Chính sách tỷ giá hối đoái tác động đến tăng trưởng kinh tế, khuyến nghị cho Việt Nam

Tăng trưởng kinh tế đóng vai trò quan

trọng đối với bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt là

các quốc gia đang phát triển. Trong những

năm gần đây, có khá nhiều nhà nghiên cứu

tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ

giá hối đoái và tăng trưởng kinh tế. Có thể

thấy lĩnh vực nghiên cứu về tác động của tỷ

giá hối đoái đến tăng trưởng kinh tế không

phải là chủ đề mới trên thế giới. Các nghiên

cứu gần đây đã đưa ra khá nhiều các quan

điểm khác nhau về mối quan hệ giữa tỷ giá

hối đoái và tăng trưởng kinh tế của các quốc

gia. Qua bài viết này, bằng phương pháp

định lượng tác giả nghiên cứu cùng với 5 yếu

tố thì, tác động của tỷ giá hối đoái đến tăng

trưởng kinh tế cũng là một yếu tố quan trọng.

Qua đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị đối

với Việt Nam.

pdf 15 trang kimcuc 10800
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách tỷ giá hối đoái tác động đến tăng trưởng kinh tế, khuyến nghị cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách tỷ giá hối đoái tác động đến tăng trưởng kinh tế, khuyến nghị cho Việt Nam

