Chuỗi cung ứng lạnh và sự cần thiết phải phát triển chuỗi cung ứng lạnh tại Việt Nam

Chuỗi cung ứng lạnh là chuỗi cung ứng kiểm soát và duy trì nhiệt độ phù hợp với các loại hàng hóa

có yêu cầu bảo quản lạnh khác nhau nhằm đảm bảo chất lượng và kéo dài tuổi thọ của các mặt hàng

như sản phẩm nông nghiệp, thủy hải sản, hàng đông lạnh chế biến, hoa tươi cắt cành, hóa chất, các

sản phẩm dược phẩm. Hiện chuỗi cung ứng lạnh đã phát triển mạnh trên thế giới. Bài viết đề cập đến

khái niệm và đặc điểm của chuỗi cung ứng lạnh, phân tích các nhân tố quyết định xu hướng phát triển

chuỗi cung ứng lạnh trên thế giới. Trên cơ sở đó, bài viết nghiên cứu chi tiết sự cần thiết phải xây dựng

và phát triển chuỗi cung ứng lạnh tại Việt Nam nhằm đáp ứng đòi hỏi về chất lượng của các mặt hàng

xuất khẩu chủ lực như nông sản thực phẩm, thủy hải sản khi xuất khẩu sang các nước khác.

pdf 8 trang kimcuc 6620
Bạn đang xem tài liệu "Chuỗi cung ứng lạnh và sự cần thiết phải phát triển chuỗi cung ứng lạnh tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuỗi cung ứng lạnh và sự cần thiết phải phát triển chuỗi cung ứng lạnh tại Việt Nam

Chuỗi cung ứng lạnh và sự cần thiết phải phát triển chuỗi cung ứng lạnh tại Việt Nam
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
78 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 78 (12/2015)
1. Khái niệm chuỗi cung ứng lạnh
Thuật ngữ “trữ đông thực phẩm” đã xuất 
hiện từ những năm 70 của thế kỷ 19 khi nước 
Pháp bắt đầu nhập khẩu thịt lợn đông lạnh 
từ Nam Mỹ và nước Anh nhập khẩu thịt bò 
đông lạnh từ Úc và thịt lợn đông lạnh từ New 
Zealand. Tuy việc trữ đông thực phẩm được 
thực hiện khá sớm nhưng khái niệm “chuỗi 
cung ứng lạnh” mới chỉ ra đời vào những năm 
1980. Chuỗi cung ứng lạnh được hiểu là các 
chuỗi cung ứng có khả năng kiểm soát và duy 
trì nhiệt độ thích hợp với các loại hàng hóa 
có yêu cầu bảo quản lạnh khác nhau, nhằm 
bảo đảm và kéo dài tuổi thọ của các mặt hàng 
nhạy cảm với nhiệt độ cao như sản phẩm nông 
nghiệp, thủy hải sản, hàng đông lạnh chế biến, 
hoa tươi cắt cành, hóa chất, các sản phẩm 
dược phẩm đặc biệt là vacxin. Một chuỗi 
Tóm tắt 
Chuỗi cung ứng lạnh là chuỗi cung ứng kiểm soát và duy trì nhiệt độ phù hợp với các loại hàng hóa 
có yêu cầu bảo quản lạnh khác nhau nhằm đảm bảo chất lượng và kéo dài tuổi thọ của các mặt hàng 
như sản phẩm nông nghiệp, thủy hải sản, hàng đông lạnh chế biến, hoa tươi cắt cành, hóa chất, các 
sản phẩm dược phẩm. Hiện chuỗi cung ứng lạnh đã phát triển mạnh trên thế giới. Bài viết đề cập đến 
khái niệm và đặc điểm của chuỗi cung ứng lạnh, phân tích các nhân tố quyết định xu hướng phát triển 
chuỗi cung ứng lạnh trên thế giới. Trên cơ sở đó, bài viết nghiên cứu chi tiết sự cần thiết phải xây dựng 
và phát triển chuỗi cung ứng lạnh tại Việt Nam nhằm đáp ứng đòi hỏi về chất lượng của các mặt hàng 
xuất khẩu chủ lực như nông sản thực phẩm, thủy hải sản khi xuất khẩu sang các nước khác.
Từ khóa: chuỗi cung ứng, chuỗi cung ứng lạnh, hàng hóa dễ hư hỏng, logistics, nông sản thực 
phẩm, xuất khẩu 
Mã số: 176.050915. Ngày nhận bài: 05/09/2015. Ngày hoàn thành biên tập: 27/10/2015. Ngày duyệt đăng:20/11/2015.
