Chính sách khoa học công nghệ cho phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Trong những năm gần đây, sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) đang được Nhà nước và các

doanh nghiệp tại Việt Nam hết sức quan tâm đầu tư. Đặc biệt, với sự ra đời của Nghị định 111 về Phát triển CNHT, nhiều

chính sách hỗ trợ và ưu đãi đã được quy định tương đối cụ thể nhằm tạo những điều kiện tốt nhất cho hoạt động sản xuất,

kinh doanh của DN CNHT. Trong bối cảnh mới của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đang được hình thành

trên thế giới, các chính sách phát triển khoa học công nghệ cho ngành CNHT sẽ cần được hoàn thiện và nâng cao hơn nữa

hiệu quả thực thi. Nội dung bài viết sẽ đi từ tiếp cận bối cảnh của cuộc CMCN lần thứ tư, xem xét các tác động của cuộc cách

mạng này đến sự phát triển của ngành CNHT, từ đó, nghiên cứu, đánh giá thực trạng các chính sách khoa học công nghệ cho

phát triển CNHT trong bối cảnh mới này. Phần cuối của bài viết sẽ đưa ra một số đề xuất hoàn thiện chính sách khoa học

công nghệ cho ngành CNHT phù hợp với bối cảnh của CMCN 4.0.

pdf 6 trang kimcuc 7360
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách khoa học công nghệ cho phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách khoa học công nghệ cho phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Chính sách khoa học công nghệ cho phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
JOURNAL OF SCIENCE
OF LAC HONG UNIVERSITY
JSLHU 
 Tp chí Khoa hc Lc Hng      
Tp chí Khoa hc Lc Hng 39
CHÍNH SÁCH KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CHO PHÁT TRIỂN NGÀNH 
CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG 
CÔNG NGHIỆP 4.0 
The science and technology policy for developing the supporting industry in 
Vietnam in the context of the Industrial Revolution 4.0 
Vũ Thị Thanh Huyền* 
Khoa Kinh tế - Bộ môn Kinh tế học; Trường Đại học Thương Mại, Việt Nam
TÓM TẮT. Trong những năm gần đây, sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) đang được Nhà nước và các 
doanh nghiệp tại Việt Nam hết sức quan tâm đầu tư. Đặc biệt, với sự ra đời của Nghị định 111 về Phát triển CNHT, nhiều 
chính sách hỗ trợ và ưu đãi đã được quy định tương đối cụ thể nhằm tạo những điều kiện tốt nhất cho hoạt động sản xuất, 
kinh doanh của DN CNHT. Trong bối cảnh mới của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đang được hình thành 
trên thế giới, các chính sách phát triển khoa học công nghệ cho ngành CNHT sẽ cần được hoàn thiện và nâng cao hơn nữa 
hiệu quả thực thi. Nội dung bài viết sẽ đi từ tiếp cận bối cảnh của cuộc CMCN lần thứ tư, xem xét các tác động của cuộc cách 
mạng này đến sự phát triển của ngành CNHT, từ đó, nghiên cứu, đánh giá thực trạng các chính sách khoa học công nghệ cho 
phát triển CNHT trong bối cảnh mới này. Phần cuối của bài viết sẽ đưa ra một số đề xuất hoàn thiện chính sách khoa học 
công nghệ cho ngành CNHT phù hợp với bối cảnh của CMCN 4.0. 
TỪ KHÓA: Công nghiệp hỗ trợ (CNHT); Chính sách; Khoa học công nghệ; Cách mạng công nghiệp 4.0 
ABSTRACT. In recent years, the development of the supporting industry (SI) has received special attention from the State 
and enterprises in Vietnam, in particularly, with the promulgation of Decree 111 on SI Development, many supporting and 
incentive policies have been specified in order to create the best conditions for production and business activities of SIs. In 
the new context of the industrial revolution 4.0 (CMCN 4.0) is being formed around the world, the science and technology 
development policies for SI need to be improved further enhance effective enforcement. The content of the article will go 
from the contextual perspective of the fourth CMC, reviewing the impact of this revolution on the development of the SI 
industry in Vietnam, from which, study and evaluate the Science and technology policy for the development of SI in this new 
context. The final section of the paper will provide some suggestions for finalizing science and technology policy for SI in 
line with the context of CMCN 4.0. 
KEYWORDS: Supporting industry; The science technology policy; Industrial revolution 4.0 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được cho là đã bắt đầu 
từ vài năm gần đây, tập trung chủ yếu vào sản xuất thông 
minh dựa trên các thành tựu đột phá trong công nghệ thông 
tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano. Sự hình thành và 
phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 một 
mặt, sẽ đem lại sự phát triển mạnh mẽ của các công nghệ mới 
và rô bốt, mặt khác, có thể gây ra ảnh hưởng lớn đến cách 
thức sản xuất với một số ngành nghề tận dụng lợi thế lao 
động giá rẻ của Việt Nam, Trong bối cảnh đó, ngành sản 
xuất công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam với quy mô sản xuất 
nhỏ và vừa, áp dụng KHCN còn rất hạn chế, sẽ có thể đứng 
trước những thách thức lớn từ CMCN 4.0, đòi hỏi chính sách 
của Nhà nước cần có sự định hướng và hỗ trợ một cách đúng 
đắn, đặc biệt là các chính sách liên quan đến phát triển 
KHCN, từ đó, đặt ra vấn đề cần nghiên cứu và đánh giá các 
chính sách khoa học công nghệ cho phát triển CNHT nhằm 
thu được các lợi ích từ cách mạng công nghiệp. 