Chính sách tỷ giá hối đoái tác động đến tăng trưởng kinh tế, khuyến nghị cho Việt Nam
1Chính sách tỷ giá hối đoái ...
Kinh tế
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TÁC ĐỘNG ĐẾN TĔNG 
TRƯỞNG KINH TẾ, KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
Trần Vĕn Biên*
TÓM TẮT
Tĕng trưởng kinh tế đóng vai trò quan 
trọng đối với bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt là 
các quốc gia đang phát triển. Trong những 
nĕm gần đây, có khá nhiều nhà nghiên cứu 
tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ 
giá hối đoái và tĕng trưởng kinh tế. Có thể 
thấy lĩnh vực nghiên cứu về tác động của tỷ 
giá hối đoái đến tĕng trưởng kinh tế không 
phải là chủ đề mới trên thế giới. Các nghiên 
cứu gần đây đã đưa ra khá nhiều các quan 
điểm khác nhau về mối quan hệ giữa tỷ giá 
hối đoái và tĕng trưởng kinh tế của các quốc 
gia. Qua bài viết này, bằng phương pháp 
định lượng tác giả nghiên cứu cùng với 5 yếu 
tố thì, tác động của tỷ giá hối đoái đến tĕng 
trưởng kinh tế cũng là một yếu tố quan trọng. 
Qua đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị đối 
với Việt Nam.
Từ khóa: tĕng trưởng kinh tế, tỷ giá hối 
đoái, Việt Nam
EXCHANGE RATE POLICY IMPACT ON ECONOMIC GROWTH, 
RECOMMENDATIONS FOR VIETNAM
ABSTRACT
 Economic growth plays an important 
role in any country, especially in developing 
countries. In recent years, many researchers 
have focused on the relationship between 
exchange rates and economic growth. It can 
be seen that the area of study on the impact of 
exchange rates on economic growth is not a new 
topic in the world. Recent studies have given a 
number of different views on the relationship 
between exchange rates and economic growth 
of nations. Using this paper, the impact of 
exchange rates on economic growth is also an 
important factor in quantifying the authors’ 
contributions. Thereby, the author makes a 
number of recommendations to Vietnam.
Key words: economic growth, exchange 
rate, Vietnam
* ThS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương. NCS.Trường ĐH. Ngân hang Tp. HCM. 
ĐT: 0914678759. Email: dtvbien@gmail.com
1. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
1.1. Lý thuyết về tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế và 
cũng là một trong những công cụ chính sách 
tiền tệ của Nhà nước trong quản lý và điều 
hành chính sách kinh tế vĩ mô. Cho đến nay, 
2Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đã có rất nhiều nhà kinh tế đưa ra các khái 
niệm khác nhau về tỷ giá hối đoái như:
Karl Mark (1818-1883) chính là người 
đầu tiên đưa ra khái niệm tỷ giá hối đoái. 
Trong bộ “Tư bản”(1858) ông viết: “Tỷ giá 
hối đoái là một phạm trù kinh tế lịch sử, 
gắn với giai đoạn phát triển sản xuất của xã 
hội, tính chất, cường độ tác động của nó phụ 
thuộc vào trình độ phát triển thị trường và 
các giai đoạn cụ thể trong lưu thông tiền tệ 
thế giới”. Đây là một khái niệm khá phức tạp 
mang nặng tính lý luận hơn nghiên cứu thực 
tế song cũng đã thể hiện được phần nào tính 
lịch sử cũng như sự vận động của tỷ giá.
Theo nhà kinh tế học Paul Anthony 
Samuelson thì tỷ giá hối đoái là tỷ giá để đổi 
lấy tiền của một nước khác. Đồng quan điểm 
với Paul Anthony Samuelson, nhà kinh tế học 
Ralph Slatyer định nghĩa tỷ giá là một đồng 
tiền của một quốc gia nào đó bằng giá trị của 
một số lượng tiền của một quốc gia khác.
1.2. Lý thuyết về tĕng trưởng kinh tế
Ngân hàng thế giới định nghĩa tĕng 
trưởng kinh tế là: sự thay đổi hay mở rộng về 
số lượng trong nền kinh tế của một đất nước. 
Tĕng trưởng kinh tế thường được đo lường 
bằng tỷ lệ tĕng của tổng sản phẩm quốc nội 
(GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP) 
trong một nĕm. Tĕng trưởng kinh tế có hai 
hình thức: thứ nhất là tĕng trưởng theo chiều 
rộng bằng cách sử dụng nhiều tài nguyên hơn 
như vật chất, lao động, vốn tự nhiên; thứ hai 
là tĕng trưởng theo chiều sâu bằng cách sử 
dụng lượng tài nguyên hiệu quả hơn.
Theo hình thức thứ nhất, nếu tĕng trưởng 
kinh tế dựa vào tĕng lao động thì do lao động 
tĕng cao nên việc này sẽ không làm tĕng thu 
nhập bình quân đầu người; tĕng sử dụng tài 
nguyên thì sẽ gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái, 
môi trường và làm cạn kiệt tài nguyên quốc 
gia. Nhưng nếu tĕng trưởng kinh tế theo hình 
thức thứ hai, nghĩa là sử dụng hiệu quả hơn 
các nguồn lực như vốn, lao động thì kết quả 
thu nhập trung bình trên đầu người sẽ tĕng 
