Chủ trương phát triển kinh tế, văn hóa miền núi miền Bắc của đảng trong những năm 1961 – 1965

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, chủ yếu do thiên nhiên ưu đãi, miền núi

miền Bắc nước ta còn nhiều khó khăn, xuất phát từ đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế - xã

hội. Đó là thực trạng thiếu hụt sức lao động, trình độ sản xuất thấp, nhu cầu sinh hoạt còn đơn

giản; đất hoang còn nhiều nhưng hầu hết là đất dốc; yêu cầu về kỹ thuật canh tác trên đất dốc,

việc bảo vệ rừng, bảo vệ đất, chống xói mòn cũng rất phức tạp Thêm vào đó, tính chất vùng

của miền núi cũng gây ra những khó khăn không nhỏ, không những có vùng thấp, vùng giữa,

vùng cao, mà ngay trong mỗi vùng đó tình hình khí hậu, đất đai, tập quán và kỹ thuật canh

tác, thành phần dân tộc cũng khác nhau rất nhiều. Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ

sản xuất, chế biến, cung cấp, tiêu thụ và giao thông phục vụ lưu thông, vận chuyển, trao đổi

còn nhiều yếu kém, hạn chế. Mặt khác,“trình độ văn hóa còn thấp của miền núi hiện nay là

một trong những trở ngại quan trọng cho việc phát triển sản xuất, củng cố và phát triển

phong trào hợp tác hóa nông nghiệp” [5;143].

pdf 7 trang kimcuc 7180
Bạn đang xem tài liệu "Chủ trương phát triển kinh tế, văn hóa miền núi miền Bắc của đảng trong những năm 1961 – 1965", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chủ trương phát triển kinh tế, văn hóa miền núi miền Bắc của đảng trong những năm 1961 – 1965