Mục tiêu nghiên cứu của bài viết là nghiên cứu thực trạng 
các chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ cho phát triển 
ngành CNHT tại Việt Nam trong bối cảnh cuộc CMCN lần 
thứ tư đang trong giai đoạn hình thành trên thế giới. Từ đó, 
đưa ra đánh giá về ưu điểm và hạn chế của chính sách, đưa 
ra kết luận về cách thức hoàn thiện chính sách trong thời kỳ 
mới. 
Về phạm vi nghiên cứu: Nội dung bài viết sẽ tập trung vào 
nghiên cứu thực trạng các chính sách phát triển ngành CNHT 
của Việt Nam thời gian qua, đặc biệt liên quan đến các chính 
sách về phát triển công nghệ ngành CNHT gắn với bối cảnh 
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang nổi lên. 
2. TỔNG QUAN 
2.1 Tổng quan về cách mạng công nghiệp 4.0 
 Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trên lĩnh vực 
sản xuất, thể hiện sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế - 
xã hội, văn hóa và kỹ thuật. Cuộc cách mạng công nghiệp 
đầu tiên trải dài từ năm 1760 đến khoảng năm 1840. Bắt đầu 
bằng việc xây dựng các tuyến đường sắt và phát minh ra 
động cơ hơi nước, cuộc cách mạng này đánh dấu sự khởi 
đầu của kỷ nguyên sản xuất cơ khí. Cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ hai, diễn ra từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ 
XX, với sản xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của 
điện năng và dây chuyền lắp ráp. Cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ ba bắt đầu vào những năm 1960. Nó thường 
được gọi là cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi 
vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, máy 
tính cỡ lớn (mainframe) (thập niên 1960), máy tính cá nhân 
(thập niên 1970 và 1980) và internet (thập niên 1990) (Cục 
Thông tin KH&CN Quốc gia, 2016). 
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được hình thành 
trên nền tảng của CMCN lần thứ ba, đã bắt đầu xuất hiện từ 
giữa thế kỷ trước. Theo GS. Klaus Schwab(Klaus Schwab, 
2016), Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới, Industry 4.0 
(tiếng Đức là Industrie 4.0) hay cuộc CMCN lần thứ 4, là 
một thuật ngữ bao gồm một loạt các công nghệ tự động hóa 
hiện đại, trao đổi dữ liệu và chế tạo. Cuộc CMCN lần thứ 4 
Received: Febuaray, 2nd, 2018 
Accepted: March, 30th, 2018. 
*Corresponding author. 
Email: thanhhuyenvu86@tmu.edu.vn 
 
Tp chí Khoa hc Lc Hng40
Chính sách khoa học công nghệ phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong bối cảnh CM công nghiệp 4.0 
được định nghĩa là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ 
và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với các 
hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết nối vạn vật 
(IoT) và Internet của các dịch vụ (IoS). 
Hình 1. Các cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử 
(Nguồn: Cục thông tin KH&CN Quốc gia, 2016) 
Bản chất của CMCN lần thứ 4 là dựa trên nền tảng công 
nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối 
ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những 
công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 
3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ 
tự động hóa, người máy, .v.v. 
Những nguyên lý chính của CMCN 4.0 (Mario Hermann 
et al., 2015). 
Thứ nhất, khả năng kết nối. Khả năng máy móc, thiết bị, 
vật cảm biến và con người có thể kết nối và giao tiếp với 
nhau thông qua Internet (IoT hoặc IoP). 
Thứ hai, minh bạch thông tin. Khả năng các hệ thống 
thông tin có thể tạo ra một bản sao ảo của thế giới vật lý 
thông qua việc làm phong phú thêm các mô hình kỹ thuật số 
với các dữ liệu cảm biến. Điều này đòi hỏi sự tập hợp của 
nguồn dữ liệu cảm biến đối với nguồn thông tin có giá trị cao 
hơn. 
Thứ ba, hỗ trợ kỹ thuật. Nguyên lý này bao hàm hai vấn 
đề: Một là, khả năng các hệ thống hỗ trợ có thể hỗ trợ cho 
con người thông qua việc tập hợp và hiển thị thông tin để đưa 
ra những quyết định và giải quyết các vấn đề khẩn cấp trên 
một bản thông báo ngắn. Hai là, khả năng các hệ thống điều 
khiển – có thể hỗ trợ về mặt vật lý cho con người bằng cách 
giải quyết một loạt các trạng thái như khó chịu, quá mệt mỏi, 
hoặc không an toàn. 