Summary 
 Cold chain is the supply chain to control and maintain the temperature suitable for goods of 
different cold storage requirements to ensure the quality and prolong the shelf life of such items 
as agricultural products, seafood, processed frozen foods, cut flowers, chemicals, pharmaceutical 
products. Cold chain has grown significantly over the world. The article mentions the definition and 
characteristics of the cold chain, analyzes the determinants of cold chain development trend in the 
world. On this basis, the article studies in detail the necessity to build and develop cold chain in 
Vietnam to meet the quality requirements of key export commodities such as agricultural products 
and seafood being exported to other countries.
Key words: supply chain, cold chain, perishable goods, logistics, export, agricultural products 
and foodstuff 
Paper No.176.050915. Date of receipt: 05/09/2015. Date of revision: 27/10/2015. Date of approval: 20/11/2015.
CHUỖI CUNG ỨNG LẠNH VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN 
CHUỖI CUNG ỨNG LẠNH TẠI VIỆT NAM
Hoàng Thị Đoan Trang*
* ThS, Trường Đại học Ngoại thương; Email: dtrang14981@yahoo.com
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
79Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 78 (12/2015)
cung ứng lạnh không gián đoạn là một loạt 
các hoạt động lưu trữ và phân phối được duy 
trì liên tục ở một khoảng nhiệt độ nhất định. 
Một chuỗi cung ứng lạnh điển hình thường có 
ba giai đoạn chính: sản xuất và chế biến đông 
lạnh, lưu trữ lạnh và vận chuyển lạnh. Các sản 
phẩm trong chuỗi cung ứng lạnh khi được vận 
chuyển và lưu trữ tạm thời được gọi là hàng 
hóa đông lạnh. Không giống như các hàng 
hoá khác, hàng hoá trong chuỗi cung ứng lạnh 
rất dễ hư hỏng và luôn luôn trên đường vận 
chuyển tới nơi sử dụng cuối cùng hoặc điểm 
đến cuối cùng, ngay cả khi được lưu trữ tạm 
thời trong kho lạnh. 
Chuỗi cung ứng lạnh ra đời nhằm mục đích 
giữ và bảo quản hàng hóa ở một nhiệt độ nhất 
định từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ; tối 
thiểu hóa chi phí sản xuất và đảm bảo sự an 
toàn cũng như chất lượng của các hàng hóa dễ 
hư hỏng; tăng cường sự liên kết giữa các giai 
đoạn trong cùng chuỗi cung ứng. 
 Về cấu trúc, các chuỗi cung ứng lạnh bao 
gồm hai hệ thống logistics cơ bản: (1) Mạng 
lưới nhà kho lạnh được kiểm soát tốt về nhiệt 
độ để bảo quản các mặt hàng nhạy cảm và 
dễ hỏng. (2) Hệ thống vận tải lạnh bao gồm 
các loại phương tiện chuyên chở như xe tải, 
container lạnh, các kho hàng lạnh trên các 
tàu biển và các thiết bị chuyên dụng cho hoạt 
động vận chuyển và giao nhận để kiểm tra, 
duy trì nhiệt độ lạnh cần thiết.
Chuỗi cung ứng lạnh cung cấp các khoảng 
nhiệt độ thích hợp cho từng loại sản phẩm 
trong toàn bộ quá trình cung ứng với các 
tiêu chuẩn nhiệt độ phổ biến là: đông lạnh 
sâu (Deep Frozen) từ -28 đến -30oC, đây là 
mức nhiệt độ lạnh nhất chủ yếu dành cho vận 
chuyển hải sản; đông lạnh (Frozen) từ -16 đến 
-200C, chủ yếu dành cho vận chuyển thịt; lạnh 
(Chiller) từ 2 đến 40C, là mức chuẩn nhiệt độ 
trong tủ lạnh và thường được sử dụng để vận 
chuyển trái cây và rau quả để có được thời hạn 
sử dụng tối ưu; mức từ 2 đến 80C thích hợp để 
bảo quản dược phẩm và thuốc thông thường; 
mức nhiệt từ 12 đến 140C thích hợp cho chuỗi 
cung ứng chuối, là một trong những loại trái 
cây được sản xuất và vận chuyển nhiều nhất 
thế giới. Hàng hóa bảo quản ở nhiệt độ lạnh 
chiếm thị phần lớn nhất trên toàn cầu do hầu 
hết trái cây và rau quả được lưu trữ và vận 
chuyển nhờ chuỗi cung ứng lạnh. Nếu phân 
chia theo loại hàng hóa thì thịt và hải sản 
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong chuỗi cung ứng 
lạnh trên phạm vi toàn cầu, tiếp theo là các 
sản phẩm từ sữa và các món tráng miệng đông 
lạnh, trái cây và rau quả. Lượng tiêu thụ các 
thực phẩm dễ hư hỏng trên toàn cầu đang tăng 
mạnh, do đó làm tăng khối lượng hàng hóa 
dễ hư hỏng được trao đổi giao dịch giữa các 
quốc gia. 