Chủ trương phát triển kinh tế, văn hóa miền núi miền Bắc của đảng trong những năm 1961 – 1965
98 
TẠP CHÍ KHOA HỌC 
Khoa học Xã hội, Số 5 (6/2016), tr 98 - 104 
CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HÓA 
MIỀN NÚI MIỀN BẮC CỦA ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM 1961 – 1965 
Bùi Mạnh Thắng 
Phòng Tổ chức Cán bộ, Trường Đại học Tây Bắc 
Tóm tắt: Xây dựng và phát triển miền núi luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước kể từ sau 
ngày hòa bình lập lại trên miền Bắc (7/1954). Bài viết này góp phần tìm hiểu chủ trương phát triển kinh tế, văn 
hóa miền núi miền Bắc của Đảng trong những năm 1961 - 1965. 
Từ khóa: chủ trương, phát triển, miền núi, miền Bắc 
1. Đặt vấn đề 
Miền núi chiếm trên 2/3 diện tích và trên 1/5 dân số của miền Bắc vào những năm đầu 
thập kỷ 60 thế kỷ XX, là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế và quốc 
phòng; có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế, văn hóa, nhưng cũng là khu vực còn nhiều khó 
khăn, trình độ kinh tế - xã hội chậm phát triển hơn so với miền xuôi. Để thực hiện mong 
muốn “đưa miền núi tiến kịp miền xuôi” đòi hỏi phải có những chủ trương, giải pháp đúng 
đắn, để có thể phát huy những tiềm năng to lớn của miền núi phục vụ sự nghiệp cách mạng 
chung của miền Bắc cũng như của cả nước. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Miền núi miền Bắc trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam 
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm 
hai miền. Trung ương Đảng sớm xác định phương hướng của miền Bắc là tiến lên xây dựng 
chủ nghĩa xã hội, làm chỗ dựa cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. Trong hoàn cảnh 
mới, cùng với nhiệm vụ củng cố miền Bắc, yêu cầu xây dựng và phát triển miền núi được đặt 
ra đối với Đảng và Nhà nước gắn với chức năng quản lý kinh tế xã hội. Vai trò của miền núi 
vốn đã được khẳng định trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và kháng chiến trước đây. 
Tuy nhiên, trên thực tế, sau kháng chiến chống Pháp, miền núi vẫn là khu vực có trình độ kinh 
tế - xã hội thấp kém so với khu vực đồng bằng. Miền núi lại là địa bàn sinh sống của nhiều 
dân tộc thiểu số; là khu vực luôn được các thế lực thù địch quan tâm, tập trung nghiên cứu và 
triển khai các âm mưu, kế hoạch chống phá nguy hiểm. Ngay sau khi hòa bình lập lại, Đảng 
và Chính phủ đã đề ra chủ trương thành lập ở miền núi các khu tự trị nhằm tăng cường tính tự 
chủ và vai trò tự quản lý của các dân tộc. Trên cơ sở đó, Khu tự trị Thái - Mèo được thành lập 
ngày 7-5-1955 (năm 1962 đổi tên thành Khu tự trị Tây Bắc) và Khu tự trị Việt Bắc ra đời 
ngày 1-7-1956. Các khu tự trị trở thành đơn vị hành chính chính thức của nước Việt Nam Dân 
chủ Cộng hòa. 
Trong những năm 1954 - 1960, cùng với nhân dân miền Bắc, đồng bào các dân tộc thiểu 
số ở khu vực miền núi ra sức phấn đấu khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, xây dựng và 
Ngày nhận bài: 21/4/2016. Ngày nhận đăng: 20/7/2016 
Liên lạc: Bùi Mạnh Thắng- mail: buithangdhtb@gmail.com 
99 
củng cố hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền các cấp; bước đầu thực hiện vận động hợp tác 
hóa nông nghiệp kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ. Bước vào thời kỳ cách mạng xã hội 
chủ nghĩa, nhiệm vụ đặt ra đối với nhân dân miền Bắc phải tiếp tục phát huy những thắng lợi 
đã đạt được, đẩy mạnh các phong trào thi đua, tấn công vào nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng 
miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Với 
địa bàn miền núi, nhiệm vụ đó càng trở nên nặng nề hơn, rất cần được quan tâm với những 
chính sách hỗ trợ, với sự chung tay góp sức của cả miền Bắc. 
Vị trí và vai trò quan trọng của miền núi sớm được Đảng, Nhà nước khẳng định. Báo cáo 
chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của 
Đảng Lao động Việt Nam (tháng 9-1960) đã xác định vị trí, vai trò của miền núi trong sự 
nghiệp cách mạng: “Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, sự nghiệp xây 
dựng kinh tế miền núi có một tầm quan trọng rất lớn. Miền núi nước ta rộng gấp mấy lần diện 
tích miền xuôi, lại có tài nguyên tự nhiên phong phú, cho nên nền kinh tế mà chúng ta xây 