Thứ tư, việc quyết định được phân cấp sâu hơn. Khả năng 
các hệ thống điều khiển – vật lý đưa ra các quyết định của 
riêng mình và tự thực hiện các nhiệm vụ nếu có thể. Chỉ trong 
trường hợp ngoại lệ, khi bị nhiễm hoặc các mục tiêu mâu 
thuẫn lẫn nhau thì các nhiệm vụ được thực hiện ở một cấp độ 
cao hơn. 
2.2 Tổng quan về ngành CNHT 
Khái niệm: Công nghiệp hỗ trợ theo nghĩa rộng được 
hiểu là việc sản xuất ra các sản phẩm trung gian cho quá 
trình sản xuất chính như sơ chế các nguyên liệu thô hoặc 
chế tạo một phần những sản phẩm chính tương tự theo tiêu 
chuẩn kỹ thuật và giấy phép của chính hãng. Hoặc theo 
nghĩa hẹp “Công nghiệp hỗ trợ gồm một nhóm các hoạt 
động công nghiệp cung cấp các đầu vào trung gian (gồm 
linh kiện, phụ tùng và công cụ để sản xuất ra các linh kiện 
phụ tùng) cho các ngành công nghiệp lắp ráp và chế 
biến”(Nguyễn Thị Xuân Thúy, 2007). 
Trong phạm vi của bài viết này, tác giả tiếp cận CNHT 
theo nghĩa tương đối hẹp, theo đó, tác giả xin đưa ra định 
nghĩa về CNHT như sau: Công nghiệp hỗ trợ là các ngành 
công nghiệp sản xuất các nguyên vật liệu cơ bản, các linh 
kiện, phụ tùng, bán thành phẩm để cung cấp cho các ngành 
công nghiệp lắp ráp như ngành ô tô, xe máy, điện tử,... 
Trong đó, sản phẩm CNHT các ngành lắp ráp bao gồm các 
nguyên vật liệu cơ bản như nhựa, cao su, kim loại; các linh 
kiện phụ tùng bao gồm: linh kiện nhựa – cao su, linh kiện 
kim loại, linh kiện điện (như pin, ắc quy, dây dẫn), linh kiên 
điện tử; ... 
Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến sự phát 
triển ngành CNHT 
Có thể nhận thấy rằng, hoạt động sản xuất luôn gắn liền 
với các cuộc cách mạng công nghiệp, do đó, sự phát triển của 
ngành CNHT chắc chắn có những mối liên kết chặt chẽ với 
sự hình thành và phát triển của CMCN 4.0. 
Một mặt, CMCN 4.0 sẽ đem lại cho ngành CNHT những 
cơ hội lớn từ việc (1) tiếp thu tiến bộ công nghệ và cập nhật 
một cách nhanh chóng các xu thế công nghệ mới trên thế 
giới; (2) thúc đẩy sự liên kết, lan tỏa chặt chẽ hơn trong sản 
xuất CNHT với các ngành sản xuất CN chế biến chế tạo trong 
và ngoài nước, thúc đẩy sự tham gia các chuỗi cung ứng, 
chuỗi sản xuất trên phạm vi toàn cầu; (3) tăng năng suất và 
hiệu quả trong sản xuất công nghiệp, hạn chế tồn kho và (4) 
tạo khả năng đáp ứng tối ưu nhu cầu của từng khách hàng 
(Klaus Schwab, 2016). 
Mặt khác, các thách thức bao gồm: (1) yêu cầu thay đổi 
lớn về cách thức sản xuất, xây dựng hệ thống cơ sở vật chất 
kỹ thuật phù hợp với cách mạng 4.0 có thể là thách thức vô 
cùng lớn với các DN CNHT với quy mô nhỏ và vừa; (2) Lợi 
thế về lao động giá rẻ giảm, sự cắt giảm nhanh về nhu cầu 
lao động có thể ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh 
doanh của DN CNHT tại các quốc gia đang phát triển; (3) 
nguy cơ phá hủy đáng kể những chuỗi giá trị công nghiệp 
hiện có xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện những đối thủ 
cạnh tranh sáng tạo, nhanh nhạy nhờ tiếp cận với các nền 
tảng kỹ thuật số toàn cầu cho nghiên cứu, triển khai tiếp thị, 
bán hàng và phân phối, có thể lật đổ những người đương 
nhiệm nhanh hơn bao giờ hết; và (4) những thách thức từ 
việc bảo mật thông tin (Cục Thông tin KH&CN Quốc gia, 
2016, Klaus Schwab, 2016). 
3. NGUỒN SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU 
Về nguồn số liệu 
Để làm rõ thực trạng phát triển ngành CNHT, bài viết sử 
dụng các số liệu thứ cấp từ nguồn Comtrade.org, Tổng cục 
thống kê, Trung tâm phát triển DN CNHT - Bộ Công thương. 
Để thống kê các chính sách phát triển CNHT Việt Nam, 
bài viết sử dụng các nguồn dữ liệu thứ cấp được cung cấp 
trên website của Chính phủ, Bộ Công thương. 
Về phương pháp nghiên cứu 
Bài viết chủ yếu sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, 
so sánh, đối chiếu để phân tích thực trạng quá trình tham gia 
CM 4.0 của Việt Nam, những lợi ích và bất lợi khi tham gia; 
phân tích thực trạng phát triển CNHT và chính sách khoa học 
công nghệ cho phát triển CNHT; sử dụng phương pháp suy 
luận để đưa ra những đánh giá về những tác động của CM 
4.0 đến phát triển ngành CNHT. 
