Chính sách hướng đông của Ấn Độ đối với khu vực Đông Nam Á từ sau chiến tranh lạnh đến nay

Không phải ngẫu nhiên mà tác giả của “Thế giới phẳng”, quyển sách được liệt kê vào

hàng bán chạy nhất (best - seller) của thế giới trong những năm đầu thế kỉ XXI, Thomas

L. Friedman, đã dành chương mở đầu cho tác phẩm nổi tiếng của mình bằng trường hợp

của Ấn Độ, mà theo ông, với vị trí là một trong những siêu cường của ngành công nghiệp

phần mềm máy tính (trong năm tài khoá 2006 kết thúc ngày 31/3/07, xuất khẩu phần

mềm của Ấn Độ tăng 33% lên 31,4 tỉ USD. NASSCOM (Hiệp hội các Công ty Phần

mềm và Dịch vụ quốc gia Ấn Độ) vừa công bố báo cáo điều tra hàng năm cho biết xuất

khẩu phần mềm và các dịch vụ liên quan của Ấn Độ dự báo sẽ tăng gấp hai lần lên 60 tỉ

USD trong ba năm tới, giúp Ấn Độ duy trì vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực này trước các đối

thủ khác như Trung Quốc, các nước EU Xuất khẩu phần mềm của Ấn Độ trên thế giới

chỉ đứng sau Mĩ)1, Ấn Độ là một trong những nhân tố tiêu biểu đóng góp mạnh mẽ vào

quá trình làm “phẳng” thế giới.

Sự kiện một học giả người Mĩ đưa hình ảnh của Ấn Độ thành một sự mở đầu cho một

thế giới “phẳng” của tương lai, dù chỉ là một thế giới giả tưởng đi chăng nữa, vẫn là một

hiện tượng đáng quan tâm. Sự kiện càng nổi bật hơn trong một thế giới tràn ngập những

sự kiện của thế kỉ XXI ở chỗ, nó đã đề cập đến một quốc gia theo chủ trương “trung lập”

và “không liên kết” từ khi giành được độc lập đến nay, kể cả trong những thời điểm phần

lớn thế giới trải qua nhiều biến động lớn dưới tác động của cuộc chiến tranh lạnh, nhưng

kể cả việc “trung lập” hay “không liên kết” cũng không thể khiến cho quốc gia này bị

lãng quên đi như một số quốc gia khác đã từng tồn tại và bị lãng quên trên thế giới này.

Nếu như đối với nhiều nước trên thế giới, sự phát triển vượt bậc của công nghệ phần

mềm đã tạo ra một Ấn Độ như là một ví dụ tiêu biểu cho “thế giới phẳng”, thì đối với

châu Á nói chung, và các nước Đông Nam Á nói riêng, chính sách hướng Đông của Ấn

Độ cũng đang tạo ra ở khu vực này một hình ảnh mới đầy triển vọng trong giai đoạn từ

sau chiến tranh lạnh tới nay.

pdf 9 trang kimcuc 3400
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách hướng đông của Ấn Độ đối với khu vực Đông Nam Á từ sau chiến tranh lạnh đến nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách hướng đông của Ấn Độ đối với khu vực Đông Nam Á từ sau chiến tranh lạnh đến nay