dựng ở miền núi sẽ giúp nâng cao không ngừng mức sống vật chất và văn hóa của đồng bào 
miền núi, đồng thời sẽ bổ sung cho kinh tế miền xuôi, góp phần rất quan trọng vào công cuộc 
xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc” [2;584-585]. Nghị 
quyết số 71-NQ/TW ngày 23/2/1963 của Bộ Chính trị về vấn đề phát triển nông nghiệp ở 
miền núi một lần nữa khẳng định: “Miền núi miền Bắc nước ta chiếm trên 2/3 diện tích và 
trên 1/5 dân số chung của miền Bắc, có một vị trí hết sức quan trọng về chính trị, kinh tế và 
quốc phòng” [5;122]. Vì vậy, xây dựng và phát triển miền núi trở thành yêu cầu cấp thiết, 
một nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, trực tiếp của các địa phương miền núi. 
Miền núi có phát triển vững mạnh thì hậu phương miền Bắc mới được củng cố vững chắc và 
phát triển toàn diện. Hơn nữa, miền núi miền Bắc là địa bàn sinh sống chủ yếu của các dân tộc 
thiểu số. Phát triển kinh tế, xã hội miền núi là một bộ phận quan trọng trong chính sách dân 
tộc của Đảng. Chính vì thực hiện tốt những chính sách này mà Đảng đã tạo được sức mạnh 
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và tổ chức 
kháng chiến. Đó là một bài học kinh nghiệm cần tiếp tục phát huy trong thời kỳ mới. 
Cùng với việc nhận thức vị trí quan trọng của miền núi, Trung ương Đảng cũng sớm xác 
định rõ những đặc điểm, thực trạng của miền núi làm cơ sở để hoạch định chủ trương, phương 
hướng xây dựng và phát triển đối với khu vực chiến lược này. 
Miền núi miền Bắc nước ta vốn là khu vực rộng lớn, giàu tiềm năng phát triển kinh tế. 
Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 23/2/1963 của Bộ Chính trị về vấn đề phát triển nông nghiệp 
ở miền núi nhấn mạnh: “Về nguồn lợi thiên nhiên, chẳng những miền núi có nhiều khả năng 
để phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, mà còn có nhiều khả năng tiềm tàng để phát triển 
những ngành công nghiệp lớn và trọng yếu, làm cơ sở để cải thiện đời sống của nhân dân các 
dân tộc và thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà” [5;122]. Nghị 
quyết cũng chỉ rõ những thuận lợi của miền núi, bao gồm: nhiều đất đai chưa khai phá, có khả 
năng để mở rộng thêm diện tích (khoảng 1 triệu hécta); có nguồn nước nhiều, nguồn phân 
nhiều, sức kéo đầy đủ để đẩy mạnh tăng năng suất; có nhiều loại đất đai thích hợp để phát 
triển sản xuất toàn diện cả lương thực, chăn nuôi, nghề rừng, cây công nghiệp, nhất là có 
100 
nhiều khả năng để phát triển mạnh chăn nuôi, nghề rừng và cây công nghiệp hơn hẳn miền 
xuôi, từ đó có khả năng cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, tăng cường lực lượng của 
hợp tác xã và bảo đảm nhu cầu của Nhà nước. 
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, chủ yếu do thiên nhiên ưu đãi, miền núi 
miền Bắc nước ta còn nhiều khó khăn, xuất phát từ đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế - xã 
hội. Đó là thực trạng thiếu hụt sức lao động, trình độ sản xuất thấp, nhu cầu sinh hoạt còn đơn 
giản; đất hoang còn nhiều nhưng hầu hết là đất dốc; yêu cầu về kỹ thuật canh tác trên đất dốc, 
việc bảo vệ rừng, bảo vệ đất, chống xói mòn cũng rất phức tạp Thêm vào đó, tính chất vùng 
của miền núi cũng gây ra những khó khăn không nhỏ, không những có vùng thấp, vùng giữa, 
vùng cao, mà ngay trong mỗi vùng đó tình hình khí hậu, đất đai, tập quán và kỹ thuật canh 
tác, thành phần dân tộc cũng khác nhau rất nhiều. Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ 
sản xuất, chế biến, cung cấp, tiêu thụ và giao thông phục vụ lưu thông, vận chuyển, trao đổi 
còn nhiều yếu kém, hạn chế. Mặt khác,“trình độ văn hóa còn thấp của miền núi hiện nay là 
một trong những trở ngại quan trọng cho việc phát triển sản xuất, củng cố và phát triển 
phong trào hợp tác hóa nông nghiệp” [5;143]. 
Về mục đích xây dựng miền núi, Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội Đảng toàn quốc 
lần thứ III đã chỉ rõ: “Đảng và Nhà nước dân chủ nhân dân cần phải làm cho miền núi tiến 
kịp miền xuôi, vùng cao và vùng biên giới tiến kịp vùng nội địa, các dân tộc thiểu số tiến kịp 
dân tộc Kinh, giúp các dân tộc phát huy tinh thần cách mạng và năng lực to lớn của mình, 
cùng nhau đoàn kết chặt chẽ để tiến lên chủ nghĩa xã hội” [2;609]. Báo cáo chính trị cũng xác 
định: “Xây dựng miền núi chủ yếu và trước hết là một vấn đề kinh tế nhằm sử dụng những 