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Khái quát về thực trạng phát triển ngành CNHT Việt 
Nam 
Tp chí Khoa hc Lc Hng 41
Vũ Thị Thanh Huyền 
Những năm gần đây, CNHT đã trở thành vấn đề trọng tâm, 
được chính phủ Việt Nam quan tâm phát triển với nhiều 
chuyển biến trong nhận thức và chính sách. Dù vậy, nhìn 
chung, CNHT mới chỉ đáp ứng ở mức thấp nhu cầu tối đa 
sản xuất tại nội địa. 
Về số lượng doanh nghiệp: 
Ước tính đến hết năm 2015, có khoảng 1675 doanh nghiệp 
hoạt động trong lĩnh vực sản xuất linh kiện, phụ tùng, tăng 
trưởng bình quân về số lượng doanh nghiệp giai đoạn 2011 
– 2015 đạt 10,5%/ năm. Trong đó, sản xuất linh kiện phụ 
tùng kim loại phát triển nhất với 750 doanh nghiệp, tuy nhiên 
tốc độ phát triển không cao. Sản xuất linh kiện điện – điện tử 
có 540 doanh nghiệp, phát triển rất nhanh, tăng trưởng bình 
quân (TTBQ) về số doanh nghiệp từ 2011 – 2015 đạt 13,8%/ 
năm. Sản xuất linh kiện nhựa – cao su có 380 doanh nghiệp, 
tăng 11,5%/ năm (Trung tâm phát triển doanh nghiệp Công 
nghiệp hỗ trợ - Viện nghiên cứu chiến lược chính sách Công 
nghiệp, 2016). Tuy nhiên, nếu so sánh giữa số lượng doanh 
nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng và với số lượng doanh 
nghiệp trong ngành công nghiệp chính, có thể thấy một sự 
chênh lệch bất hợp lý. Năm 2014, tổng số doanh nghiệp 
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là 63251, trong khi đó, 
số lượng doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng chỉ có 
1675 doanh nghiệp, chiếm 2,65% là một tỷ lệ quá thấp và thể 
hiện một ngành công nghiệp hỗ trợ kém phát triển, do đó, 
ảnh hưởng xấu đến sự tăng năng suất, hiệu quả cho ngành 
CN chế biến chế tạo nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói 
chung. 
Về quy mô DN, đa số doanh nghiệp tham gia sản xuất 
CNHT thuộc đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa dưới 300 
lao động, bị nhiều hạn chế bởi vốn, công nghệ, chất lượng 
nguồn lực,...gây ra những khó khăn trong việc thúc đẩy phát 
triển ngành CNHT trong nước, cũng như việc bắt kịp xu thế 
của cuộc CMCN lần thứ 4. (Viện Nghiên cứu Mitsubishi và 
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung Ương, 2016) 
Về công nghệ, các doanh nghiệp chủ yếu sử dụng công 
nghệ, máy móc của Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, EU và 
một số máy móc được chế tạo hoặc được nâng cấp trong 
nước. Các tiêu chuẩn, công cụ quản lý tiên tiến cũng đã được 
các doanh nghiệp quan tâm và ứng dụng. Tiêu chuẩn quản lý 
chất lượng ISO 9000, ISO 9001, các công cụ quản lý 5S, 
Kaizen được khá nhiều doanh nghiệp áp dụng. Khi xây dựng 
và áp dụng các tiêu chuẩn, công cụ quản lý, doanh nghiệp đã 
nhận được sự hỗ trợ tích cực từ phía các khách hàng FDI, các 
tổ chức trong và ngoài nước (Trung tâm Phát triển Doanh 
nghiệp Công nghiệp hỗ trợ - Viện Nghiên cứu Chiến lược 
Chính sách Công nghiệp, 2016). Tuy nhiên, về cơ bản, công 
nghệ trong sản xuất CNHT của Việt Nam còn lạc hậu, do vấn 
đề thiếu vốn, chất lượng nhân lực thấp, chúng ta khó có thể 
tiếp cận nhanh với công nghệ sản xuất hiện đại. Hầu hết 
doanh nghiệp CNHT lại là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên quá 
trình đổi mới công nghệ càng kéo dài, mất nhiều thời gian 
hơn, điều này cũng khiến năng suất, hiệu quả của ngành khó 
tăng nhanh trong thời gian qua. 
Về tình hình nội địa hóa: Hiện mức độ đáp ứng nhu cầu 
sản xuất trong nước còn rất hạn chế. Các sản phẩm doanh 
nghiệp nội địa sản xuất có chất lượng thấp, giá thành cao 
(công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới (do hạn chế nguồn lực, qui 
trình sản xuất kém) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các 
doanh nghiệp nội địa. Thêm vào đó, trong số các ngành sản 
xuất, ngoại tr ...  
công nghệ có kết quả ứng dụng mang lại hiệu quả cao; Nhà 
nước hỗ trợ tối đa đến 50% kinh phí với Dự án sản xuất thử 
nghiệm các sản phẩm CNHT. Còn đối với dự án xây dựng 
cơ sở nghiên cứu và phát triển sản xuất sản phẩm CNHT 
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, hỗ trợ tối đa 50% kinh 
phí đầu tư trang thiết bị. 
