 
kinh tế. Số còn lại trong số 115 người thường 
hài lòng với việc chăm sóc gia đình con cháu, 
chăm sóc cha mẹ già. Đối với những người 
đang làm việc, bên cạnh sự hài lòng về công 
việc, một số cũng nêu sự hài lòng về việc 
chăm sóc gia đình (Bảng 3). 
Bảng 3. Sự hài lòng về công việc sau khi nghỉ hưu 
Công việc mà nữ trí thức hài lòng 
N 
% trên tổng số 
371 câu trả lời 
Chấp hành tốt công việc được giao, làm chuyên môn, được tín nhiệm 
của cấp trên 
38 
10.2 
Giảng dạy cán bộ Hội phụ nữ, nhân viên xã hội, đào tạo nhân viên 6 1.6 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (48) 2016 135 
Khám bệnh, y khoa 5 1.3 
Hoạt động chính trị xã hội, công tác xã hội, từ thiện, chăm sóc người 
cao tuổi 
38 
10.2 
Kinh doanh, kế toán, văn phòng 17 4.6 
Dạy ngoại ngữ, dạy thêm ở nhà, dạy phổ thông 6 1.6 
Nghiên cứu, viết sách, học tập, cập nhật thông tin 27 7.3 
Có kinh nghiệm tốt 14 3.8 
Tạo thu nhập, ổn định cuộc sống 10 2.7 
Có năng lực quản lý, xây dựng quy chế phát triển cơ quan 12 3.2 
Pháp lý, giúp tư vấn pháp lý miễn phí 8 2.2 
Nguồn: Điều tra của nhóm nghiên cứu (2014). 
Ngoài ra, những điều hài lòng khác liên 
quan đến các hoạt động nghỉ ngơi, giải trí, du 
lịch hoặc các thú vui thư giãn. Nhìn từ góc độ 
chủ quan của nữ trí thức, tiếp tục làm việc sau 
55 tuổi đem lại niềm vui, sự hài lòng, góp 
phần nâng cao sức khỏe tinh thần, một yếu tố 
rất cần thiết cho mọi lứa tuổi, đặc biệt là ở 
người lớn tuổi. Sức khỏe tinh thần có mối 
tương tác với sức khỏe thể lực. 
5. Sức khỏe sau khi nghỉ hưu 
5.1. Sức khỏe thể chất 
Một ý kiến chung về sức khỏe thể chất 
được đa số nữ trí thức và các nhà quản lý nam 
cũng như nữ nêu lên trong các phỏng vấn sâu 
là ở độ tuổi 56 - 60, tình trạng sức khỏe của 
nữ không có gì khác biệt với nam giới, nghĩa 
là không kém hơn nam giới. Một số ý kiến 
còn cho rằng sức khỏe của nữ có phần tốt hơn 
nam, vì ở tuổi này, nam trí thức thường ở vị 
trí quản lý, lãnh đạo, có xu hướng uống rượu, 
bia và/hoặc hút thuốc nhiều hơn nữ, tích lũy 
qua nhiều năm nên ở độ tuổi này các bệnh tật 
phát ra. Có ý kiến cho rằng khi về hưu, nam 
giới dễ suy sụp tinh thần hơn nữ, từ đó kéo 
theo sự sa sút về sức khỏe, bị đột quỵ, bệnh 
về gan. 
Khung 3: Nam giới dễ bị suy sụp khi về hưu 
- Tác động của gia đình rất quan trọng, những người đàn ông khi về hưu rất lúng túng, vì 
vợ ít quí trọng do không còn địa vị và thu nhập như trước, có người bị tâm thần luôn. Nhìn 
chung, gia đình là một áp lực lớn cho người về hưu. (Một nữ tiến sĩ, giảng viên đại học) 
- Một người cao tuổi cho biết: Sau khi nghỉ hưu, tôi thường xuyên đau đầu, đau lưng, tay 
chân nhức mỏi. Vợ con cứ nghĩ tôi “làm nũng” vì đi khám nhiều nơi vẫn không thấy bệnh. 
Trước đây tôi được đồng nghiệp nể trọng, sau khi nghỉ hưu tôi thấy mình như người thừa. 
Nhiều chị nhận xét rằng phụ nữ bị phiền 
hà trong độ tuổi 45 - 50 do những rối loạn tiền 
mãn kinh. Ngược lại đến độ tuổi sau 55, các 
chị đã qua thời kỳ ấy nên lại khỏe hơn. 