Việc phát triển các chuỗi cung ứng lạnh sẽ 
góp phần hỗ trợ chính phủ các nước trong việc 
quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm của hàng 
hóa trong nước và xuất khẩu; đồng thời giải 
quyết tốt mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc 
sống cho người dân, bảo vệ sinh thái và tăng 
trưởng kinh tế bền vững.
2. Một vài nét khái quát về sự phát triển 
chuỗi cung ứng lạnh ở một số nước trên thế 
giới
Chuỗi cung ứng lạnh xuất hiện đầu tiên ở 
các nước phát triển do tác động của các nhân tố 
chính. Nhân tố thứ nhất là xu hướng toàn cầu 
hóa tăng nhanh cho phép vận chuyển các sản 
phẩm nông nghiệp giữa các quốc gia trên phạm 
vi toàn cầu. Thứ hai là xu hướng tăng trưởng 
nhu cầu tiêu dùng hàng hóa chất lượng cao, an 
toàn đối với sức khỏe người tiêu dùng dẫn tới 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
80 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 78 (12/2015)
nhu cầu ban hành các quy định của pháp luật 
về vệ sinh an toàn thực phẩm và các vấn đề 
liên quan đến sức khỏe tại các nước phát triển. 
Cuối cùng là trình độ chuyên môn hóa và tính 
hiệu quả của ngành logistics tại các nước phát 
triển cho phép ứng dụng các chuỗi cung ứng 
lạnh có nhiệt độ phù hợp với hàng hóa và đẩy 
nhanh tốc độ cũng như hiệu quả vận chuyển 
hàng hóa tới thị trường tiêu thụ. 
Chuỗi cung ứng lạnh cần thiết trong bối 
cảnh thương mại toàn cầu hiện nay do giúp 
giảm tổn thất, nâng cao sự an toàn của hàng 
hóa, góp phần tạo ra sự cân bằng cung cầu 
thực phẩm và gián tiếp đẩy mạnh sự tăng 
trưởng trong ngành công nghiệp thực phẩm. 
Sự tăng trưởng của thị trường chuỗi cung ứng 
lạnh sẽ đóng góp vào quá trình toàn cầu hóa, 
tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu và nhập 
khẩu các loại hàng dễ hư hỏng theo thời gian, 
đồng thời tạo tiền đề cho việc áp dụng tiến bộ 
khoa học kỹ thuật vào việc bảo quản và vận 
chuyển hàng đông lạnh trong chuỗi, đẩy mạnh 
thị hiếu người tiêu dùng đối với thực phẩm 
đông lạnh và giảm thiểu tổn thất thực phẩm ở 
những thị trường mới nổi như Ấn Độ, Trung 
Quốc và các nước Mỹ La tinh.
Hình 1. Thị phần chuỗi cung ứng lạnh toàn 
cầu theo khu vực địa lý năm 2011
Nguồn: Online Journals and Marketsand 
Markets Analysis, 2012
Bắc Mỹ là khu vực thị trường nhập khẩu 
và xuất khẩu nhiều nhất các loại thực phẩm dễ 
hư hỏng, vì vậy chiếm thị phần cao nhất trên 
thị trường chuỗi cung ứng lạnh, theo sau là 
châu Âu và khu vực châu Á-Thái Bình Dương 
(Hình 1). Thị trường chuỗi cung ứng lạnh ở Ấn 
Độ cũng đang trên đà tăng trưởng nhờ các biện 
pháp xúc tiến có tổ chức thị trường bán lẻ của 
chính phủ, và sự thay đổi sở thích người tiêu 
dùng dẫn tới sự phát triển mạnh của thực phẩm 
đông lạnh và các nhà hàng thức ăn nhanh. 
Thị trường chuỗi cung ứng lạnh ở Trung 
Quốc cũng đang phát triển do nước này là một 
điểm đến hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao của 
các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ khi đầu tư 
vào cơ sở vật chất phục vụ chuỗi cung ứng 
lạnh, ngoài ra thương mại điện tử và các quy 
định về an toàn thực phẩm do chính phủ Trung 
Quốc ban hành cũng là những yếu tố thúc đẩy 
chuỗi cung ứng lạnh. 