Điều 5, chương II của Nghị định cũng nêu rõ, hoạt động 
ứng dụng và chuyển giao công nghệ để sản xuất sản phẩm 
CNHT được hỗ trợ chi phí chế tạo thử nghiệm sản phẩm 
CNHT tối đa đến 50%. Thêm vào đó, Nhà nước hỗ trợ tối đa 
đến 75% chi phí chuyển giao công nghệ đối với dự án sản 
xuất vật liệu có sử dụng trên 85% nguyên liệu là sản phẩm 
của quá trình chế biến sâu khoáng sản trong nước để phục vụ 
cho sản xuất sản phẩm CNHT. 
Ngoài ra, các chính sách hỗ trợ còn lại của Nghị định bao 
gồm phát triển nguồn nhân lực; hợp tác quốc tế trong thu hút 
đầu tư, tạo mối liên kết, chuyển giao công nghệ, phát triển 
nguồn nhân lực; hỗ trợ phát triển thị trường;  cũng có ý 
nghĩa nhất định trong việc nâng cao trình độ khoa học công 
nghệ trong lĩnh vực sản xuất CNHT. 
Quyết định 68/QĐ-TTg về Chương trình phát triển CNHT 
giai đoạn 2016 – 2025 (Thủ tướng chính phủ, 2017) cũng xác 
định mục tiêu dự kiến hỗ trợ khoảng 1000 doanh nghiệp có 
chức năng nghiên cứu và áp dụng thành công 500 doanh 
nghiệp được ứng dụng, đổi mới công nghệ, sản xuất thực 
nghiệm, tiếp nhận chuyển giao công nghệ tham gia Chương 
trình, với các hoạt động chủ yếu là giới thiệu, phổ biến một 
số quy trình công nghệ sản xuất, yêu cầu kỹ thuật, tiêu chuẩn 
kỹ thuật; kết nối chuyên gia; hỗ trợ nghiên cứu ứng dụng, 
sản xuất thử nghiệm, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ mua 
trang thiết bị chính cho các phòng thử nghiệm; 
Ngoài các chính sách liên quan trực tiếp đến phát triển 
Khoa học công nghệ cho đối tượng sản xuất CNHT, để 
khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới và cải tiến công 
nghệ, Chính phủ cũng đã ban hành một loạt các chính sách 
như: Nghị định số 80/2010/NĐ-CP Quy định về hợp tác, đầu 
tư với nước ngoài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ; 
Quyết định 2075/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ phê 
duyệt chương trình phát triển thị trường khoa học và công 
nghệ đến năm 2020; Quyết định số 677/QĐ-TTg về việc phê 
duyệt Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 
2020 (Hoàng Văn Châu, 2010). 
Năm 2003, chính phủ ban hành Nghị định số 
122/2003/NĐ-CP về việc thành lập Quỹ phát triển khoa học 
và công nghệ quốc gia (NAFOSTED) (Chính phủ, 2003) có 
chức năng tài trợ, cho vay để thực hiện nhiệm vụ khoa học 
và công nghệ do tổ chức, cá nhân đề xuất. Theo đó, Thông 
tư liên tịch 129/2007/TTLT BKHCN-BTC của Bộ Khoa 
học Công nghệ và Bộ Tài chính; Quyết định 
28/2011/QĐ-HĐQLQ của Hội đồng quản lý Quỹ quy định 
cụ thể hơn việc thực hiện quỹ này với các mức cho vay lãi 
suất 0% đối với các dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu 
khoa học công nghệ được tạo ra trong nước và cho vay với 
lãi suất thấp các dự án đổi mới, chuyển giao công nghệ. 
Mức cho vay tối đa là 70% tổng mức đầu tư của dự án nhưng 
không quá 10 tỷ đồng với thời hạn cho vay không quá 3 năm. 
Bên cạnh đó, năm 2011, Quỹ đổi mới công nghệ Quốc gia 
(NATIF) đã được thành lập theo Quyết định số 1342/QĐ-
TTg, quy chế hoạt động của Quỹ được phê duyệt vào năm 
2013 theo quyết định số 1051/QĐ-TTg và quỹ được ra mắt 
vào tháng 1/2015. Trong năm 2015, NATIF tập trung chủ 
yếu vào các khoản tài trợ cho nghiên cứu, bao gồm cung cấp 
hỗ trợ tài chính cho Nghiên cứu và Phát triển, chuyển giao 
công nghệ, ươm mầm cho các doanh nghiệp khoa học và 
công nghệ, áp dụng công nghệ trong nông nghiệp và đào tạo. 
Mục tiêu chủ yếu của quỹ này là hỗ trợ doanh nghiệp, tổ 
chức, cá nhân thực hiện các hoạt động đổi mới công nghệ, 
thương mại hóa các kết quả nghiên cứu và phát triển công 
nghệ (Viện Nghiên cứu Mitsubishi và Viện Nghiên cứu Quản 
lý Kinh tế Trung Ương, 2016). 