Chính sách hướng đông của Ấn Độ đối với khu vực Đông Nam Á từ sau chiến tranh lạnh đến nay
 1 
CHÍNH SÁCH HƯỚNG ĐÔNG CỦA ẤN ĐỘ ĐỐI VỚI KHU VỰC ĐÔNG NAM Á 
TỪ SAU CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NAY 
Nguyễn Thị Phương Hảo 
Không phải ngẫu nhiên mà tác giả của “Thế giới phẳng”, quyển sách được liệt kê vào 
hàng bán chạy nhất (best - seller) của thế giới trong những năm đầu thế kỉ XXI, Thomas 
L. Friedman, đã dành chương mở đầu cho tác phẩm nổi tiếng của mình bằng trường hợp 
của Ấn Độ, mà theo ông, với vị trí là một trong những siêu cường của ngành công nghiệp 
phần mềm máy tính (trong năm tài khoá 2006 kết thúc ngày 31/3/07, xuất khẩu phần 
mềm của Ấn Độ tăng 33% lên 31,4 tỉ USD. NASSCOM (Hiệp hội các Công ty Phần 
mềm và Dịch vụ quốc gia Ấn Độ) vừa công bố báo cáo điều tra hàng năm cho biết xuất 
khẩu phần mềm và các dịch vụ liên quan của Ấn Độ dự báo sẽ tăng gấp hai lần lên 60 tỉ 
USD trong ba năm tới, giúp Ấn Độ duy trì vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực này trước các đối 
thủ khác như Trung Quốc, các nước EU Xuất khẩu phần mềm của Ấn Độ trên thế giới 
chỉ đứng sau Mĩ)1, Ấn Độ là một trong những nhân tố tiêu biểu đóng góp mạnh mẽ vào 
quá trình làm “phẳng” thế giới. 
Sự kiện một học giả người Mĩ đưa hình ảnh của Ấn Độ thành một sự mở đầu cho một 
thế giới “phẳng” của tương lai, dù chỉ là một thế giới giả tưởng đi chăng nữa, vẫn là một 
hiện tượng đáng quan tâm. Sự kiện càng nổi bật hơn trong một thế giới tràn ngập những 
sự kiện của thế kỉ XXI ở chỗ, nó đã đề cập đến một quốc gia theo chủ trương “trung lập” 
và “không liên kết” từ khi giành được độc lập đến nay, kể cả trong những thời điểm phần 
lớn thế giới trải qua nhiều biến động lớn dưới tác động của cuộc chiến tranh lạnh, nhưng 
kể cả việc “trung lập” hay “không liên kết” cũng không thể khiến cho quốc gia này bị 
lãng quên đi như một số quốc gia khác đã từng tồn tại và bị lãng quên trên thế giới này. 
Nếu như đối với nhiều nước trên thế giới, sự phát triển vượt bậc của công nghệ phần 
mềm đã tạo ra một Ấn Độ như là một ví dụ tiêu biểu cho “thế giới phẳng”, thì đối với 
châu Á nói chung, và các nước Đông Nam Á nói riêng, chính sách hướng Đông của Ấn 
Độ cũng đang tạo ra ở khu vực này một hình ảnh mới đầy triển vọng trong giai đoạn từ 
sau chiến tranh lạnh tới nay. 
1. Nguồn gốc “Chính sách hướng Đông” của Ấn Độ 
Sự kết thúc chiến tranh lạnh năm 1989, và sự sụp đổ trật tự thế giới Yalta năm 1991 
có thể được coi là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự nổi lên của hàng loạt những 
yếu tố mới trong đời sống kinh tế, chính trị thế giới, vốn đã bắt đầu xuất hiện từ thập niên 
1970. 
Nổi bật và dễ nhận thấy nhất trong những “yếu tố mới” của thế giới thời kì sau chiến 
tranh lạnh là xu thế đối thoại trở thành xu thế chính của thế giới thay cho xu thế “đối 
đầu” tồn tại suốt một thời kì dài của chiến tranh lạnh, kéo theo đó là xu thế hợp tác vì sự 
phát triển chung thay vì chia rẽ bởi ý thức hệ, sự phát triển nhanh chóng của các quốc gia 
lớn đặc biệt là Mĩ và Trung Quốc, sự vươn lên mạnh mẽ của các tổ chức khu vực như 
EU, ASEAN, trung tâm kinh tế thế giới được dự báo sẽ chuyển về châu Á - Thái Bình 
Dương, làn sóng toàn cầu hoá đang lan nhanh đến tất cả các quốc gia, sự thịnh vượng về 
kinh tế có xu hướng quan trọng hơn sự hùng mạnh về quân sự, và đang trở thành thước 
đo vị trí của các quốc gia trên trường quốc tế 
 Khoa Lịch sử 
1
 TTXVN 05/07/2007. 
 2 
Bối cảnh quốc tế có sự thay đổi to lớn như thế đã tác động sâu sắc đến phong trào 
Không liên kết nói chung và Ấn Độ nói riêng. Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất 