Thị trường các trang thiết bị vận chuyển 
giữ lạnh toàn cầu cũng đang phát triển với tốc 
độ tương đối cao. Ở Bắc Mỹ và châu Âu, cầu 
về các loại đầu kéo rơ-moóc, xe tải đông lạnh 
tăng nhanh do các phương tiện này có thể vận 
chuyển hàng hóa một cách linh hoạt tới nhiều 
địa điểm khác nhau với nhiều mốc thời gian 
giao hàng. Khách hàng mua thực phẩm tươi 
sống qua mạng cũng tăng nhanh, làm tăng nhu 
cầu vận chuyển hàng đông lạnh bằng đường 
bộ. Container đông lạnh vận chuyển bằng 
đường biển cũng góp phần đẩy mạnh sự gia 
tăng vận tải hàng đông lạnh nhờ áp dụng tiến 
bộ công nghệ giúp kéo dài tuổi thọ của mặt 
hàng thực phẩm dễ hư hỏng. 
Các doanh nghiệp logistics 3PL nổi tiếng về 
chuỗi cung ứng lạnh là AmeriCold Logistics 
(Hoa Kỳ), Lineage Logistics (Hoa Kỳ), 
Swire Cold Storage Pty (Australia), Preferred 
Freezer Services (Hoa Kỳ), and Nichirei 
Logistics Group, Inc.( Nhật Bản). Các doanh 
nghiệp này đang đầu tư mở rộng trang thiết bị 
lưu trữ và vận chuyển lạnh ở những thị trường 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
81Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 78 (12/2015)
mới nổi do nhu cầu về chuỗi cung ứng lạnh 
tăng nhanh ở các thị trường này. 
3. Sự cần thiết phải phát triển chuỗi 
cung ứng lạnh tại Việt Nam
Việt Nam cần thiết phải phát triển chuỗi 
cung ứng lạnh vì những lý do sau:
Thứ nhất, các ngành nông nghiệp, thủy 
sản, công nghiệp dược phẩm, chế biến thức 
ăn, và hoa tươi cắt cành xuất khẩu của Việt 
Nam có nhu cầu dự trữ, bảo quản lạnh ngày 
càng phát triển mạnh là tiền đề cho xu hướng 
hình thành thị trường logistics kiểm soát khí 
hậu và các chuỗi cung ứng lạnh tại Việt Nam. 
Riêng năm 2014 nước ta đã tăng được hơn 3 
tỷ USD kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm, 
thủy sản. Đáng lưu ý, hầu hết các mặt hàng 
thủy sản, rau quả xuất khẩu đều tăng giá trị 
so với năm 2013 như: Thủy sản đạt 7,836 tỷ 
USD (tăng 17,1%); rau quả đạt 1,491 tỷ USD 
(tăng 38,9%) (Xem bảng 1). Thành tích xuất 
khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2014 vượt trội 
nên nhu cầu của các ngành hàng này về dự 
trữ và bảo quản bằng kho và thiết bị lạnh hiện 
chiếm tới trên 40%.
Bảng 1. Tình hình xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam 
 cần chuỗi cung ứng lạnh
STT Loại nông sản chủ yếu
Kim ngạch xuất khẩu (1000USD) Tốc độ phát triển KNXK (%)
2012 2013 2014
2013 so với 
2012
2014 so với 
2013
1 Hàng thủy sản đông lạnh 6 088 507 6 692 609 7 836 037 109.9 117.1
2 Hàng rau, hoa, quả 827 043 1 073 226 1 491 109 129.8 138.9
Nguồn: Tổng cục Thống kê, truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2015 
tại https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=629&ItemID=14219
+ Nhóm ngành rau, hoa quả
Trong các sản phẩm nông nghiệp, nhóm 
ngành rau quả có tốc độ tăng trưởng cao từ 10-
35% trong giai đoạn 2000-2010. Năm 2014, 
kim ngạch xuất khẩu mặt hàng rau quả đạt 
gần 1,5 tỷ USD, tăng 38,9% so với năm 2013 
(Xem Bảng 2). Rau quả Việt Nam đã có mặt 
tại hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài 
những thị trường truyền thống như Trung 
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, rau quả Việt 
Nam còn có mặt ở nhiều thị trường mới như 
Hồng Kông, UAE, Hà LanMục tiêu năm 
2015 ngành rau quả phấn đấu xuất khẩu đạt 