lên đồng thời cải thiện được chất lượng cuộc 
sống của người dân.
Tóm lại, tĕng trưởng kinh tế là sự tĕng 
lên về quy mô sản lượng của nền kinh tế 
trong một thời kỳ nhất định. Sự tĕng trưởng 
được so sánh theo các thời điểm gốc để phản 
ánh tốc độ tĕng lên của một nền kinh tế.
2. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TĔNG 
TRƯỞNG KINH TẾ
Theo các nghiên cứu về tĕng trưởng kinh 
tế thì các nhân tố ảnh hưởng đến tĕng trưởng 
kinh tế thông thường nói tới 5 nhân tố chủ 
yếu: vốn (K), lao động (L), tài nguyên đất 
đai (R), công nghệ kỹ thuật (T) và nĕng suất 
nhân tố tổng hợp (TFP). Trong đó:
2.1. Vốn (K): là yếu tố vật chất đầu vào 
quan trọng có tác động trực tiếp đến tĕng 
trưởng kinh tế. Vốn sản xuất đứng trên góc 
độ vĩ mô được xét vốn vật chất chứ không 
phải là dưới dạng tiền (giá trị). Nó là toàn bộ 
tư liệu vật chất được tích lũy lại của nền kinh 
tế và bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy móc 
Ở các nước đang phát triển thì tĕng trưởng 
thường theo chiều rộng, sự đóng góp của 
vốn sản xuất vào tĕng trưởng kinh tế thường 
chiếm tỷ trọng cao nhất.
2.2. Lao động (L): trước đây, thường chỉ 
quan niệm lao động là yếu tố vật chất đầu 
vào giống như yếu tố vốn và được xác định 
bằng số lượng dân số, nguồn lao động của 
mỗi quốc gia có thể tính bằng đầu người hay 
thời gian lao động. Tuy nhiên, những mô 
hình tĕng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã 
nhấn mạnh đến cả khía cạnh phi vật chất của 
lao động gọi là vốn nhân lực, đó là kỹ nĕng, 
sáng kiến và phương pháp mới của lao động. 
Xét yếu tố lao động theo hai nội dung đó có 
3Chính sách tỷ giá hối đoái ...
ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phân 
tích lợi thế và vai trò của lao động trong tĕng 
trưởng kinh tế. Hiện nay, tĕng trưởng kinh tế 
của các nước đang phát triển xét theo yếu tố 
lao động được đóng góp nhiều bởi quy mô, 
số lượng lao động hơn là đóng góp của chất 
lượng lao động.
2.3. Tài nguyên (R): yếu tố quan trọng 
trong sản xuất nông nghiệp và là yếu tố 
không thể thiếu được trong việc thực hiện bố 
trí các cơ sở kinh tế thuộc các ngành công 
nghiệp, dịch vụ. Tài nguyên thiên nhiên từ 
trong lòng đất, không khí, rừng và biển được 
chia ra làm hai loại: tài nguyên có thể tái tạo 
và tài nguyên không thể tái tạo. Tài nguyên 
là yếu tố quan trọng nhưng không phải là yếu 
tố quan trọng nhất trong tĕng trưởng kinh 
tế. Một nền kinh tế nghèo tài nguyên nhưng 
được sử dụng hiệu quả thì tĕng trưởng kinh tế 
vẫn tốt hơn nước giàu tài nguyên.
2.4. Khoa học công nghệ (T): được coi 
là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến tĕng 
trưởng kinh tế trong điều kiện hiện đại. Yếu 
tố công nghệ kỹ thuật cần được hiểu đầy đủ 
ở hai góc độ: thứ nhất, khoa học công nghệ 
là những thành tựu khoa học, những nguyên 
lý thử nghiệm và cải tiến sản phẩm, quy trình 
công nghệ hay thiết bị kỹ thuật; thứ hai, khoa 
học công nghệ là sự áp dụng phổ biến các 
kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế 
nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của 
sản xuất.
2.5. Nĕng suất nhân tố tổng hợp (TFP): 
thể hiện hiệu quả của yếu tố công nghệ kỹ 
thuật hay các tác động của tiến bộ khoa học 
kỹ thuật đến tĕng trưởng kinh tế được xác 
định bằng phần dư của tĕng trưởng sau khi 
đã loại trừ tác động của các yếu tố vốn và lao 
động. TFP được là yếu tố chất lượng của tĕng 
trưởng hay tĕng trưởng theo chiều sâu. Ngày 
nay, tác động của thể chế, chính sách mở cửa, 
hội nhập hay phát triển của vốn nhân lực đã 
giúp cho các nước đang phát triển tiếp cận 
được nhanh chóng những công nghệ hàng 
đầu thế giới, tạo nên sự rượt đuổi dựa trên 
nĕng suất và sự đóng góp của TFP ngày càng 
cao trong quá trình thực hiện mục tiêu tĕng 
trưởng nhanh của các nước trên thế giới.
3. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ TÁC 
ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐẾN 
TĔNG TRƯỞNG KINH TẾ
3.1. Nghiên cứu của Ofair Razin và Susan 
M.Collins (1997)
Ofair Razin và Susan M.Collins(1997) 
đã nghiên cứu về tỷ giá hổi đoái thực và tĕng 
trưởng nhằm xây dựng một chỉ số để đo lường 
mức độ định giá sai lệch của tỷ giá hiệu lực. 
Tác giả sử dụng phương pháp hồi quy để đưa 
ra kết quả về việc đánh giá cao hoặc thấp đồng 
nội tệ dựa vào mô hình IS-LM. Đồng thời 
xem xét mối tương quan giữa tỷ giá và tĕng 
trưởng ở những quốc gia đã và đang phát triển. 
Nghiên cứu đã chỉ ra được một mối liên hệ phi 