của phong trào Không liên kết là không tham gia vào các liên minh hoặc các khối quân 
sự của các cường quốc để tiến hành chiến tranh xâm lược các nước thế giới thứ ba, cũng 
như một số vấn đề quốc tế nổi cộm trước đây như ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng 
dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc xâm lược, chạy đua vũ trang đã không còn 
nhiều ý nghĩa trong một thế giới mà yếu tố kinh tế trở thành yếu tố nổi trội. Trong bối 
cảnh làn sóng toàn cầu hoá đang dâng cao trên toàn thế giới, trước hết là việc hội nhập 
vào đời sống quốc tế của các quốc gia được tiến hành ráo riết, thì ở một mức độ nào đó, 
việc “Không liên kết” có thể trở thành rào cản đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. 
Sau một thời gian dài thực hiện chính sách kinh tế đóng cửa, nền kinh tế Ấn Độ đã có 
xu hướng tụt hậu so với các nền kinh tế của các nước đang phát triển khác. Nợ nước 
ngoài 70 tỉ USD không có khả năng chi trả, lạm phát kinh tế trên 13%2, nạn tham nhũng 
không kiểm soát được, dân số tăng nhanh kéo theo nhiều vấn nạn xã hội như tỉ lệ thất 
nghiệp tăng cao kéo theo tỉ lệ người nghèo đói và thất học Tất cả những nguyên nhân 
trên đã trở thành nguyên nhân chính thúc đẩy Ấn Độ tiến hành điều chỉnh chính sách đối 
nội cũng như đối ngoại vào đầu thập niên 1990. 
Nhằm mục đích đưa Ấn Độ thoát khỏi tình trạng nghèo đói và lạc hậu, hoà nhập vào 
đời sống kinh tế, chính trị thế giới và xác lập cho mình một vị trí quốc tế xứng đáng, từ 
tháng 6/1991, ngay sau khi lên cầm quyền, về đối nội, Thủ tướng Narasimha Rao đã tiến 
hành một cuộc cải cách và mở cửa kinh tế mạnh mẽ, sâu rộng và triệt để chưa từng có từ 
trước đến nay. Về đối ngoại, chính phủ Ấn Độ cũng có sự điều chỉnh chính sách trên 
nhiều lĩnh vực; trong đó, chính sách hướng Đông là một trong những điều chỉnh có ý 
nghĩa nhất của Ấn Độ thời kì sau chiến tranh lạnh. 
2. Đông Nam Á trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ 
Chính sách hướng Đông của Ấn Độ là chính sách đối ngoại nhằm ưu tiên thiết lập và 
phát triển mối quan hệ với các quốc gia ở phía Đông Ấn Độ, đặc biệt là các quốc gia 
Đông Nam Á, tiếp giáp với vùng biển phía Đông Ấn Độ. Một trong những lí do rõ ràng 
nhất mà khu vực Đông Nam Á, hay tổ chức khu vực ASEAN trở thành trọng tâm chiến 
lược của chính sách hướng Đông của Ấn Độ, theo các tác giả Frédéric Grare và Amitabh 
Matto của Trung tâm nghiên cứu an ninh quốc gia Ấn Độ3 giải thích là “sự sụp đổ của 
Liên Xô và việc Mĩ cắt giảm lực lượng quân đội trong khu vực đã làm xuất hiện một mối 
lo ngại về khoảng trống quyền lực mà một quốc gia năng động về kinh tế và chính trị như 
Trung Quốc sẽ có thể lấp vào. Điều này đã gây ra sự lo lắng ở những mức độ khác nhau, 
đối với hầu hết các nước ASEAN. Ở Ấn Độ, mặc dù không thể hiện ra rõ ràng, nhưng có 
một sự lo ngại về khả năng xuất hiện của cường quốc Trung Quốc với ý định thống trị 
khu vực. Điều này đã làm nảy sinh nhận thức mới, và cùng với những chính sách kinh tế 
tự do hoá của Ấn Độ đã thúc ép New Delhi phải “hướng Đông”4. Trong một cuốn sách 
khác viết về chính sách hướng Đông của Ấn Độ, hai tác giả trên còn lí giải thêm: Với thị 
2
 Trần Thị Lý, 2002, Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hoà Ấn Độ từ 1991 đến 2000, Khoa học Xã hội, Hà Nội, 
tr.24. 
3
 Frédéric Grare and Amitabh Matto, 2001, India and ASEAN, the Politics of India’s Look East Policy, Vol.I, 
Centre for Study of National Security Policy, New Delhi. 
4
 Frédéric Grare and Amitabh Matto, 2001, India and ASEAN, the Politics of India’s Look East Policy, Vol.I, 
Centre for Study of National Security Policy, New Delhi, p.14. 
 3 