khả năng dồi dào của miền núi vào việc tăng cường sức mạnh kinh tế của cả miền Bắc nước 
ta và nâng cao mức sống của đồng bào các dân tộc thiểu số” [2;584-585]. Như vậy, mục đích 
xây dựng và phát triển miền núi vừa phục vụ lợi ích của đồng bào các dân tộc, vừa phục vụ 
mục đích chung của sự nghiệp cách mạng miền Bắc và cả nước. Xây dựng kinh tế miền núi 
“là một bộ phận khăng khít của chính sách dân tộc của Đảng ta trong giai đoạn mới của cách 
mạng. Nó bảo đảm cho miền núi dần dần tiến kịp miền xuôi, cho các dân tộc thiểu số tiến kịp 
dân tộc Kinh, thực hiện đầy đủ sự bình đẳng và tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc. Nó 
phù hợp với lợi ích thiết thân của các dân tộc miền núi, đồng thời cũng phù hợp với lợi ích 
thiết thân của toàn thể nhân dân lao động miền Bắc” [2;585]. Thêm nữa, phát triển kinh tế, 
văn hóa miền núi không chỉ nhằm đưa miền núi nhanh chóng tiến kịp miền xuôi mà còn thực 
hiện mục đích phát huy tiềm năng dồi dào của miền núi đóng góp vào công cuộc xây dựng 
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và phục vụ cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất 
nước. Mục đích đó là cơ sở để xác định chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đối 
với vấn đề phát triển kinh tế và văn hóa miền núi trong giai đoạn cách mạng mới. 
2.2. Chủ trương phát triển kinh tế, văn hóa miền núi miền Bắc của Đảng trong những 
năm 1961 - 1965 
Xuất phát từ mục đích phục vụ lợi ích của đồng bào các dân tộc và đóng góp cho sự 
nghiệp cách mạng chung của cả nước, Báo cáo chính trị của Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc 
lần thứ III nêu rõ phương hướng và nhiệm vụ cụ thể đối với miền núi là: “phát triển mạnh mẽ 
101 
nông nghiệp miền núi: đẩy mạnh sản xuất lương thực, phát triển chăn nuôi gia súc theo quy 
mô lớn, mở những nông trường quốc doanh chuyên trồng cây công nghiệp và cây ăn quả, 
đồng thời khuyến khích các hợp tác xã nông nghiệp chăn nuôi, trồng cây công nghiệp và cây 
ăn quả. Ra sức phát triển lâm nghiệp, bảo vệ rừng, trồng cây gây rừng, khai thác lâm thổ sản, 
xây dựng các lâm trường quốc doanh. Cần mở rộng những khu công nghiệp hiện có, chuẩn bị 
điều kiện để xây dựng thêm những khu công nghiệp mới, khuyến khích các nông trường quốc 
doanh và lâm trường quốc doanh xây dựng công nghiệp địa phương, nhất là các loại công 
nghiệp chế biến những sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi và lâm nghiệp, v.v..”. Cùng với đó, 
“cần đặc biệt coi trọng việc phát triển giao thông vận tải và đẩy mạnh công tác thương 
nghiệp” [2;585]. Có thể thấy, ngay từ sớm, Trung ương Đảng đã xác định quan điểm toàn 
diện trong chủ trương phát triển kinh tế miền núi. 
Triển khai cụ thể hóa nội dung Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III của Đảng 
về phát triển kinh tế nông nghiệp, ngay trong tháng 7-1961, Hội nghị Trung ương lần thứ năm 
đã ban hành Nghị quyết về vấn đề phát triển nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 
(1961 - 1965), trong đó nhấn mạnh quan điểm, chủ trương liên quan đến phát triển nông 
nghiệp ở miền núi. Nghị quyết khẳng định: “nông nghiệp ở miền núi phải phát triển mạnh 
nhằm xây dựng dần dần miền núi thành những vùng nông nghiệp mới có tính chất toàn diện. 
Hướng phát triển nông nghiệp miền núi là bảo đảm tự giải quyết lương thực, đặc biệt phát 
triển mạnh chăn nuôi gia súc, phát triển các loại cây công nghiệp và cây ăn quả, phát triển 
việc trồng rừng và khai thác rừng”. Mục đích phát triển nông nghiệp ở miền núi cũng được 
chỉ rõ: “Trong 5 năm, với việc phát huy lực lượng lao động ở miền núi, phát triển các nông 
trường và lâm trường quốc doanh, tổ chức khai hoang bằng nhiều hình thức, chúng ta phải 
bước đầu làm chuyển biến bộ mặt nông nghiệp miền núi, biến nền kinh tế vốn là tự cấp dần 
dần trở thành một nền kinh tế phát triển toàn diện và có nhiều sản phẩm hàng hóa” [3;429]. 
Nghị quyết nhấn mạnh: Để phát triển nông nghiệp miền núi, phải vừa chú ý vùng thấp, vừa 
chú ý đặc biệt đến vùng cao, có kế hoạch thích hợp cho từng vùng. Riêng ở vùng cao, cần có 
kế hoạch giúp đỡ phát triển những ngành thích hợp như lương thực, chăn nuôi và một số cây 
công nghiệp chịu lạnh, khai thác lâm thổ sản, đồng thời thực hiện từng bước việc định cư, 