tuyến tính giữa tỷ giá hiệu lực và tốc độ tĕng 
trưởng của một quốc gia.
Tỷ giá hiệu lực của một quốc gia có thể 
được định giá cao hơn hay thấp hơn một tỷ 
giá lý tưởng nào đó. Tỷ giá hiệu lực được coi 
là bị định giá sai lệch khi nó lệch khỏi tỷ giá 
cân bằng. Tỷ giá cân bằng được hiểu là tỷ giá 
mà ở đó nền kinh tế đồng thời đạt được trạng 
trái cân bằng về sản xuất trong nước cũng 
như ngoại thương và nợ nước ngoài. Và việc 
đo lường mức độ sai lệch này sẽ giúp giải 
thích cho tốc độ tĕng trưởng của nền kinh tế. 
Việc định giá cao đồng nội tệ được xem là 
rào cản trong khi việc phá giá nội tệ lại được 
xem là một chính sách nhằm kích thích nền 
kinh tế tĕng trưởng.
Nghiên cứu cũng chỉ ra mối quan hệ giữa 
tỷ giá hiệu lực và tĕng trưởng kinh tế. Bằng 
4Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
phương pháp hồi quy, tác giả thấy rằng giữa 
việc định giá cao đồng nội tệ và tĕng trưởng 
kinh tế có ý nghĩa thống kê và có mối quan 
hệ ngược chiều nhau. Cụ thể là tỷ giá định 
giá cao 10% sẽ làm giảm tốc độ tĕng trưởng 
kinh tế 0.6%. Và ngược lại việc định giá thấp 
tỷ giá ở một mức độ phù hợp sẽ giúp thúc đẩy 
nền kinh tế tĕng trưởng.
3.2. Nghiên cứu của Barry Eichengreen 
(2008)
Nghiên cứu này về tỷ giá hối đoái thực 
và tĕng trưởng kinh tế đã chỉ ra vai trò quan 
trọng của tỷ giá đối với tĕng trưởng kinh tế 
cũng như sự cần thiết phải quản lý tỷ giá. Tác 
giả bài nghiên cứu cho rằng sử dụng công cụ 
tỷ giá hiệu lực sẽ thúc đẩy nguồn lực chảy 
vào khu vực sản xuất, từ đó làm gia tĕng thu 
nhập quốc gia và tạo điều kiện cho các ngành 
khác phát triển theo. Kinh nghiệm của một số 
nước như Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore, 
Hàn Quốc, Đài Loan và bây giờ là Trung 
Quốc đã cho thấy rõ điều đó.
Tuy nhiên, công cụ tỷ giá cũng có hai 
mặt của nó, bên cạnh những lợi ích đạt được 
thì cũng có một số những tác động tiêu cực 
khác. Đặc biệt là nếu một quốc gia theo đuổi 
chế độ định giá thấp nội tệ một cách quá 
đáng và trong một thời gian dài nó sẽ kéo 
theo nhiều hệ quả xấu bên cạnh những lợi ích 
về ngoại thương mà quốc gia đó đạt được. 
Điển hình của việc định giá thấp nội tệ sẽ 
gây nên tình trạng cĕng thẳng trong quan hệ 
của quốc gia đó với các nước trên thế giới 
có quan hệ ngoại thương. Đồng thời dẫn đến 
dự trữ ngoại tệ tĕng đáng kể, lạm phát cũng 
gia tĕng. Vì vậy, vấn đề ở đây là chính phủ 
cần xây dựng một che độ tỷ giá mang tính ổn 
định và cạnh tranh nhất nhằm giúp nền kinh 
tế tĕng trưởng.Nghiên cứu cũng chỉ ra tác 
động của việc biến động tỷ giásẽ ảnh hưởng 
xấu đến ngoại thương và đầu tư - là những 
kênh cần thiết cho sự tĕng trưởng. Đặc biệt 
những cuộc khủng hoảng tiền tệ sẽ tác động 
mạnh mẽ đến tỷ giá và qua đó ảnh hưởng đến 
tĕng trưởng kinh tế.
Với số liệu được lấy từ nĕm 1991-2005, 
tác giả đã chỉ ra được mối quan hệ nghịch 
biến giữa tốc độ tĕng trưởng và độ biến 
động tỷ giá hiệu lực.Trong cả ba trường hợp 
trênđều cho thấy độ biến động càng lớn thì 
đường tĕng trưởng càng có xu hướng dốc 
xuống và những nước càng kém phát triển thì 
độ biến động tỷ giá hiệu lực càng lớn hơn so 
với các nước khác.
3.3. Nghiên cứu của Dani Rodrik (2008)
Dani Rodrik (2008)đã đưa ra bằng chứng 
thực nghiệm về mối quan hệ giữa tỷ giá thực 
hiệu lực và tĕng trưởng kinh tế ở một số quốc 
gia điển hình: Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, 
Đài Loan, Uganda, Tanzania, và Mexico.
Tác giả nghiên cứu này đã đưa ra cách 
tính toán tỷ giá hiệu lực. Tuy nhiên trong 
dài hạn, những hàng hóa phi ngoại thương 
ở những nước nghèo hơn thì luôn rẻ hơn nên 
tỷ giá hiệu lực cần điều chỉnh theo hiệu ứng 
Balassa-Samuelson. Theo đó, tỷ giá hiệu lực 
sẽ được hồi quy theo GDP bình quân đầu 
người. Và từ đó tác giả tính toán chỉ số định 
giá theo thời gian.
Kết quả mà Dani Rodrik tìm được là 
hệ số phản ánh mối quan hệ giữa tỷ giá và 
thu nhập bình quân đầu người mang dấu âm 
(-0.24). Tức là khi thu nhập tĕng lên 10% thì 
tỷ giá sẽ bị định giá cao 2.4%, điều này là 
đúng theo lý thuyết Balassa Samuelson mà 
ông đã trình bày.
Đồng thời, tác giả sử dụng phương pháp 
hồi quy để tìm ra mối quan hệ giữa tỷ giá 
hiệu lực và tĕng trưởng kinh tế.
Tác giả giải thích cho quá trình tĕng 
trưởng thần kỳ ở những nước đang phát triển 
5Chính sách tỷ giá hối đoái ...
là dựa vào ngoại thương. Hai lý do được đưa 
ra cho sự phát triển không cân đối giữa nhóm 
ngành ngoại thương và phi ngoại thương ở 