trường gần 500 triệu người và tổng sản phẩm quốc nội đạt 800 tỉ USD, ASEAN, một 
trong những nhóm quốc gia năng động nhất trong nền kinh tế thế giới, cũng được xem là 
một trong những vùng kinh tế đem lại nhiều cơ hội cho Ấn Độ5. 
Tuy nhiên, không chỉ đến khi có chính sách hướng Đông thì quan hệ của Ấn Độ và 
ASEAN mới được thiết lập. Trong lịch sử, mối quan hệ này đã được thiết lập trên nhiều 
lĩnh vực khác nhau mà hiện nay vẫn còn có thể nhận diện được qua những ảnh hưởng về 
mặt văn hoá và chính trị của Ấn Độ ở các quốc gia hải đảo, và các quốc gia lục địa của 
Đông Nam Á. Ngoài ra, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XX, một bộ phận không nhỏ những 
người Ấn Độ di cư đã làm một cuộc hành trình dài vượt qua Ấn Độ dương và qua biên 
giới của Myanmar để đến với khu vực Đông Nam Á trong vai trò những người láng giềng 
tìm kiếm công việc ở những đồn điền thuộc địa rộng lớn ở khu vực này hay với tư cách là 
những thương nhân đến buôn bán. Tuy mối quan hệ này sau đó bị gián đoạn bởi sự bành 
trướng của chủ nghĩa thực dân khiến cho Ấn Độ và hầu hết các nước Đông Nam Á đều bị 
mất chủ quyền, nhưng sau khi giành được độc lập, Thủ tướng Jawaharlal Nehru của Ấn 
Độ đã cố gắng liên kết châu Á bằng cách ủng hộ những cuộc đấu tranh ở thuộc địa, ủng 
hộ thuyết Liên Á, và một trật tự thế giới mới dựa trên việc không chọn bên nào trong 
chiến tranh lạnh. Vì vậy, trong bài phân tích về “Chính sách hướng Đông của Ấn Độ”, 
tác giả Eric Koo Peng Kuan đã nhận xét rằng: Cũng có thể nói rằng “Chính sách hướng 
Đông” của Ấn Độ là một sự biểu lộ gián tiếp ước mơ quay trở lại tiếp tục những hoạt 
động đã có từ trong lịch sử xa xưa của Ấn Độ”6. 
Trên thực tế, chính sách hướng Đông của Ấn Độ, theo nhiều tác giả7 là một phần của 
chính sách ngoại giao “thực dụng” (pragmatic) mới của Ấn Độ, và việc tăng cường mối 
quan hệ với ASEAN xuất phát từ sự nhận thức về tầm quan trọng của khu vực này đối 
với những lợi ích quốc gia của Ấn Độ. Việc nhận thức này bao gồm những điểm chính 
sau: 
Thứ nhất, nhận thức về sự thay đổi của tình hình thế giới và việc thiết lập vị trí của 
Ấn Độ trong thế giới hậu chiến tranh lạnh: sự sụp đổ của Liên Xô vào giai đoạn cuối của 
cuộc chiến tranh lạnh, và sự mở đầu mạnh mẽ của làn sóng toàn cầu hoá đã khiến cho các 
nhà lãnh đạo Ấn Độ nhận ra rằng một trong những phương tiện thiết yếu nhất để làm nên 
sự giàu có cho một quốc gia chính là việc phát triển thương mại quốc tế và khuyến khích 
đầu tư nước ngoài. Đối với thực lực kinh tế của Ấn Độ, trừ một số ngành công nghệ cao, 
phần lớn các sản phẩm của Ấn Độ phù hợp với một thị trường tiêu dùng là cư dân các 
nước đang phát triển (developing) hơn là các nước phát triển (developed). Vì vậy, hướng 
sang các quốc gia phương Đông, và đặc biệt là các quốc gia Đông Nam Á là một hướng 
đi hợp lí. Sự hợp lí còn thể hiện ở chỗ Đông Nam Á chính là ngã tư đường, là cửa ngõ 
quốc tế thuận lợi nhất giúp Ấn Độ tiếp cận với các quốc gia khác ở châu Á và khu vực 
Châu Á – Thái Bình Dương. Việc thiết lập mối quan hệ hữu hảo, toàn diện với ASEAN 
còn nằm trong tính toán chiến lược lâu dài của Ấn Độ là vươn ra khu vực Châu Á – Thái 
5
 Frédéric Grare and Amitabh Matto, 2003, Beyond the Rhetoric, The Economics of India’s Look East Policy, Vol. 
II, Centre for Study of National Security Policy, New Delhi, p.12. 
6
 Eric Koo Peng Kuan: India's Look East Policy, Magazin of Policy Analysis, Delhi 2003. 
7
 (Frédéric Grare và Amitabh Matto, Vol I, India and ASEAN, The Politics of India’s Look East Policy và Vol II, 
Beyond the Rhetoric, The Economics of India’s Look East Policy; Sushila Narasimhan, Look East Policy: Past, 