136 GIÁO DỤC – XÃ HỘI 
Khung 4: Sức khỏe của nữ giới trên 55 tuổi không khác gì nam giới ở cùng độ tuổi 
- So với nam giới cùng tuổi thì không có gì khác biệt, thậm chí nam 55 tuổi đã bệnh vì nhậu 
nhiều quá. (Một nữ tiến sĩ) 
 - Về sức khỏe: ở tuổi 55 - 60 không có gì khác biệt so với trước đó. Nếu người nào đau yếu thì 
đã đau yếu rồi. Sức khỏe kém thường là trên 60 hoặc 65. (Một nam trưởng phòng của một viện 
nghiên cứu). 
- Về sức khỏe: nói nữ yếu hơn là hoàn toàn không có cơ sở, bệnh không phân biệt nam nữ. 
(Nam chánh văn phòng của một sở tại TPHCM). 
- Về sức khỏe, nữ bền bỉ hơn nam giới. Nếu nói hạn chế thì ở độ tuổi này nữ hay nam đều có 
phần chậm, ít nhanh nhẹn. (Nam hiệu trưởng của một trường đại học tại TPHCM). 
- Nếu làm việc trí óc thì nữ cũng như nam. Người nào có nhu cầu muốn về hưu thì về, nếu họ 
đã đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm. Nói về sức khỏe, có khi sức khỏe nữ tốt hơn nam, vì nữ 
không hút thuốc, không uống rượu. (Một nữ cử nhân) 
Tuy rằng theo quy luật, ở độ tuổi sau 55, 
nữ cũng như nam bắt đầu có những vấn đề 
sức khỏe, nhưng ý kiến chung cho là không 
nghiêm trọng, cường độ làm việc có thể 
không như trước nhưng không ảnh hưởng đến 
năng lực làm việc. 55 tuổi ngày nay tuy không 
còn trẻ nhưng không thể gọi là già đến nỗi 
phải về hưu. Chính biến cố về hưu làm cho 
người phụ nữ có mặc cảm là mình đã già. 
Như đã nêu ở phần năng lực chỉ 20% số 
người đang làm việc đánh giá có khó khăn về 
sức khỏe. Trong 20 trường hợp phỏng vấn sâu, 
chỉ có một trường hợp bị bệnh tim là có cản 
trở công việc, ngoài ra không thấy các chị có 
bệnh tật gì, chỉ là sức khỏe có kém hơn trước. 
Công việc của trí thức vận dụng kiến 
thức, kỹ năng là chính. Khảo sát và phỏng vấn 
sâu còn cho thấy nữ trí thức rất năng động, 
còn đi công tác xa, còn thâm nhập cộng đồng. 
Các phỏng vấn sâu cho thấy không có chị nào 
than phiền là công việc quá căng thẳng, ảnh 
hưởng đến sức khỏe. Lý do là khi tiếp tục làm 
việc, các chị đã ước lượng sức mình nên đã 
lựa chọn công việc thích hợp với tình trạng 
sức khỏe của mình. 
5.2. Sức khỏe tinh thần 
Nhìn chung, nữ trí thức cho rằng nghỉ 
hưu là bước qua một giai đoạn mới của cuộc 
sống, một giai đoạn mà họ có tự do hơn, được 
giải phóng khỏi nghĩa vụ của người lao động 
đối với nhà nước, một cơ hội để thay đổi công 
việc, để thực hiện những dự định mà họ ấp ủ 
từ lâu. Nhưng cũng có người do gắn bó lâu 
với công việc trong lĩnh vực nhà nước, nên ý 
nghĩ phải chấm dứt sự cống hiến cho nhà 
nước có gây nên tâm trạng lo lắng trong lúc 
gần về hưu. 
Họ đã chuẩn bị cho một cuộc sống về hưu 
bình an. Thời gian nghỉ ngơi, giải trí, chăm 
sóc bản thân được tăng lên. Cần lưu ý là trạng 
thái này, dù sao cũng thể hiện một sự thích 
nghi với hoàn cảnh, không mâu thuẫn với 
những nhận thức và khát khao được đối xử 
công bằng, đòi hỏi về quyền được làm việc 
ngang bằng với nam giới, cần thúc đẩy bình 
đẳng giới trong lĩnh vực lao động và việc làm. 
Cả hai yếu tố, tiếp tục làm việc sau khi nghỉ 
hưu và quyết liệt bảo vệ cho quan điểm công 
bằng giới về tuổi hưu góp phần tạo nên động 
lực mạnh mẽ cho nữ trí thức đối với cuộc 
sống. Chính nhờ vậy, sau một thời gian hoang 
mang khi gần về hưu và mới về hưu, phần lớn 
các nữ trí thức trong mẫu đã thích nghi được 
với tình trạng mới của mình và giữ được trạng 
thái quân bình về sức khỏe tinh thần. Thực 
trạng này góp phần kiểm chứng một nhận 
định của các nhà nghiên cứu tâm lý cho rằng 
về hưu chỉ là một trạng thái tinh thần, và sức 
khỏe tinh thần tùy thuộc trạng thái này. 