2 tỷ USD. Hiện Việt Nam là 1 trong 5 quốc 
gia xuất khẩu rau quả lớn nhất thế giới nhờ 
tăng trưởng mạnh ở các thị trường như Trung 
Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Nga, Indonesia, Đài 
Loan, Hàn Quốc. Rau quả xuất khẩu của Việt 
Nam hiện có tới 90% là rau quả tươi. Cả nước 
mới có trên 100 cơ sở chế biến rau quả quy 
mô công nghiệp với tổng công suất 300.000 
tấn sản phẩm/năm (Bộ Nông nghiệp và Phát 
triển nông thôn, 2015). Để nâng cao giá trị gia 
tăng của ngành rau quả, doanh nghiệp cần tập 
trung đầu tư công nghệ chế biến rau quả; gắn 
kết mạnh hơn giữa vùng nguyên liệu và khâu 
chế biến để bảo đảm chất lượng các sản phẩm 
rau quả xuất khẩu. Đặc biệt, ứng dụng chuỗi 
cung ứng lạnh cho ngành không chỉ giúp sản 
lượng xuất khẩu tăng cao mà còn góp phần 
giải quyết tốt vấn đề tăng cường chất lượng vệ 
sinh an toàn thực phẩm và tuân thủ tốt các quy 
trình kiểm định quốc tế tại các thị trường nhập 
khẩu khó tính.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
82 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 78 (12/2015)
Bảng 2. Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam năm 2014 phân theo thị trường 
xuất khẩu chủ yếu
Đơn vị tính: USD
Thị trường Năm 2014 Năm 2013 
Năm 2014 so với 
 năm 2013 (%)
Tổng kim ngạch 1.491.109.267 1.094.885.656 +36,19
Trung Quốc 435.741.470 302.610.881 +43,99
Nhật Bản 75.029.152 61.222.992 +22,55
Hoa Kỳ 60.742.423 51.453.887 +18,05
Hàn Quốc 57.035.756 28.207.485 +102,20
Hà Lan 39.422.726 25.586.669 +54,08
Nga 37.106.673 32.855.993 +12,94
Đài Loan 35.139.564 25.853.820 +35,92
Nguồn: Tổng cục Hải quan, truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2015 tại 
&Category=Th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA%20H%E1%BA%A3i%20quan
Xuất khẩu hoa tươi là ngành công nghiệp 
mới nổi, chủ yếu từ cao nguyên miền Trung 
(Đà Lạt) tới thị trường các quốc gia Nhật 
Bản, Hàn Quốc, Bỉ, Thái Lan, Australia, 
Philippines, Singapore, Đài Loan (Trung 
Quốc), Campuchia, Pháp và Hà Lan. Đây 
cũng là ngành hàng có nhu cầu rất cao về 
chuỗi lạnh để duy trì liên tục độ tươi mới và 
giá trị của sản phẩm. Theo Bộ Công Thương, 
năm 2010, diện tích hoa tươi của Việt Nam 
vào khoảng 8.000ha với 4,5 tỷ cành, trong 
đó xuất khẩu 1 tỷ cành, đạt kim ngạch 60 
triệu USD. Hà Nội và các vùng lân cận trồng 
khoảng 1.000ha hoa, chủ yếu là hồng, cúc, 
đào, lay ơn và cẩm chướng. Các loài hoa miền 
nhiệt đới trồng tập trung ở TP. Hồ Chí Minh 
và các tỉnh đồng bằng Nam Bộ, đây cũng là 2 
khu vực sản xuất hoa tương đối lớn ở nước ta. 
Riêng tỉnh Lâm Đồng, diện tích trồng hoa lên 
đến 3.500ha, trong đó xuất khẩu trên 110 triệu 
cành/năm, phấn đấu đến năm 2015, tăng lên 
3.800ha. Đây được coi là trung tâm sản xuất 
hoa cắt cành lớn nhất cả nước với kim ngạch 
xuất khẩu hoa trực tiếp của Lâm Đồng năm 
2010 đạt khoảng 16 triệu USD (PGS.TS. An 
Thị Thanh Nhàn, 2015).
+ Nhóm hàng thủy hải sản
Một mặt hàng khác có yêu cầu nghiêm ngặt 
về chế độ bảo quản lạnh và lạnh sâu trong 
chuỗi cung ứng tới khách hàng là thủy hải 
sản. Ngành thủy hải sản xuất khẩu của Việt 
Nam trong 10 năm gần đây có tốc độ tăng 
trưởng cao từ 8-10%/năm, kim ngạch thủy hải 
sản xuất khẩu năm 2014 cả nước đạt gần 8 tỷ 
USD, đây là mức xuất khẩu kỷ lục của ngành 
thủy sản. 