Present and Future; Kripa Sridharan, The ASEAN Region in India’s Look East Policy ). 
 4 
Bình Dương, thực hiện ước mơ mà nhà lãnh đạo vĩ đại của Ấn Độ J. Nehru đã nói từ 
những năm 1935: “Thái Bình Dương có khả năng thay thế Đại Tây Dương với tư cách là 
một trung tâm đầu não của thế giới trong tương lai. Tuy không phải là một quốc gia ở 
Thái Bình Dương nhưng Ấn Độ sẽ phải có được ảnh hưởng quan trọng ở đó”8. Cũng vì 
vậy mà chính sách hướng Đông của Ấn Độ chia làm hai giai đoạn rất rõ ràng, giai đoạn I 
(dự kiến từ đầu thập niên 1990 đến cuối thập niên 1990), Ấn Độ tập trung tăng cường 
quan hệ trên mọi lĩnh vực với khu vực Đông Nam Á; giai đoạn II, từ đầu thế kỉ XXI, Ấn 
Độ sẽ mở rộng quan hệ với các nước còn lại ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Mục 
tiêu xa hơn nữa là thiết lập mối liên kết đồng minh giữa hai tổ chức khu vực Nam Á 
(SAARC) và Đông Nam Á (ASEAN). 
Thứ hai, nhận thức về sự lớn mạnh và vai trò quan trọng của tổ chức khu vực 
ASEAN: thập niên 1990s là một giai đoạn chứng kiến sự phát triển và tăng trưởng kinh tế 
nhanh chóng của các nước châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á. Đông Nam Á được coi là 
“làn sóng thứ ba” về phát triển kinh tế của châu Á sau làn sóng Nhật Bản và các nước 
NICs. Hiện nay, cộng đồng 10 nước ASEAN với dân số gần 600 triệu dân và tổng GDP 
của ASEAN đạt 1.100 tỉ USD năm 2006, kim ngạch ngoại thương của ASEAN với các 
nước ngoài ASEAN năm 2006 cũng đạt gần 1.500 tỉ9. Có cùng xuất phát điểm là những 
vùng đất thuộc địa lâu dài, nhưng những quốc gia ASEAN đã vượt qua Ấn Độ (với dân 
số khoảng 1,2 tỉ người và tổng GDP năm 2006 là gần 900 tỉ)10, vượt qua những di sản 
thuộc địa để trở thành những xã hội phát triển nhanh chóng và hướng đến mục tiêu trở 
thành những nhà nước hiện đại hoá, công nghiệp hoá dựa trên hai trụ cột kinh tế là 
thương mại và công nghiệp kĩ thuật cao. Xuất phát từ nhận thức nền kinh tế của Đông 
Nam Á là một mảnh đất hầu như chưa được khai thác mà vẫn còn đủ chỗ (up for grabs) 
cho những thực thể kinh tế lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, châu Âu và Mĩ, Ấn Độ đã quyết 
định chuyển hướng chính sách đối ngoại vào khu vực này. Thực thi chính sách hướng 
Đông nhằm vào trọng tâm chính là ASEAN, Ấn Độ có thể đồng thời một lúc đạt được hai 
mục tiêu, một là thiết lập được mối quan hệ với từng quốc gia thành viên mà nhờ đó có 
thể mở rộng thị trường cho hàng hoá của Ấn Độ, hai là mở rộng thị trường công việc cho 
nguồn nhân lực nhàn rỗi đang bị coi là vấn nạn lớn của chính phủ Ấn Độ. 
Thứ ba, nhận thức về sự lớn mạnh của Trung Quốc: là hai quốc gia láng giềng có 
cùng biên giới, và cùng là những cái nôi của nền văn minh nhân loại, nhưng, vượt qua Ấn 
Độ, Trung Quốc đang ngày càng tỏ ra xứng đáng với vai trò đầu tàu của Châu Á. Các 
chính sách mở cửa của Trung Quốc, trong những năm 1980s đã đem lại sự thành công 
nhanh chóng cho quốc gia đang được mệnh danh là “người khổng lồ kinh tế” châu Á này. 
Hơn thế nữa, trong bối cảnh trật tự thế giới đa cực đang hình thành, Trung Quốc là đối 
thủ cạnh tranh với Ấn Độ trong hầu hết các lĩnh vực chính trị, kinh tế và quân sự và, quan 
trọng hơn, cạnh tranh về ảnh hưởng kinh tế trong khu vực Đông Nam Á. Trong một bài 
phát biểu của mình trước quốc hội, Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh nói rằng: dù đã 
có chính sách kêu gọi đầu tư nước ngoài nhưng đầu tư nước ngoài vào Ấn Độ mà mới 
dừng lại ở mức 3 tỉ USD vào những năm đầu thế kỉ XXI, tăng lên 5.5 tỉ USD vào năm 
2005 - 2006 và 15,7 tỉ năm 2006 - 200711. So với 53 tỉ USD đầu tư nước ngoài chảy vào 
Trung Quốc trong những năm đầu thế kỉ XXI, 60,3 tỉ USD năm 2005 - 2006 và 63,02 tỉ 