định canh một cách thích hợp, giúp đỡ đồng bào phát triển nông nghiệp và thủ công nghiệp, đi 
vào con đường làm ăn có tổ chức và cải thiện đời sống. Nhà nước cần có đầu tư thích đáng 
cho nông nghiệp miền núi, chú ý đến các vấn đề thủy lợi, giao thông, chế biến và tiêu thụ 
nông sản. 
Phương châm của Đảng trong Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất là phát triển công 
nghiệp và nông nghiệp một cách toàn diện, vững chắc. Vì vậy, bên cạnh phương hướng, 
nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, đầu tư phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp miền núi 
cũng được Trung ương Đảng hết sức quan tâm. Báo cáo về nhiệm vụ và phương hướng xây 
dựng phát triển công nghiệp tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (họp 
từ ngày 26-3 đến ngày 16-4-1962) đã xác định ý nghĩa của việc phát triển công nghiệp ở miền 
núi: “Đối với miền núi, việc phát triển công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp sẽ tận 
dụng được nguồn lợi thiên nhiên về nông sản, lâm sản, thủy sản ở địa phương rất có lợi về 
102 
kinh tế, lại còn có tác dụng nâng dần trình độ mọi mặt của miền núi tiến kịp miền xuôi, thực 
hiện chính sách dân tộc của Đảng, kết hợp được yêu cầu kinh tế với củng cố quốc phòng ở 
nước ta” [4;257]. Đó là một lĩnh vực rất quan trọng của quá trình phát triển kinh tế miền núi. 
Cần ra sức phát triển thủ công nghiệp và công nghiệp địa phương ở miền núi để dần dần nâng 
cao trình độ kinh tế ở miền núi tiến kịp đồng bằng, trong đó, chú ý việc khai thác và chế biến 
gỗ, lâm sản, khai thác khoáng sản, chế biến bột giấy, tư liệu sản xuất thông thường cho nông 
nghiệp. Cần hết sức chú trọng tự túc dần dần về những hàng tiêu dùng cồng kềnh hoặc nặng 
nề như gốm, sành, thủy tinh, đồ gỗ để hạn chế những khó khăn do điều kiện giao thông vận 
chuyển. Đặc biệt, Trung ương nhấn mạnh nhiệm vụ tập trung xây dựng một số công trình, nhà 
máy quan trọng tại khu vực miền núi như Khu Gang thép Thái Nguyên, Nhà máy Thủy điện 
Thác Bà, Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí 
Cùng với chủ trương phát triển kinh tế miền núi, Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn 
quốc lần thứ III cũng chỉ rõ: về mặt văn hóa, cần tiếp tục xóa nạn mù chữ, xây dựng chữ dân 
tộc ở những nơi cần thiết, thực hiện giáo dục phổ cập, phát triển văn nghệ dân tộc, phổ biến 
rộng rãi khoa học thường thức, nhằm xóa bỏ dần mê tín dị đoan; chú trọng công tác y tế, phát 
triển phong trào vệ sinh phòng bệnh, nâng cao sức khỏe của đồng bào thiểu số. Cần ra sức 
khắc phục những biểu hiện của tư tưởng dân tộc lớn và của tư tưởng dân tộc chủ nghĩa hẹp 
hòi, nâng cao không ngừng tinh thần thương yêu giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Nghị 
quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ ba (họp từ ngày 30-12-1960 đến ngày 5-1-1961) về kế 
hoạch Nhà nước năm 1961 khẳng định phương hướng phát triển văn hóa miền núi: “Phải 
phát triển mạnh công tác văn hóa, giáo dục, y tế ở miền núi. Đẩy mạnh việc thanh toán nạn 
mù chữ, nhất là ở vùng cao, phát triển công tác bổ túc văn hóa và giáo dục phổ thông; mở 
rộng việc dạy chữ dân tộc, đồng thời tích cực dạy chữ phổ thông; phổ biến khoa học, kỹ 
thuật; vận động nhân dân bỏ dần mê tín, dị đoan và những tập quán xấu. Ra sức đào tạo cán 
bộ cho miền núi. Đẩy mạnh vệ sinh phòng bệnh, tiếp tục và mở rộng công tác chóng bệnh sốt 
rét” [3;43] 
Văn kiện phản ánh đầy đủ và hệ thống những chủ trương, quan điểm phát triển kinh tế, 
văn hóa miền núi miền Bắc của Đảng là Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát 
triển kinh tế và văn hóa 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) được trình bày và thông qua tại Hội 
nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (tháng 4-1963). Trong báo cáo 
này, phát triển kinh tế và văn hóa miền núi được xác định là một trong 11 nhiệm vụ cụ thể của 
các ngành. Theo tinh thần ấy, phương hướng và nhiệm vụ phát triển kinh tế và văn hóa ở miền 
núi trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất được hoạch định bao gồm một số nội dung cơ bản: 
- Ra sức củng cố các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp sẵn có, xây dựng thêm các hợp tác 