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, giá trị 
xuất khẩu thủy sản tháng 12/2014 giảm 4,9% 
so với cùng kỳ năm ngoái. Tính cả năm 2014, 
xuất khẩu các mặt hàng đều tăng trưởng, 
trong đó xuất khẩu tôm đạt tăng trưởng cao 
nhất 26,9%, xuất khẩu cá tra đã hồi phục với 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
83Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 78 (12/2015)
mức tăng nhẹ 0,4%. Xuất khẩu cá ngừ chưa 
có dấu hiệu phục hồi, giảm 9,4%. Mỹ, EU và 
Nhật Bản vẫn là ba thị trường tiêu thụ lớn nhất 
của thuỷ sản Việt Nam. Năm 2014, tổng giá trị 
xuất khẩu sang ba thị trường này đạt hơn 4,38 
tỷ USD, chiếm 55,95% tổng giá trị xuất khẩu 
thủy sản của cả nước. 
Năm 2014, tổng giá trị xuất khẩu tôm có 
mức tăng trưởng mạnh (26,9%) so với cùng 
kỳ năm ngoái, đạt 3,95 tỷ USD, chiếm 50,38% 
tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Đứng đầu 
về nhập khẩu tôm Việt Nam là thị trường Mỹ 
chiếm 26,92% tỷ trọng xuất khẩu tôm và giá 
trị xuất khẩu đạt 1,06 tỷ USD (tăng 28%). 
Tiếp theo là thị trường Nhật Bản và EU chiếm 
tỷ trọng lần lượt là 18,8% và 17,27% với giá 
trị xuất khẩu tăng tương ứng 4,9% (đạt 743,4 
triệu USD) và 66,7% (đạt 682,7 triệu USD) 
(Tổng cục Hải quan, 2015). 
So với cùng kỳ năm 2013, xuất khẩu cá tra 
năm 2014 đạt gần 1,77 tỷ USD, tăng nhẹ 0,4% 
so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù giảm mạnh, 
nhưng EU vẫn là thị trường chủ lực nhập khẩu 
cá tra của Việt Nam. Năm 2014, xuất khẩu cá 
tra sang EU đạt 344,3 triệu USD, giảm 10,7% 
so với cùng kỳ năm trước, chiếm 19,47% tỷ 
trọng. Xuất khẩu cá tra vào thị trường Mỹ 
cũng giảm 11,5%, đạt 336,8 triệu USD, nhưng 
Mỹ vẫn là thị trường quan trọng đứng thứ hai 
của cá tra Việt Nam. Tiếp đến là xuất khẩu vào 
ASEAN và Bra-xin với giá trị tương ứng đạt 
136,6 triệu USD (tăng 9,4%) và 113,2 triệu 
USD (tăng 0,9%) (Tổng cục Hải quan, 2015). 
Mặc dù xuất khẩu cá ngừ những tháng cuối 
năm 2014 có xu hướng tăng so với cùng kỳ 
năm 2013, nhưng tính cả năm 2014, xuất khẩu 
cá ngừ vẫn giảm 8,1%, đạt 484,2 triệu USD. 
Hiện Mỹ tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu về nhập 
khẩu cá ngừ Việt Nam, chiếm 36,18% tỷ trọng 
giá trị xuất khẩu cá ngừ, đạt 175,2 triệu USD, 
giảm 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Đứng 
thứ hai là thị trường EU chiếm 27,92% tỷ trọng 
với giá trị xuất khẩu đạt 135,2 triệu USD, giảm 
3,9% so với cùng kỳ năm 2013. Tiếp theo là 
ASEAN và Nhật Bản chiếm 7,22% và 4,66% 
tỷ trọng, giá trị xuất khẩu sang hai thị trường 
này lần lượt là 35 triệu USD (giảm 1,5%) và 
22,6 triệu USD (giảm mạnh 46,3%) (Tổng cục 
Hải quan, 2015).
Năm 2014, xuất khẩu nhuyễn thể chân đầu 
(mực và bạch tuộc) tăng 8% so với cùng kỳ 
năm 2013, đạt 483,3 triệu USD. Hàn Quốc, 
Nhật Bản và EU là các thị trường nhập khẩu 
mực, bạch tuộc quan trọng nhất của Việt Nam, 
chiếm tỷ trọng lần lượt là 36,2%; 23,2% và 
16,7% với giá trị tương ứng là 174,7 triệu 
USD, 112 triệu USD và 80,6 triệu USD (Tổng 
cục Hải quan, 2015). 
Như vậy, với những kết quả đạt được trong 
năm 2014, các doanh nghiệp thủy sản Việt 
Nam bắt đầu hướng tới con số 10 tỷ USD đến 
năm 2020 theo mục tiêu chiến lược phát triển 
xuất khẩu thủy sản giai đoạn 2010 - 2020 của 
Chính phủ, đưa Việt Nam trở thành 1 trong 4 
cường quốc đứng đầu về xuất khẩu thủy sản 
trên thế giới. Để xuất khẩu được thủy hải sản 
đảm bảo chất lượng sang các thị trường chính 
như EU, Mỹ, Nhật Bản vốn cách xa về mặt địa 
lý, đòi hỏi phải có chuỗi cung ứng lạnh đáp 
ứng đủ tiêu chuẩn.