những nước này bắt nguồn từ sự quản lý yếu 
kém của chính phủvà từ những thất bại của 
thị trường không hoàn hảo.Cuối cùng, bài 
nghiên cứu trình bày một mô hình đơn giản 
về mối quan hệ giữa tỷ giá hiệu lực và tĕng 
trưởng kinh tế
3.4. Các mô hình nghiên cứu
Trong rất nhiều nghiên cứu về mối quan 
hệ giữa tỷ giá hiệu lực và tĕng trưởng kinh tế, 
thì tốc độ tĕng trưởng GDP và tỷ giá hiệu lực 
là hai biến được lựa chọn chủ yếu. Với đề tài 
này, nhóm nghiên cứu sẽ lựa chọn sử dụng 
mô hình của Dani Rodrik (2008). Mô hình đã 
giải thích được mối quan hệ giữa tỷ giá thực 
hiệu lực và tĕng trưởng kinh tế, đặc biệt là 
ở những nước có thu nhập thấp và thu nhập 
trung bình trên thế giới (dưới 6.000 USD/
người/nĕm). Quá trình tác động của tỷ giá hối 
đoái thực hiệu lực đến tốc độ tĕng trưởng kinh 
tế này được Dani Rodrik giải thích qua sự 
phát triển thần kỳ của ngoại thương ở những 
nước đang phát triển, mô hình có dạng:
Git = α+ βlnGDPC(it-1) + δlnUNDERVALit +i+ft+uit (1)
Trong đó:
Git: tốc độ tĕng trưởng GDP của quốc gia thứ i ở nĕm t
GDPCit-1: thu nhập bình quân đầu người của quốc gia thứ i kỳ (t -1).
Theo Robert J.Barro (1991), con người 
được xem là chìa khóa cốt lõi đi đầu trong 
lĩnh vực nghiên cứu, sáng tạo ra nhiều sản 
phẩm mới, hay, ý tưởng mới giúp khoa học 
ngày càng phát triển. Vì vậy, ở những quốc 
gia mà con người được chú trọng, thu nhập 
được cải thiện thì đây được xem là tiền đề 
giúp nền kinh tế tĕng trưởng nhanh hơn sau 
đó. Đây cũng là nguyên lý được các nhà 
nghiên cứu về tĕng trưởng kinh tế ứng dụng 
sau này, trong đó có Dani Rodrik. Theo ông, 
yếu tố con người hay thu nhập bình quân đầu 
người đóng vai trò đặc biệt trong hầu hết mô 
hình tĕng trưởng kinh tế.
ft: yếu tố cố định của từng giai đoạn thời gian
fi: yếu tố cố định của từng quốc gia
UNDERVALit: Chỉ số định giá, được xác định thông qua hàm:
lnUNDERVALit= ln REERit- lnit (2)
Trong đó: 
REERit: tỷ giá hiệu lực đa phương của quốc gia i ở nĕm thứ t
it: giá trị dự báo của tỷ giá hiệu lực đa 
phương của mô hình:
ln REERit= α + β ln GDPCit + ft + (3)
Mô hình (3) của Balassa Samuelson 
(1964) giải thích cho sự biến động của tỷ giá 
hối đoái thực hiệu lực trong dài hạn. Balassa 
Samuelson cho rằng không tồn tại ngang giá 
sức mua trong dài hạn, hay nói cách khác tỷ 
giá thực hiệu lực trong dài hạn sẽ thay đổ ... của Việt 
Nam phụ thuộc vào nhiều đồng tiền khác 
ngoài đồng USD.
Thứ hai, neo vào một rổ tiền tệ sẽ hạn 
chế được những rủi ro cho bản thân nền kinh 
tếvĩ mô cũng như cho doanh nghiệp.Với xu 
thế hội nhập như hiện nay thì việc tác động 
qua lại giữa các nền kinh tế trên thế giới là 
rất lớn. Vì vậy, việc lựa chọn nhiều đồng tiền 
ngoại tệ mạnh khác vào rổ tiền tệ của mình, 
Việt Nam sẽ phần nào tránh được những rủi 
ro từ những cuộc khủng hoảng của Mỹ so 
với việc neo tỷ giá chỉ theo đồng USD như 
hiện nay, từ đó phân bổ rủi ro cho nền kinh tế 
trong nước.
Thứ ba, neo vào một rổ tiền tệ sẽ giúp cho 
Việt Nam đánh giá tỷ giá thực có hiệu lực một 
cách chính xác hơn dựa vào tỷ giá đa phương 
với các nước.Tỷ giá hiệu lực phản ánh giá trị 
của đồng nội tệ với các nước thường xuyên 
có quan hệ ngoại thương đối với Việt Nam. 
Vì vậy, việc lựa chọn sử dụng rổ tiền tệ sẽ 
giúp phản ánh bức tranh tỷ giá hiệu lực chính 
xác và sát với thực tế nền kinh tế hơn.
Thứ tư, neo vào một rổ tiền tệ sẽ tạo ra 
nhiều sản phẩm trên thị trường ngoại hối, 
giúp thị trường này phong phú hơn, các doanh 
nghiệp có nhiều lựa chọn hơn và sẽ gián tiếp 
làm phát triển nền kinh tế. Các doanh nghiệp 
sẽ tự tìm ra cho mình các hướng đi khác nhau 
nhằm dự phòng những rủi ro đến từ tỷ giá, 
chủ động lựa chọn loại ngoại tệ an toàn và 
can thiết cho các giao dịch của họ. Đây cũng 
là cách để giảm bớt cĕng thẳng cho chính phủ 
trong việc quản lý nền kinh tế
Do vậy, nên có công thức neo tỷ giá dựa 
trên rổ ngoại tệ chủ chốt (USD, Euro, Yen và 
Nhân dân Tệ, đô la singapore) có tính đến 
quyền số của mỗi ngoại tệ trong tổng kim 
ngạch xuất – nhập khẩu, đầu tư, tín dụng và 
viện trợ của nước ta.
12
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
4.2.2. Phá giá đồng nội tệ ở mức độ vừa 
phải
Việt Nam nên cĕn cứ vào tỷ giá thực hiệu 
lực để đánh giá nền kinh tế cũng như mức độ 
phù hợp của tỷ giá. Tỷ giá thực hiệu lực được 
điều chỉnh dựa vào tỷ lệ lạm phát, do đó sẽ 
phản ánh được sức khỏe của nền kinh tế và 
mức độ ổn định của kinh tếvĩ mô. Đồng thời, 
tỷ giá thực hiệu lực cần được đặt trong tương 