8
 Dipanka Banedi, India and Southeast Asia in the XXI Century, Publisher: New Delhi, 1995, p.188. 
9
 TTXVN: 23/08/2007. 
10
 TTXVN: 23/08/2007. 
11
 Economic Survey 2006 - 2007, 28/06/2007. 
 5 
USD vào năm 2006 - 200712 thì đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Ấn Độ còn khá 
khiêm tốn. Cần thiết phải tìm kiếm những thị trường mới để Ấn Độ tăng trưởng kinh tế 
và tìm kiếm một cách thức hữu hiệu để cạnh tranh với những chính sách kinh tế của 
Trung Quốc13. Chính “nhân tố Trung Quốc” này đã khiến Ấn Độ phải gấp rút chuẩn bị 
cho mình một tư thế tốt nhất để bước vào cuộc cạnh tranh không những với Trung Quốc, 
mà với cả những thế lực kinh tế trong khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình 
Dương. 
Thứ tư, nhận thức về mối đe dọa biên giới phía Tây Bắc và phía Bắc: giữa Ấn Độ và 
Pakistan vẫn tồn tại những xung đột xung quanh hai vùng lãnh thổ Jammy và Kashmir. 
Sự liên minh chiến lược về quân sự của Pakistan và Trung Quốc, một láng gi ... Ngoài ra, 
tình hình bất ổn về chính trị, xã hội tại các nước Trung Cận Đông cũng có những tác 
động to lớn đến công cuộc công nghiệp hoá của Ấn Độ do nguồn dầu và giá cung cấp 
không ổn định. Theo thống kê của chính phủ Ấn Độ, vào thời gian xảy ra chiến tranh 
vùng Vịnh (1990 - 1991), giá dầu nhập khẩu của Ấn Độ tăng 21,9%14. Điều này một lần 
nữa khiến cho Đông Nam Á trở thành sự lựa chọn hợp lí nhất cho sự phát triển lâu dài 
của Ấn Độ trong thế kỉ XXI. 
Thứ sáu, nhận thức về vai trò của Ấn Độ trong khu vực Nam Á: để tăng cường vai trò 
đầu tàu của Ấn Độ trong khu vực Nam Á và tổ chức SAARC (Hiệp hội hợp tác khu vực 
Nam Á), một khu vực còn nhiều bất ổn về kinh tế, chính trị và xã hội. Mở rộng quan hệ 
ngoại giao của Ấn Độ ra một tổ chức khu vực láng giềng của Nam Á cũng làm tăng thêm 
uy tín của Ấn Độ trong vai trò lãnh đạo khu vực này. ASEAN và SAARC cũng tồn tại 
một số vấn đề tương đối giống nhau về kinh tế, chính trị, và xã hội mà Ấn Độ có thể chia 
sẻ kinh nghiệm và thông qua đó, giúp Ấn Độ giải quyết những vấn đề tranh chấp lãnh 
thổ, nguồn nước, ngăn chặn phong trào li khai trong khu vực một cách hữu hiệu hơn. 
Thứ bảy, nhận thức về an ninh lãnh thổ và khu vực: Ấn Độ không chỉ có đường biên 
giới với người láng giềng khổng lồ là Trung Quốc mà còn có đường biên giới với một 
quốc gia thành viên của Đông Nam Á là Myanmar. Do những biến động trong quá trình 
lịch sử nên giữa những quốc gia này đều tồn tại những vấn đề về biên giới chưa thể giải 
quyết dứt điểm được. Thêm vào đó, về mặt địa lí tự nhiên, biên giới biển và biên giới đất 
liền nơi tiếp giáp của Ấn Độ với phần còn lại của châu Á nói chung và khu vực Đông 
Nam Á nói riêng còn là những nơi hiểm trở, từ lâu đã trở thành nơi ẩn náu của các phong 
trào li khai, nơi hoạt động của bọn buôn bán ma túy, cướp biển, gây mất an ninh cho cả 
khu vực Nam Á lẫn Đông Nam Á. Trong khi đó, thương mại trên biển của Ấn Độ lại gắn 
12
 Asian Economic News 15/06/2007. 
13
 Metcalf, Barbara, Metcalf, Thomas. R, A Concise History of India, United Kingdom:Cambridge University Press, 2002, p.5. 
14 Indian Government, Statistics of Economics, 1990 - 1991, Ministry of Finance, New Delhi, 1991, p.3. 
 6 
trực tiếp với những eo biển nằm ở khu vực Đông Nam Á như Malacca, Sunda và 
Lombok. Phát triển mối quan hệ thân thiết và bền vững với các quốc gia Đông Nam Á 
cũng đồng thời là hướng phát triển nhằm đảm bảo an ninh biên giới lãnh thổ, và bảo đảm 
an ninh kinh tế cho cả hai bên. 
Cuối cùng, nhận thức về sự gặp gỡ của những mối quan tâm chiến lược giữa ASEAN 
và Ấn Độ: không chỉ Ấn Độ có ấn tượng đặc biệt đối với những nền kinh tế đang nổi lên 