5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH 
Kết luận: 
Về các tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến phát 
triển CNHT Việt Nam 
Như vậy, thông qua những phân tích trong phần 4, có thể 
thấy rằng, ngành CNHT Việt Nam hiện mới chỉ ở giai đoạn 
bắt đầu hình thành, số lượng doanh nghiệp sản xuất linh phụ 
kiện ít và mất cân đối lớn với số lượng doanh nghiệp lắp ráp, 
chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà lắp 
ráp, các tập đoàn đa quốc gia. Vì vậy, trong bối cảnh cách 
mạng công nghiệp 4.0, các doanh nghiệp sản xuất CNHT sẽ 
chịu một số các tác động như sau: 
Về tác động tích cực: 
Thứ nhất, khả năng thu hút vốn FDI, công nghệ và nguồn 
nhân lực chất lượng cao để phát triển ngành CNHT trong 
nước. Cùng với sự phát triển nhanh chóng về công nghệ, sự 
thay đổi về phương thức sản xuất, hợp tác, kết nối trong sản 
xuất và kinh doanh theo xu hướng CMCN 4.0, các DN 
CNHT của Việt Nam có thể tận dụng để tiếp cận với các tiến 
bộ công nghệ tiên tiến trên thế giới một cách nhanh chóng, 
Tp chí Khoa hc Lc Hng 43
Vũ Thị Thanh Huyền 
cũng như tăng cường khả năng tìm kiếm và thu hút các nguồn 
vốn đầu tư, nhân lực chất lượng cao,  nhờ có hệ thống 
mạng kết nối toàn cầu. 
Thứ hai, CMCN 4.0 có khả năng thúc đẩy sự liên kết trên 
quy mô rộng lớn hơn, từ đó, tăng cường khả năng tham gia 
vào chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng với các nền kinh tế lớn 
trên thế giới và các quốc gia có CNHT phát triển như Nhật 
Bản, Hàn Quốc,  
Thứ ba, khả năng tăng năng suất, hiệu quả sản xuất của 
ngành CNHT nhờ việc đổi mới về quy trình sản xuất, cơ cấu 
lại tổ chức,  tại các doanh nghiệp sản xuất CNHT để phù 
hợp với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. 
Thứ tư, các lực đẩy từ việc hoàn thiện chính sách, môi 
trường đầu tư, việc áp dụng các quy định về an toàn lao động, 
 sẽ thúc đẩy việc nâng cao sức cạnh tranh cho doanh 
nghiệp và sản phẩm CNHT. 
Thứ năm, cùng với sự phát triển của CMCN 4.0, ngành 
CNHT Việt Nam sẽ tăng khả năng đáp ứng nhu cầu của các 
đối tượng khách hàng. 
Về tác động tiêu cực: 
Thứ nhất, yêu cầu thay đổi lớn về cách thức sản xuất, xây 
dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp với cách mạng 
4.0 có thể là thách thức vô cùng lớn với các DN CNHT Việt 
Nam hiện nay. Do phần lớn các DN sản xuất CNHT tại Việt 
Nam hiện nay là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thiếu cả về vốn, 
công nghệ, cũng như các kỹ năng quản lý và điều hành sản 
xuất,  vì vậy, yêu cầu thay đổi về cách thức sản xuất và 
xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở dữ liệu để đáp ứng 
với xu hướng 4.0 sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất, 
kinh doanh của DN CNHT trong tương lai, nhiều DN có thể 
đứng trước nguy cơ phá sản nếu không có sự đổi mới phù 
hợp. 
Thứ hai, Lợi thế về lao động giá rẻ giảm, sự cắt giảm 
nhanh về nhu cầu lao động sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt 
động sản xuất, kinh doanh của DN CNHT tại Việt Nam. 
Thứ ba, sự cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn, trên phạm 
vi toàn cầu cùng với nguy cơ phá hủy đáng kể những chuỗi 
giá trị công nghiệp hiện có do sự xuất hiện những đối thủ 
cạnh tranh sáng tạo, nhanh nhạy nhờ tiếp cận với các nền 
tảng kỹ thuật số toàn cầu cho nghiên cứu, triển khai tiếp thị, 
bán hàng và phân phối, 
Thứ tư, những thách thức từ việc bảo mật thông tin. Do hệ 
thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của Việt Nam còn 
nhiều hạn chế, vì vậy, cùng với việc tăng cường áp dụng công 
nghệ thông tin và hệ thống mạng internet vào các hoạt động 
sản xuất, kinh doanh,  có thể dẫn đến nhiều rủi ro của việc 
bị đánh cắp thông tin, đặc biệt là rò rỉ các thông tin tuyệt mật 
về hoạt động sản xuất của các DN CNHT. 
Đánh giá về hệ thống chính sách khoa học công nghệ 
phát triển Công nghiệp hỗ trợ trong bối cảnh cách mạng 
công nghiệp 4.0 
Thứ nhất, về thành tựu, có thể thấy rằng hiện nay chúng 
ta đã có một hệ thống các văn bản chính sách khoa học công 
nghệ liên quan đến phát triển CNHT với nhiều các chính sách 
ưu đãi cho các doanh nghiệp, dự án sản xuất sản phẩm 
CNHT. 