Thứ hai, trong những năm gần đây, số 
lượng các thị trường xuất khẩu của Việt Nam 
cũng tăng trưởng mạnh mẽ và được đa dạng 
hóa ở tất cả các múi giờ, các vùng nhiệt độ 
khác nhau tại các châu lục khác nhau, đòi hỏi 
các chuỗi cung ứng phải đáp ứng các yêu cầu 
về nhiệt độ và độ ẩm khác biệt hơn, phức tạp 
hơn. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực nhạy 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
84 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 78 (12/2015)
cảm với nhiệt độ như nông lâm sản, thủy hải 
sản đặt ra yêu cầu cấp bách phải có sự hình 
thành và phát triển mạnh của các chuỗi cung 
ứng lạnh. 
Nếu như năm 1986 Việt Nam mới chỉ có 
quan hệ trao đổi hàng hóa với 43 quốc gia 
trên thế giới, năm 1995 là 100 quốc gia, năm 
2000 là 192 quốc gia thì đến hết năm 2013, 
con số này đã lên tới gần 240 quốc gia và vùng 
lãnh thổ. Theo số liệu thống kê của Tổng cục 
Hải quan, tổng số lượng thị trường xuất khẩu, 
nhập khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD năm 
2014 là 46 thị trường trong đó xuất khẩu là 28 
thị trường, nhập khẩu là 18 thị trường (tăng 1 
thị trường xuất khẩu và 1 thị trường nhập khẩu 
so với năm 2013). Tổng kim ngạch xuất khẩu, 
nhập khẩu của nhóm các thị trường này chiếm 
gần 90% kim ngạch xuất khẩu và 90% kim 
ngạch nhập khẩu của cả nước. Trong nhóm 
các thị trường đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD 
nêu trên, có 3 thị trường xuất khẩu trên 10 tỷ 
USD (chiếm tỷ trọng 38,8% tổng kim ngạch 
xuất khẩu cả nước) là Hoa Kỳ, Nhật Bản, 
Trung Quốc và 4 thị trường nhập khẩu trên 
10 tỷ USD (chiếm tỷ trọng 60,5% tổng kim 
ngạch nhập khẩu cả nước) là Đài Loan, Trung 
Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. 
Thứ ba, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực 
phẩm của các thị trường xuất nhập khẩu trên 
thế giới cũng như thị trường trong nước ngày 
càng khắt khe cùng với thị hiếu người tiêu dùng 
thế giới chuyển hướng sang tiêu thụ nhiều hơn 
thực phẩm đông lạnh hoặc đông lạnh sâu dẫn 
tới yêu cầu cấp thiết phải xây dựng chuỗi cung 
ứng lạnh ở Việt Nam. Thu nhập bình quân đầu 
người ngày càng được cải thiện đã thúc đẩy 
ngành thực phẩm tiêu dùng ở Việt Nam, vốn 
đã là nguồn tăng trưởng vững chắc bất chấp sự 
chao đảo của nền kinh tế thế giới trong những 
năm gần đây. AC Nielsen xếp hạng Việt Nam 
là nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất châu 
Á trong lĩnh vực hàng tiêu dùng năm 2012 với 
tốc độ 23%, so với Ấn Độ 18% và Trung Quốc 
13%. Nhu cầu tiêu dùng thực phẩm chất lượng 
cao, có thương hiệu, an toàn cho sức khỏe 
trong nước được kỳ vọng sẽ tiếp tục được thúc 
đẩy nhờ tác động kết hợp của các yếu tố nhân 
khẩu học thuận lợi với gần 70% dân số thuộc 
độ tuổi lao động (15-60 tuổi), quá trình đô thị 
hóa mở rộng, mức gia tăng thu nhập khả dụng 
và tỷ lệ tiêu dùng. Tuy nhiên, số vụ vi phạm 
nghiêm trọng quy định của Nhà nước về vệ 
sinh an toàn thực phẩm ở tất cả các địa phương 
trên cả nước không hề giảm do nhiều nguyên 
nhân trong đó có cả việc thiếu ý thức chấp 
hành quy định của người sản xuất, người phân 
phối và thiếu công nghệ chế biến và bảo quản 
lạnh trong sản xuất và phân phối. Bên cạnh 
đó, các thị trường xuất khẩu chủ yếu của nông 
sản thực phẩm Việt Nam là Mỹ, EU và Nhật 
Bản thường xuyên đưa ra các quy định hoặc 
rào cản kỹ thuật mới kiểm soát an toàn thực 
phẩm và kiểm dịch thực vật đối với hàng nhập 
khẩu. Hoa Kỳ yêu cầu tất cả những nông sản 
nhập khẩu phải đạt phẩm cấp theo tiêu chuẩn 