ở Đông Nam Á, mà bản thân các nước thành viên của ASEAN cũng dành sự quan tâm to 
lớn cho người láng giềng khổng lồ Nam Á của mình. Bên cạnh những mối quan hệ hết 
sức tốt đẹp đã có từ trong lịch sử lâu đời giữa hai khu vực này (Ấn Độ và các nước Đông 
Nam Á hầu như không có lịch sử xâm lược lẫn nhau, mối quan hệ giữa hai khu vực này 
diễn ra trong một thời gian dài trong lịch sử được tiến hành thông qua con đường hoà 
bình), bên cạnh mối quan tâm chung về an ninh như đã phân tích ở trên, thì bản thân các 
quốc gia ASEAN cũng bị ấn tượng trước sự vươn dậy mạnh mẽ của Ấn Độ trong thập 
niên cuối cùng của thế kỉ XX, đặc biệt là sau công cuộc cải cách toàn diện mà chính phủ 
của Thủ tướng Narasimha Rao tiến hành trong đầu thập niên 1990. Trong lịch sử Ấn Độ 
đã từng là một nền văn minh rực rỡ của nhân loại, hiện tại Ấn Độ là một thị trường rộng 
lớn với hơn một tỉ dân, mức tăng trưởng kinh tế sau cải cách liên tục tăng nhanh, giai 
đoạn 1990 - 1995 khoảng 4,5% năm. Năm 1995, Ấn Độ đứng thứ 15 trên thế giới về 
GDP (317 tỉ USD), đứng thứ 13 trên thế giới về nông nghiệp, đứng thứ 14 về giá trị công 
nghiệp. Từ giữa thập niên 1990 đến nay, GDP của Ấn Độ tăng trưởng nhanh chóng, bình 
quân hàng năm đạt 6,5%; dự trữ ngoại tệ đạt trên 100 tỉ USD. Năm 2006, GDP của Ấn 
Độ tăng trưởng 9,4%, đạt 1000 tỉ USD15, vào loại cao nhất thế giới và châu Á. Ngoài ra, 
Ấn Độ được thế giới biết đến như là một cường quốc về công nghệ thông tin, đặc biệt là 
công nghệ phần mềm, một trong những ngành công nghiệp tinh vi nhất của thế giới 
đương đại. 
Ấn Độ cũng còn nhiều những lợi thế khác khiến ASEAN cũng phải thừa nhận sự cần 
thiết trong việc thiết lập quan hệ đồng minh lâu dài với Ấn Độ, nhất là trong bối cảnh ảnh 
hưởng của Trung Quốc ngày càng to lớn ở khu vực châu Á nói chung và Đông Nam Á 
nói riêng. Ảnh hưởng này không chỉ trực tiếp thể hiện trong quan hệ trực tiếp giữa 
ASEAN và Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực, mà còn thể hiện gián tiếp thông qua các 
cộng đồng Hoa kiều có mặt ở tất cả các quốc gia Đông Nam Á và ngày càng chi phối 
chặt chẽ nền kinh tế của Đông Nam Á. Theo thống kê chưa đầy đủ vào năm 2006, có 
khoảng trên 30 triệu người Hoa đang sống ở Đông Nam Á, chiếm 33% dân số của 
Malaysia; 75,6% dân số Singapore; 12% dân số Thái Lan16 họ nắm trong tay cổ phiếu 
của hàng loạt các công ti được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Từ đầu thế kỉ XXI, 
ở Thái Lan và Singapore, họ sở hữu hơn 80% cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, quốc 
vương Thái Lan Rama VI từng gọi người Trung Quốc là “dân Do Thái ở phương Đông”; 
ở Malaysia, họ sở hữu 62%; ở Philippines 50%; ở Indonesia họ nắm 70% tổng số tài sản 
của các công ti17 Trung Quốc đang nỗ lực thể hiện vai trò năng động của mình trong 
việc điều khiển nền kinh tế của Đông Nam Á và trong tương lai, bằng sức mạnh của 
người khổng lồ đang vươn dậy, sẽ lấp khoảng trống quyền lực là Mĩ và Liên Xô để lại 
khu vực này sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Chắc chắn đây không phải là điều mà 
ASEAN mong đợi, cả một lịch sử dài của Đông Nam Á đã từng là lịch sử của chiến 
15
 India GDP Expanded at Fastest Pace in 18 Years, Market Watch, May 31/2007. 
16
 Overseas Chinese Survey17/08/2007. 
17
 TTXVN: Tình cảnh người Hoa ở Đông Nam Á, 30/8/2001. 
 7 
tranh, lịch sử của vùng đệm, nơi diễn ra các cuộc chiến tranh xâm lược đẫm máu do các 
cường quốc thực dân tiến hành, và cũng là nơi diễn ra các cuộc chiến tranh “uỷ nhiệm” 
trong thời kì chiến tranh lạnh. Vì vậy, tất cả các nước thành viên của ASEAN đều mong 
muốn khép lại quá khứ, hướng đến một tương lai độc lập, tự do, thịnh vượng và bình 