Thứ hai, về hạn chế, hiện các chính sách khoa học công 
nghệ cho phát triển CNHT hiện vẫn chưa bám sát với bối 
cảnh mới của cuộc CMCN 4.0, chính sách phát triển sản xuất 
và đổi mới công nghệ ngành CNHT chưa được gắn với quá 
trình ứng dụng, đổi mới về công nghệ thông tin, ứng dụng hệ 
thống mạng internet vào quản lý và liên kết sản xuất. Thêm 
vào đó, bản thân hệ thống chính sách hiện hành vẫn còn rất 
nhiều hạn chế, cụ thể là: 
Một là, chính sách về khoa học công nghệ chưa đủ sức tạo 
ra hấp dẫn đối với các doanh nghiệp trong đầu tư, đổi mới 
công nghệ hiện đại trong sản xuất, DN sản xuất CNHT muốn 
đổi mới công nghệ phần lớn phải tự bỏ vốn hoặc tự tìm kiếm 
sự hỗ trợ từ bên ngoài, dẫn đến quá trình đổi mới, hiện đại 
hóa công nghệ diễn ra rất chậm tại các DN CNHT. 
Hai là, thiếu các văn bản, thông tư hướng dẫn tiếp cận các 
chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ cho DN và dự án 
sản xuất CNHT. Hiện các thông tư hướng dẫn mới chỉ dừng 
lại ở các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, thiếu hẳn các 
thông tư hướng dẫn cụ thể để DN tiếp cận các chính sách hỗ 
trợ về KHCN, gây ra nhiều cản trở trong quá trình tiếp cận 
chính sách của DN. 
Ba là, trong nội dung các chính sách hỗ trợ công nghệ, 
chúng ta vẫn thiếu mảng tư vấn, hỗ trợ cho doanh nghiệp để 
phát triển công nghệ, cụ thể như: hỗ trợ về thử nghiệm sản 
phẩm, đào tạo, tư vấn để nắm bắt về công nghệ mới; thiếu 
các chính sách tăng cường liên kết, kết nối với các tập đoàn 
đa quốc gia, xuyên quốc gia nhằm nắm bắt đúng xu thế công 
nghệ mới và các định hướng công nghệ sản xuất tại các tập 
đoàn, tổng công ty này; các trung tâm, hiệp hội hỗ trợ cho 
doanh nghiệp gần như không có đội ngũ nhân sự hiểu biết về 
công nghệ, thiếu máy móc thiết bị để kiểm định sản phẩm 
cho doanh nghiệp,(Theo Báo cáo kết quả nghiên cứu của 
Viện Nghiên cứu Mitsubishi, Nhật Bản, 2016) (Viện Nghiên 
cứu Mitsubishi and Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung 
Ương, 2016) 
Mặt khác, các chính sách liên quan đến hỗ trợ đào tạo, bồi 
dưỡng nguồn nhân lực trong phát triển CNHT hầu như chưa 
được quan tâm thực hiện; chính sách hợp tác quốc tế trong 
chuyển giao công nghệ hầu như không được quan tâm triển 
khai, chủ yếu là DN CNHT tự mò mẫm, là nguyên nhân quan 
trọng dẫn đến DN khó có thể đẩy nhanh quá trình đổi mới về 
công nghệ phù hợp với xu hướng sản xuất hiện đại trên thế 
giới, cũng như cuộc cách mạng CN 4.0. 
Một số đề xuất hoàn thiện chính sách khoa học công 
nghệ cho phát triển CNHT trong bối cảnh cách mạng 
công nghiệp 4.0 
Thông qua phần phân tích thực trạng và các kết luận rút ra 
ở trên, có thể thấy rằng, chúng ta đã có một hệ thống khung 
chính sách về khoa học công nghệ cho phát triển CNHT. Bên 
cạnh đó, để tận dụng các cơ hội, khắc phục những tác động 
tiêu cực từ cách mạng CN 4.0, cũng như các hạn chế trong 
quá trình xây dựng, thực thi các chính sách về khoa học công 
nghệ cho phát triển CNHT, theo tác giả, trước mắt cần tập 
trung vào một số giải pháp như sau: 
Thứ nhất, tăng cường khả năng thực thi các chính sách 
hỗ trợ về khoa học công nghệ cho doanh nghiệp sản xuất 
CNHT thông qua việc nhanh chóng ban hành các chính sách, 
thông tư hướng dẫn chi tiết hơn nhằm cụ thể hóa các chính 
sách hỗ trợ về phát triển khoa học công nghệ cho DN CNHT. 
Thông qua hoạt động của các Trung tâm hỗ trợ, Hiệp hội DN 
CNHT để đưa chính sách gần hơn với DN sản xuất CNHT 
bằng các biện pháp trao đổi thông tin, hỗ trợ, tư vấn các điều 
kiện cần thiết để doanh nghiệp có thể tiếp cận chính sách. 