của Ban Thị Trường thuộc Bộ Nông Nghiệp 
Hoa Kỳ (USDA). Cộng đồng Châu Âu yêu 
cầu rau quả tươi nhập khẩu phải đáp ứng tiêu 
chuẩn thị trường của EU về chất lượng và ghi 
nhãn. Việc kiểm soát được cơ quan thanh tra 
tiến hành tại địa điểm nhập khẩu hoặc trong 
một vài trường hợp được kiểm chứng tại nước 
thứ ba, tại địa điểm xuất khẩu. Nhật Bản đòi 
hỏi sản phẩm nhập khẩu phải tuân thủ các quy 
định trong Luật vệ sinh Thực phẩm, Luật tiêu 
chuẩn Nông nghiệp của Nhật Bản và Luật đo 
lường (Pascal Liu, 2007, tr.10). Do đó, việc 
hình thành và phát triển các chuỗi cung ứng 
lạnh sẽ giúp đáp ứng nhu cầu về vệ sinh an 
toàn thực phẩm của người dân trong nước 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
85Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 78 (12/2015)
cũng như các tiêu chuẩn nhập khẩu hàng nông 
sản thực phẩm ngặt nghèo của các thị trường 
nhập khẩu. 
4. Kết luận
Việc vận chuyển hàng hóa là sản phẩm 
nông nghiệp, dược phẩm trên phạm vi toàn 
cầu, xu hướng tiêu dùng hàng hóa chất lượng 
cao, đảm bảo an toàn thực phẩm và trình độ 
chuyên môn hóa tăng cao của chuỗi logistics 
cho phép sự hình thành và phát triển ngày 
càng mạnh của chuỗi cung ứng lạnh trên toàn 
thế giới. Chuỗi cung ứng lạnh có khả năng 
kiểm soát và duy trì nhiệt độ thích hợp với 
các loại hàng hóa có yêu cầu bảo quản lạnh 
khác nhau từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ 
nhằm cắt giảm chi phí đồng thời đảm bảo tối 
ưu chất lượng hàng hóa. Đứng trước nhu cầu 
cấp thiết về việc hình thành và xây dựng chuỗi 
cung ứng lạnh ở Việt Nam, Chính phủ đã đưa 
ra nhiều chính sách tạo tiền đề ứng dụng các 
công nghệ bảo quản tiên tiến, hiện đại như bảo 
quản lạnh, mát, bảo quản trong môi trường khí 
quyển cải biến, chiếu xạ hay sử dụng các trang 
thiết bị bảo quản lạnh như kho lạnh, xe lạnh 
để đảm bảo chất lượng của hàng hóa nông sản 
thực phẩm hay dược phẩm vận chuyển đến 
những thị trường xa xôi. Tuy nhiên, việc đưa 
ra những giải pháp khả thi để xây dựng và 
phát triển chuỗi cung ứng lạnh tại Việt Nam 
hiện đang rất cấp bách, đòi hỏi nhiều thời gian 
và công sức của các nhà ban hành pháp luật 
cũng như các nhà nghiên cứu.q 
Tài liệu tham khảo
1. An Thị Thanh Nhàn, 2015, Chuỗi cung ứng lạnh - tiềm năng phát triển ngành logistics 
Việt Nam, tạp chí Vietnam Logistics Review, truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2015. 
tiem-nang-phat-trien-nganh-logistics-viet-nam-ky-1-.vlr
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn- trang Xúc tiến thương mại, 2015, Đề án chống 
tổn thất sau thu hoạch nông nghiệp truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2015. 
gov.vn/Site/vi-vn/64/109/23920/Default.aspx
3. Chính phủ, 2010, Quyết định số 63/2010/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về chính 
sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản.
4. Pascal Liu, Phòng Thương Mại và Thị trường, FAO, 2007, Hướng dẫn thực hành cho 
người sản xuất và xuất khẩu ở châu Á: Các quy định, tiêu chuẩn và chứng nhận đối với 
nông sản xuất khẩu, Hà Nội: FAO. 
5. Tổng cục Hải quan, 2015, Sơ bộ tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam 
tháng 12 và 12 tháng năm 2014 , truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2015. 
y=Th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA%20H%E1%BA%A3i%20quan
6. Unicef, 2014, Cold chain and supplies, truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2015. 

File đính kèm:

  • pdfchuoi_cung_ung_lanh_va_su_can_thiet_phai_phat_trien_chuoi_cu.pdf