xã thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh từng địa phương, củng cố thêm một bước quan hệ sản 
xuất mới, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hợp tác xã, và trên cơ sở ấy, ra sức phát 
triển lực lượng sản xuất mạnh mẽ và vững chắc. Phải dựa vào các hợp tác xã, nông trường, 
lâm trường quốc doanh, sử dụng tốt lực lượng lao động ở miền núi và dựa vào lực lượng lao 
động và kỹ thuật ở miền xuôi đưa lên, ra sức đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất, khai 
hoang tăng vụ để phát triển nông nghiệp một cách toàn diện. 
103 
- Dựa trên sự phát triển nông nghiệp toàn diện, và khả năng cán bộ, nguyên liệu, đẩy 
mạnh phát triển công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp. Cố 
gắng tự giải quyết những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng theo tập quán của địa phương và 
cung cấp một số hàng cần thiết cho nhu cầu của nền kinh tế chung. 
- Để đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, phải giải quyết tốt vấn đề 
giao thông vận tải. Ra sức phát triển mạng lưới giao thông từ tỉnh xuống các huyện, châu, chú 
ý các vùng khai hoang; các vùng có nhiều nông sản, lâm sản, thổ sản. Đi đôi với việc phát 
triển đường sá, cải tạo sông ngòi, chú ý cải tiến phương tiện giao thông từ phương tiện thô sơ 
tiến dần đến thô sơ cải tiến và nửa cơ giới. 
- Trên cơ sở phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, mở mang giao thông vận 
tải, cải tiến và mở thêm mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Thông qua hoạt động 
thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, mở rộng diện lưu thông tiền ngân hàng, tiến tới thủ tiêu tiền 
hoa xòe, củng cố nền tiền tệ duy nhất. 
- Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa. Để đẩy mạnh phát triển 
sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, phải tích cực đào tạo thêm nhiều cán bộ địa phương về 
kỹ thuật và văn hóa; mở thêm một số cơ sở nghiên cứu khoa học và y tế đáp ứng nhu cầu địa 
phương. 
- Trên cơ sở phát triển kinh tế và văn hóa, cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và 
tinh thần của đồng bào miền núi. 
Có thể thấy, phát triển kinh tế và văn hóa miền núi miền Bắc đã trở thành một trong 
những nội dung quan trọng của Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965). 
3. Kết luận 
Xuất phát từ việc nhận thức rõ vai trò của miền núi với sự nghiệp cách mạng chung, 
trong giai đoạn thực hiện Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), Đảng Lao 
động Việt Nam quyết tâm phát triển kinh tế, văn hóa miền núi. Chủ trương phát triển kinh tế, 
văn hóa miền núi nêu trên đã phản ánh quan điểm toàn diện, khẳng định mong muốn lớn lao 
nhằm “đưa miền núi tiến kịp miền xuôi”. Đó là điểm khởi đầu cho quá trình định hình và hiện 
thực hóa hệ thống chính sách đối với miền núi được triển khai mạnh mẽ kể sau năm 1960, đặt 
nền tảng cho những bước phát triển vững chắc của miền núi - địa bàn chiến lược quan trọng 
trên miền Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Hoàng Bắc (1963), Chung sức xây dựng miền núi, Nxb Phổ thông, Hà Nội. 
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 21 (1960), Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 22 (1961), Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 23 (1962), Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
104 
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 24 (1963), Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[6] Vụ Tuyên giáo Ủy ban Dân tộc (1960), Các dân tộc thiểu số trưởng thành dưới 
ngọn cờ vinh quang của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
THE COMMUNIST PARTY’S POLICIES FOR DEVELOPING THE 
ECONOMY AND CULTURE OF THE NORTHERN MOUNTAINOUS 
AREAS IN VIETNAM IN THE PERIOD OF 1961 – 1965 
Bui Manh Thang 
Tay Bac University 
Abstract: Since the regain of peace in July 1954, building up and developing the Northern mountainous 
area was the first concern of the Communist Party and the government. The article attempts to get a deep insight 
into the policies for the development of economy and culture in the Northern mountainous area in 1961 – 1965. 
Key words: Policy, development, mountainous area, the North. 

File đính kèm:

  • pdfchu_truong_phat_trien_kinh_te_van_hoa_mien_nui_mien_bac_cua.pdf