quan với khái niệm rổ tiền tệ, Nhà nước điều 
chỉnh tỷ giá USD trong biên độ cho phép 
nhưng cần đặt trong mối quan hệ so sánh với 
các loại tỷ giá hiệu lực khác trong rổ tiền tệ.
Ngoài ra, theo lý thuyết Balassa 
Samuelson thì tỷ giá hiệu lực còn được điều 
chỉnh với các loại hàng hóa không trao đổi và 
hàng hóa trao đổi được giữa hai quốc gia có 
quan hệ ngoại thương. Theo cách này, tỷ giá 
hiệu lực vừa đi sát thị trường vừa phản ánh 
được đầy đủ các yếu tố về giá cả hàng hóa 
giữa hai quốc gia.
Tuy nhiên, cho dù tỷ giá có được tính 
theo cách nào đi nữa thì vai trò của Nhà nước 
trong việc quản lý tỷ giá cũng can được quan 
tâm. Chính sách tỷ giá phù hợp nhất đối với 
Việt Nam vẫn là tỷ giá linh hoạt, mềm dẻo 
theo quan hệ cung cầu có sự quản lý của nhà 
nước mà chúng ta đang áp dụng. Tuy nhiên, 
quan niệm về sự quản lý của Nhà nước cần 
được làm rõ hơn, chính xác và đúng đắn hơn 
nữa.Chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý được 
nhiều quốc gia lựa chọn trong giai đoạn hiện 
nay, đặc biệt là các nước đang phát triển.Đối 
với Việt Nam, cần tập trung xây dựng một 
chế độ tỷ giá linh hoạt nhưng nhằm tiến đến 
một “tỷ giá mục tiêu”.Tỷ giá này được hiểu 
là mức độ tỷ giá đáp ứng được từng mục tiêu 
phát triển của một quốc gia trong từng giai 
đoạn nhất định.Theo đó, mức độ giảm giá 
hay tĕng giá của đồng nội tệ sẽ được điều 
chỉnh sao cho phù hợp với mục tiêu của nền 
kinh tế.
Một chế độ tỷ giá có xu hướng làm suy 
yếu đồng nội tệ sẽ có khả nĕng khuyến khích 
xuất khẩu vì hàng hóa trong nước sẽ rẻ hơn 
hàng nhập khẩu, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, 
tuy nhiên lại làm tĕng nguy cơ lạm phát.
Ngược lại, một chế độ tỷ giá làm tĕng giá 
đồng nội tệ có khả nĕng làm giảm tỷ lệ lạm 
phát nhưng lại giảm giá trị xuất khẩu và tĕng 
tỷ lệ thất nghiệp.
Với tính toán của tác giả trong nghiên cứu 
thực nghiệm, việc giảm giá đồng nội tệ có thể 
kích thích tĕng trưởng kinh tế.Tuy nhiên, đó 
chỉ là những con số dựa trên tính toán từ công 
thức và kết quả trên thực tế còn phụ thuộc 
rất nhiều vào các yếu tố chủ quan cũng như 
khách quan khác. Đồng thời, không phải lúc 
nào mục tiêu của chính phủ cũng là tỷ lệ tĕng 
trưởng cao, ngoài ra còn có các mục tiêu ổn 
định kinh tế, kiềm chế lạm phát và giảm thiểu 
áp lực nợ công, từ đó tiến đến mục tiêu tĕng 
trưởng bền vững.
Có rất nhiều nước mới nổi đã lựa chọn 
chính sách phá giá đồng nội tệ để đạt được 
các mục tiêu về tĕng trưởng kinh tế trong 
ngắn hạn, như Trung Quốc, Hàn Quốc là 
những điển hình. Nhưng họ cũng đang phải 
đối mặt với muôn vàn khó khĕn trong thực 
tế: như tỷ lệ lạm phát tĕng cao, đời sống nhân 
dân bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, với điều kiện 
thực tế của Việt Nam hiện nay cần áp dụng 
linh hoạt tỷ giá, kiềm chế lạm phát, kéo theo 
giảm lãi suất, từ đó tháo gỡ khó khĕn cho 
doanh nghiệp trong nước phá giá đồng nội tệ 
ở mức độ vừa phải nhằm khuyến khích xuất 
khẩu, đồng thời tạo niềm tin cho nhà đầu tư 
nước ngoài.
Để thực hiện được điều này, Nhà nước 
có một vai trò vô cùng quan trọng.Tỷ giá sẽ 
dao động về mức ngang giá trung tâm dưới 
sự điều tiết của Nhà nước.Tỷ giá có thể lên 
hoặc xuống nhưng dao động với một biên 
động thoáng và rộng hơn. Nó chỉ thay đổi 
13
Chính sách tỷ giá hối đoái ...
khi tỷ giá hiệu lực dài hạn tính trên rổ tiền tệ 
thay đổi, khi mục tiêu phát triển kinh tế bị tác 
động, hoặc khi Nhà nước cần điều chỉnh các 
yếu tố trong bộ ba bất khả thi hoặc khi cần hạ 
nhiệt thị trường ngoại hối
4.2.3. Kết hợp các chính sách tiền tệ và 
kiểm soát vốn nhằm kết hợp hài hòa các yếu 
tố của bộ ba bất khả thi
Bộ ba bất khả thi là một lý thuyết mà hầu 
hết các nước đều quan tâm trong việc lựa 
chọn chính sách thích hợp trong điều hành 
nền kinh tế. Trong bối cảnh hội nhập hiện 
nay, thì việc mở cửa hội nhập là điều không 
thể thay đổi, chỉ còn lại hai con đường là ổn 
định tỷ giá hoặc độc lập tiền tệ
Đối với Việt Nam, chúng ta cần ưu tiên 
chính sách tiền tệ độc lập để tạo ra sự linh 
hoạt cho Ngân hàng nhà nước (NHNN), vừa 
tháo gỡ những khó khĕn về mặt hành chính 
vừa tạo cho NHNN khả nĕng chủ động thực 
hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định 
kinh tế vĩ mô.
Một chính sách tiền tệ độc lập được 
hiểu là một quy trình tiến đến độc lập giữa 
chính phủ và NHNN, giữa NHNN và các NH 
Thương mại.Mục tiêu của chính sách tiền tệ 
độc lập là nhằm ổn định giá trị đồng tiền, linh 