6. Kết luận 
Kết quả nghiên cứu cho thấy tâm trạng 
chung của nữ trí thức trong độ tuổi 56 – 60 tại 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 3 (48) 2016 137 
Thành phố Hồ Chí Minh là buồn vì không 
được tiếp tục làm việc, đóng góp cho cơ quan 
và cho xã hội, trong lúc nam giới cùng độ tuổi 
vẫn tiếp tục làm việc. Nữ trí thức quan niệm 
rằng làm việc đến 60 tuổi như nam giới thể 
hiện quyền bình đẳng mà chính sách của nhà 
nước phải thừa nhận. 
Khả năng thích nghi với hoàn cảnh của 
nữ trí thức rất cao. Họ đã biết trước chính 
sách của nhà nước về tuổi hưu và đã tích cực 
chuẩn bị công việc của mình sau khi nghỉ hưu. 
Do đó, tuy có buồn nhưng ít người cảm thấy 
hụt hẫng, hơn nữa họ hài lòng với công việc 
mới vì năng lực của họ được thừa nhận và 
trân trọng, và thu nhập có phần cao hơn trước. 
Nữ trí thức thích nghi với hoàn cảnh 
nhưng đồng thời họ phản ứng mạnh mẽ sự 
phân biệt đối xử về tuổi hưu dẫn đến nhiều 
thiệt thòi cho bản thân và bất lợi cho mục tiêu 
bình đẳng giới. Họ quan niệm nữ giới nghỉ 
hưu ở 60 tuổi như nam giới là một quyền chứ 
không hàm ý xin chính sách. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
APA. (2005). Men and Women: No Big Difference. American Psychological Association, 
October 20, 2005. 
Blanché, A. (2010). Vieillissement et retraite: approches psychanalytiques. Le Journal des 
psychologues, 2010/9 (n° 282). 
Bùi, T.V.A. (2014). Đặc điểm tâm lý của người nghỉ hưu. 
 truy cập ngày 15/5/2015. 
Bogadi, F. (2011). Les cinq étapes pour se préparer à une retraite heureuse. 
heureuse. Truy cập ngày 15/5/2015. 
Carothers, B. J. và Reis, H.T. (2012). Men and Women Are From Earth: Examining the Latent 
Structure of Gender. Journal of Personality and Social Psychology, Oct. 2, 2012. 
Clay, R. (2003). Researchers Replace Midlife MythsWith Facts - Jobs Changes and Stress 
Management Can Positively Affect Midlife Health. American Psychological Association, 
Vol 34, No. 4. 
Davey, J. (2008). Health, Work and Retirement Survey. Summary Report of the 2006 Data 
Waves. Qualitative Interviews. 
Gottlieb, L. và Rosenwig, D. (2005). Dreams Have No Expiring Date: A Practical and 
Inspirational Way for Women to Take Charge Of Their Futures, NXB Random House 
Canada, 256 trang. 
Lưu, S.H. (2015). Nguồn nhân lực nữ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, 
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 543 trang. 
Maccoby, E. và Jacklin, C. (1974). The Psychology of Sex Differences. 
Mcquaide, S. (1998).Women at Midlife. National Association of Social Workers. Inc. 
Nam Trân. (2013). Đối phó với “bệnh” nghỉ hưu. Báo Pháp Luật, 22/11/2013. 
138 GIÁO DỤC – XÃ HỘI 
Osborne, J.W. (2012). Psychological Effects of the Transition to Retirement. Canadian Journal 
of Counselling and Psychotherapy. ISSN 0826-3893 Vol. 46 No. 1 © 2012 Pages 45–58. 
Trân Châu. (2012). Tuổi nghỉ hưu của lao động nữ: nên có những thay đổi phù hợp. Báo Hà Nội 
mới. 
Viện Khoa học Lao động - Xã hội và Ngân hàng Thế giới. (2009). Tuổi nghỉ hưu của lao động 
nữ Việt Nam - Bình đẳng giới và sự bền vững của Quỹ Bảo hiểm xã hội, 100 trang. 
2
 Trích phỏng vấn sâu một nữ bác sĩ đã về hưu, đang làm việc. 
3
 Trích phỏng vấn sâu một giáo viên đã nghỉ hưu. 
4
 Trích phỏng vấn sâu một nữ thạc sĩ. 
5
 Trích phỏng vấn sâu một giáo viên. 

File đính kèm:

  • pdfchuyen_bien_tam_ly_suc_khoe_the_chat_va_suc_khoe_tinh_than_c.pdf