Thứ hai, nhanh chóng hoàn thiện, bổ sung nội dung chính 
sách phát triển khoa học công nghệ cho ngành CNHT gắn 
với xu thế của cuộc CMCN lần thứ tư. Trong đó, đặc biệt 
liên quan đến các chính sách khuyến khích phát triển công 
nghệ gắn với phát triển hệ thống công nghệ thông tin, ứng 
dụng mạng internet trong quản lý sản xuất, kinh doanh, tìm 
kiếm khách hàng, Ngoài ra, nội dung chính sách khoa học 
công nghệ cho ngành CNHT cũng cần bổ sung, hoàn thiện 
các chính sách tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển khoa 
Tp chí Khoa hc Lc Hng44
Chính sách khoa học công nghệ phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong bối cảnh CM công nghiệp 4.0 
học công nghệ ngành CNHT trong bối cảnh CMCN 4.0, thúc 
đẩy sự liên kết, trao đổi thông tin về công nghệ giữa các tập 
đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia với các DN sản xuất CNHT 
trong nước. 
Thứ ba, tạo điều kiện để tiếp nhận các chuyên gia đến từ 
các nước có ngành CNHT phát triển như Hàn Quốc, Nhật 
Bản,nhằm cung cấp các dịch vụ hướng dẫn về công nghệ, 
hướng dẫn về tiếp cận công nghệ mới, cũng như đào tạo, 
nâng cao trình độ về công nghệ cho đội ngũ lãnh đạo doanh 
nghiệp. Trong dài hạn, các trung tâm hỗ trợ, Hiệp hội cần 
nâng cấp về cơ sở vật chất cũng như trình độ chuyên môn để 
cung cấp các dịch vụ như kiểm định chất lượng sản phẩm 
CNHT cho doanh nghiệp, hỗ trợ xây dựng, hiện đại hóa công 
nghệ sản xuất, là cầu nối để thu hút đầu tư vào công nghệ 
cho các doanh nghiệp CNHT trong nước. 
Thứ tư, chú trọng phát triển nguồn nhân lực cho ngành 
CNHT. Các chính sách cần tập trung hơn nữa trong đào tạo, 
phát triển nguồn nhân lực công nghiệp trong nước để tạo ra 
lực lượng nòng cốt cho phát triển CNHT, đáp ứng yêu cầu 
cung ứng cho các nhà lắp ráp trong nước và tham gia vào 
tiến trình CMCN 4.0. 
Việc đào tạo, nâng cao chất lượng nhân lực ngành Công 
nghiệp có thể được thực hiện thông qua hợp tác, liên kết với 
các tập đoàn lớn, đa quốc gia như Samsung; cần nâng cao 
hơn nữa tính liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp sản 
xuất, giữa doanh nghiệp sản xuất CNHT trong nước và các 
doanh nghiệp ngoài nước, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc, 
6. TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Châu, Hoàng Văn. Chính Sách Phát Triển Công Nghiệp Hỗ 
Trợ ở Việt Nam Đến Năm Hà Nội; Nhà Xuất bản Thông tin và 
Truyền thông, 2020. 
[2] Nghị Định Của Chính Phủ Về Thành Lập Quỹ Phát Triển 
Khoa Học Công Nghệ Quốc Gia; 122/2003/NĐ-CP, Hà Nội, 
Việt Nam. 
[3] Nghị Định Về Phát Triển CNHT Chính Phủ; 111/2015/NĐ-C; 
Hà Nội, Việt Nam. 
[4] Cục Thông tin KH&CN Quốc gia. Tổng Luận "Cuộc Cách 
Mạng Công Nghiệp Lần Thứ Tư", 2016. 
[5] Hermann, Mario, Tobias Pentek and Boris Otto. Design 
Principles for Industrie 4.0 Scenarios: A Literature Review. 
HICSS '16 Proceedings of the 2016 49th Hawaii International 
Conference on System Sciences (HICSS, 2015, Hawaii: 3928-
37. 
[6] Schwab, Klaus. Cuộc Cách Mạng Công Nghiệp Lần Thứ Tư. 
Viet Nam, 2016, 20-76. 
[7] Thủ tướng chính phủ. Quyết định về việc phê duyệt chương 
trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025; 
Văn phòng chính phủ, 2017, 68/QĐ-TTg. Hà Nội. 
[8] Thúy, Nguyễn Thị Xuân. Chương 2: Công nghiệp hỗ trợ: tổng 
quan về khái niệm và sự phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt 
Nam; Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội, 2007, 29-52. 
[9] Trung tâm phát triển doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ - Viện 
nghiên cứu chiến lược chính sách Công nghiệp. Niên giám về 
công nghiệp hỗ trợ các ngành chế tạo Việt Nam; Nhà xuất bản 
Lao Động, Hà Nội: , 2015, 174-79. 
[10] Niên Giám về công nghiệp hỗ trợ các ngành chế tạo tại Việt 
Nam 2016-2017; NXB Công Thương-Hà Nội, 213 - 22. 
[11] Viện Nghiên cứu Mitsubishi và Viện Nghiên cứu Quản lý 
Kinh tế Trung Ương. Báo cáo nghiên cứu về nâng cao năng 
lực các ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, Hà Nội, Việt 
Nam, 2016. 

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_khoa_hoc_cong_nghe_cho_phat_trien_nganh_cong_nghi.pdf