hoạt lãi suất, kiểm soát lạm phát.Khi Việt 
Nam vẫn chưa đạt được một chính sách tiền 
tệ độc lập đúng nghĩa, tỷ giá vẫn chịu nhiều 
tác động bất ngờ từ phía chính phủ, thì vấn 
đề của bộ ba bất khả thi dường như vẫn chưa 
được định hình rõ.
Bên cạnh những yếu tố về chính sách 
tiền tệ và tỷ giá, Việt Nam cần kiểm soát 
lượng vốn chảy vào trong nước một cách 
khôn ngoan hơn nữa. Chính phủ cần cụ thể 
hóa ưu tiên cho lĩnh vực nào cần đau tư 
trước, khu vực nào cần luồng vốn bổ sung 
cũng như khu vực nào cần cắt bỏ, đầu tư 
công lãng phí sẽ gây ra dư cung VND làm 
tỷ giá tĕng, lạm phát khó kiểm soát và làm 
lệch các mục tiêu phát triển của chính phủ. 
Vì vậy, chỉ thực sự nên đầu tư vào các dự 
áncần thiết, phục vụ thiết yếu cho đời sống 
nhân dân, kiên quyết cắt bỏ các dự án không 
hiệu quả. Và chính phủ cũng cần minh bạch 
hơn, rõ ràng hơn trong việc công bố các dự 
án công, mức đầu tư cụ thể cho từng dự án 
để tĕng cường sự giám sát trong nhân dân, 
tránh việc lợi dụng thẩm quyền gây thiệt hại 
lớn cho nền kinh tế.
Tóm lại, Việt Nam cần kết hợp hài hòa 
các yếu tố trong bộ ba bất khả thi, áp dụng 
linh hoạt cho bối cảnh nền kinh tế trong 
nước, nhằm đạt được mục tiêu trong trung 
và dài hạn.
4.2.4. Phát triển thị trường tài chính đặc 
biệt chú trọng thị trường ngoại hối
Một chính sách của chính phủ có khả thi 
và đạt được các mục tiêu như mong muốn hay 
không còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu 
tố. Và các chính sách về tỷ giá trên đây chỉ có 
thể thực hiện được khi Việt Nam có một thị 
trường tài chính và thị trường ngoại hối đủ 
minh bạch và mạnh mẽ.Chính sách của Nhà 
nước sẽ tạo điều kiện để phát triển thị trường 
này, ngược lại khi thị trường này vận động ổn 
định sẽ hỗ trợ cho Nhà nước thực thi nhiều 
chính sách khác.
Trong những nĕm gần đây, các chuyên 
gia kinh tế đề cập nhiều đến vai trò của dự 
trự ngoại hối trong nền kinh tế, và nó còn 
được coi là một bộ phận tác động qua lại với 
bộ ba bất khả thi.Dự trữ ngoại hối là kết quả 
của việc thực thi chính sách bộ ba bất khả thi 
khi chính phủ muốn giữ ổn định tỷ giá hoặc 
ổn định tiền tệ. Đồng thời dự trữ ngoại hối 
lại tạo điều kiện cho chính phủ thực hiện chế 
độ linh hoạt tỷ giá, không bị động trong mọi 
tình huống rủi ro liên quan đến cán cân thanh 
toán.
14
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Khai thông thị trường ngoại hối là việc 
làm cấp bách, đây cũng là mong muốn của 
hầu hết các doanh nghiệp có nhu cầu chính 
đáng về ngoại tệ.Trong bối cảnh áp lực ngoại 
tệ cuối nĕm đang lên cao thì việc tạo điều 
kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn ngoại 
tệ là cần thiết. Nhà nước cần cho phép mở 
thêm các trung tâm giao dịch ngoại tệ bên 
cạnh việc trao đổi thông qua các Ngân hàng 
Thương mại, đồng thời kiểm soát và ngĕn 
chặn mọi hành vi liên quan đến việc đầu cơ, 
gĕm giữ ngoại tệ của các tổ chức và cá nhân 
trong nền kinh tế.
Các công cụ lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt 
buộc đối với ngoại tệ nên được sử dụng để 
điều tiết ngoại tệ cho nền kinh tế.Lãi suất và 
tỷ lệ dữ trữ bắt buộc thấp được coi là biện 
pháp nhằm tạo ra cung ngoại tệ cao hơn cho 
nền kinh tế. Ngược lại, khi nhà nước cần thu 
bớt ngoại tệ từ nền kinh tế, tĕng dự trữ ngoại 
hối thì chính sách lãi suất cùng tỷ lệ dự trữ 
bắt buộc cao là một giải pháp toàn vẹn. Tuy 
nhiên, hai công cụ này chỉ áp dụng khi áp lực 
tỷ giá vượt qua mức chịu đựng của nền kinh 
tế (rời xa tỷ giá mục tiêu) và cần được thay 
đổi có lộ trình để tránh gây sốc cho các ngân 
hàng cũng như nền kinh tế. Ngoài ra, Nhà 
nước nên để cho lãi suất vận động theo quy 
luật thị trường, tạo nên sự tin tưởng và an tâm 
của các doanh nghiệp nắm giữ ngoại tệ, hạn 
chế sự cần thiệp quá mức của “bàn tay” Nhà 
nước.
Một giải pháp không mới nhưng cũng 
không thể thiếu cho sự phát triển thị trường 
ngoại hối ở Việt Nam, đó là việc nhân rộng và 
áp dụng triệt để các công cụ phòng ngừa rủi 
ro tỷ giá.Để giảm thiểu rủi ro, doanh nghiệp 
cần chủ động sử dụng các hợp đồng kỳ hạn, 
hợp đồng hoán đổi, quyền chọn....qua trung 
gian các NH Thương mại.
Tĕng dự trữ ngoại hối bền vững thông 
qua biện pháp giảm nhập khẩu, tĕng xuất 
khẩu bằng cách tĕng khả nĕng cạnh tranh của 
hàng hóa trong nước về chất lượng cũng như 
giá cả.
4.2.5. Các biện pháp hành chính khác
Thứ nhất, tránh đưa ra tuyên bố mức điều 
chỉnh tối đa của tỷ giá trong nĕm. Việc tuyên 
bố mức điều chỉnh tối đa cứng của tỷ giá 
trong nĕm có tác dụng tốt là thể hiện quyết 
tâm và ý chí của Chính phủ và Ngân hàng 
Nhà nước muốn duy trì sự ổn định thị trường 
và sẵn sàng cần thiệp khi cần để đảm bảo sự 
ổn định đó. Tuyên bố này cũng là định hướng 
để doanh nghiệp yên tâm lên kế hoạch sản 
xuất, kinh doanh nĕm mà không phải lo ngại 
sự biến động lớn của tỷ giá.
Tuy nhiên, việc đưa ra mức điều chỉnh tối 
đa cứng của tỷ giá trong nĕm sẽ gặp bất lợi 
khi tỷ giá trên thị trường ngoại hối quốc tế 
biến động mạnh.Chỉ trong khoảng thời gian 
từ tháng 6/2014 đến tháng 3/2015, USD đã 
lên giá 24%.Trong khi đó, Ngân hàng Nhà 
nước đã tuyên bố tỷ giá sẽ được điều chỉnh 
không quá 2%/nĕm trong nĕm 2014 và 2015.
Điều đó đã đẩy Ngân hàng Nhà nước vào thế 
khó xử.Nếu thực hiện đúng tuyên bố đó để giữ 
chữ tín với thị trường, thì VND được định giá 
quá cao, gây bất lợi cho doanh nghiệp và nền 
kinh tế (như nêu trên). Còn nếu điều chỉnh 
tỷ giá vượt quá 2% để đảm bảo phù hợp với 
diễn biến thực tế thì Ngân hàng Nhà nước 
lại chịu tiếng là không giữ đúng cam kết của 
mình, gây mất niềm tin vào những tuyên bố 
tiếp theo.
Thứ hai, không nên để quá lâu không 
điều chỉnh tỷ giá. Việc USD liên tục tĕng giá 
trong khi Ngân hàng Nhà nước vẫn duy trì tỷ 
giá ổn định trong một thời gian dài, khiến khi 
buộc phải điều chỉnh tỷ giá cho sát thực tế 
sẽ phải điều chỉnh với biên độ lớn, gây ra cú 
sốc bất ổn lớn. Do vậy, nên điều chỉnh tỷ giá 
15
Chính sách tỷ giá hối đoái ...
thường xuyên hơn, song mỗi lần với biên độ 
điều chỉnh nhỏ để tránh gây sốc thị trường.
Thứ ba, NHNN có thể dùng nhiều biện 
pháp cần thiệp như mua bán ngoại tệ trên thị 
trường liên ngân hàng đặc biệt là công cụ kỳ 
hạn hay công cụ phái sinh, kiểm soát BoP
tạo ra cơ chế thị trường và không gây áp lực 
ngoại tệ cho NHNN, đồng thời góp phần 
tĕng dự trữ quốc gia, từ đó góp phần làm cho 
VND ngày càng mạnh hơn (vì được bảo đảm 
bởi dự trữ ngoại tệ)./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Đĕng Dờn (2009), “Lý thuyết tài 
chính tiền tệ”, Nhà xuất bản: Đại học quốc 
gia, thành phố Hồ Chí Minh.
[2]. Nguyễn Đình Thọ ( 2011 ), “Phương 
pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh”, 
NXB Lao động - Xã Hội
[3]. Nguyễn Nam (2015a).Hồ sơ thị trường 
Indonesia. Ban Quan hệ Quốc tế: VCCI.
[4]. Nguyễn Nam (2015b). Hồ sơ thị trường 
Philippines. Ban Quan hệ Quốc tế: VCCI.
[5]. Trần Ngọc Thơ (2006), “Phương pháp 
tiếp cận cơ chế điều hành tỷ giá ở Việt Nam”, 
Đại học Kinh tế TP.HCM, Đề tài nghiên cứu 
khoa học cấp Bộ.
[6]. Từ Cao Ánh (2008), “Hiệu ứng đường 
cong J và cán cân thương mại song phương 
của Việt Nam”.
[7]. Trần Huy Hoàng (2010), “Quản trị ngân 
hàng thương mại”, Nhà xuất bản: Lao động 
xã hội.
[8]. Akpan, E.O and Atan, J.A (2012) 
“Effects of exchange rate movement on 
Economic growth in Nigeria” CBN Journal 
for applied statistic: 1 – 14.
[9]. Barry Eichengreen (2008), “The real 
exchange rate and Economic growth”, The 
World Bank
[10]. Chen, I.-C., Hill, J.K., Ohlemüller, R., 
Roy, D.B. & Thomas, C.D. (2011), “Rapid 
Range Shifts of Species Associated with High 
Levels of Climate Warming”, Science, 333, 
pp.1024-1026
[11]. Crosby và Otto (2001), “Growth and 
real exchange rate – Evidence from eleven 
countries”, Working papers from Hong Kong 
Institute for Monetary research.
[12]. Dani Rodrik (2008), “The real exchange 
rate and Economic growth”, John F. Kenedy 
School of Government Harvard University 
Cambridge, MA 02138
[13]. Damyana Bakardzhieva, Sami Ben 
Naceur, Bassem Karmar (2010), “ The impact 
of capital and Foreign exchange lows on the 
competitiveness of developing countries”, 
IMF Working Paper
[14]. Gala, P. (2008), “Real exchange 
Rate Levels and Economic Development 
: Theoretical Analysis and Empirical 
Evidence”,Cambridge Journal of Economics, 
No.32, pp.273-288.
[15]. Olugbenga Onafowora (2003), 
“Exchange rate and trade balance in East 
Asia: Is there a J-curve?”, Economics 
Bulletin, Vol.5, No.18, pp.1-13
[16]. Samuelson, P. A., (1964), “Theoretical 
notes on trade problems”, Review of 
Economics and Statistics 46 (May): 145-54
[17]. Yunfa Zhu, Adian A. McFarlane (2003), 
“ Real exchange rate and Economic growth 
- A theoretical re-examination of Balassa 
Hypothesis”
Website:
[18]. www.worldbank.org
[19]. www.imf.org
[20]. www.sbv.gov.vn

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_ty_gia_hoi_doai_tac_dong_den_tang_truong_kinh_te.pdf