đẳng với các quốc gia và khu vực khác chứ không phải lại tiếp tục chịu ảnh hưởng của 
một cường quốc nào đó. Đó là lí do quan trọng nhất khi các nước Đông Nam Á quyết 
định tập hợp lại trong một tổ chức là ASEAN. 
Để thực hiện được những mục tiêu trên trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những 
thay đổi quan trọng sau chiến tranh lạnh, việc liên kết với Ấn Độ, người khổng lồ thứ hai 
của châu Á, và là người láng giềng phía Tây đang cùng chia sẻ với ASEAN những đường 
biên giới biển và đất liền là hết sức cần thiết. Việc ASEAN công nhận Ấn Độ là thành 
viên chính thức của diễn đàn ARF vào năm 1996 cũng cho thấy những tính toán chiến 
lược của ASEAN về vai trò của Ấn Độ trong tương lai chung của châu Á và tương lai 
riêng của khu vực Đông Nam Á. Ấn Độ, có lẽ là cường quốc duy nhất ở châu Á có khả 
năng đối trọng lại với Trung Quốc trong tình hình hiện nay về mọi mặt, đặc biệt là kinh tế 
và an ninh. Hai quốc gia này có số dân tương đương nhau, có những lợi thế về kinh tế 
riêng, cùng là hai quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân, cùng đang chạy đua và giành được 
những kết quả đáng kể trong ngành công nghiệp vũ trụ Cuộc cạnh tranh giữa hai quốc 
gia này sẽ đem lại những thách thức cũng như những thuận lợi nhất định cho sự phát triển 
toàn diện và độc lập của ASEAN trong tương lai. 
3. Những kết quả bước đầu của việc thực thi chính sách hướng Đông của Ấn Độ đối 
với khu vực Đông Nam Á 
Ngay từ khi mới ra đời, chính sách hướng Đông của Ấn Độ đã thu hút được sự quan 
tâm của các nước ASEAN. Bắt đầu từ một xuất phát điểm rất thấp (trong suốt thời kì 
chiến tranh lạnh, hầu như giữa Ấn Độ và ASEAN (5 quốc gia thành lập), không đặt quan 
hệ chính thức, và cũng không có những mối quan hệ thường xuyên trên tất cả các lĩnh 
vực, thậm chí có thời gian Ấn Độ từng lên án khối liên minh quân sự SEATO và các 
thành viên ASEAN từng tham gia vào khối quân sự này. Nhưng bối cảnh mới của thế 
giới vào đầu thập niên 1990, đặc biệt là được sự khích lệ của chính sách hướng Đông, 
quan hệ Ấn Độ và ASEAN đã nhanh chóng phát triển trên nhiều lĩnh vực. 
Chưa đầy một năm sau sự ra đời của chính sách hướng Đông, vào năm 1992, Ấn Độ 
đã trở thành thành viên đối thoại từng phần của ASEAN. Ba năm sau (1995), Ấn Độ trở 
thành thành viên đối thoại đầy đủ của ASEAN. Năm 1996, Ấn Độ là thành viên của diễn 
đàn khu vực ASEAN, là khách mời tham dự chính thức của các cuộc họp cấp cao của 
ASEAN. Năm 2002, quan hệ Ấn Độ và ASEAN được đẩy lên một bước với sự kiện Hội 
nghị Thượng đỉnh ASEAN - Ấn Độ lần đầu tiên được tổ chức ở thủ đô PhnomPenh 
(Campuchia), Ấn Độ chính thức trở thành một bên trong cơ chế hợp tác ASEAN+1. 
Năm 2003, Ấn Độ và ASEAN đã đạt được “Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn 
diện giữa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và Cộng hoà Ấn Độ”, trong đó quan trọng 
nhất là những điều khoản liên quan đến việc thành lập khu vực mậu dịch tự do (FTA) 
ASEAN - Ấn Độ. Tháng 11/2004, tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN diễn ra ở Lào, Ấn 
Độ và các nước ASEAN đã kí bản kế hoạch “Đối tác vì hoà bình, tiến bộ và cùng thịnh 
vượng, mở ra một thời kì mới trong quan hệ ASEAN - Ấn Độ trên các lĩnh vực kinh tế, 
chính trị, an ninh, khoa học công nghệ, y tế, văn hoá. Ngoài ra, hai bên cũng thảo luận về 
 8 
việc xây dựng kế hoạch hợp tác “Tầm nhìn ASEAN - Ấn Độ” đến năm 2020. Vào đầu 
năm 2007 vừa qua, trong Hội nghị cấp cao ASEAN+1 với Ấn Độ tại Cebu (Philippines), 
các nhà lãnh đạo Ấn Độ và ASEAN đã nhất trí về việc gia tăng các lĩnh vực hợp tác giữa 
hai bên, đặc biệt là các lĩnh vực mà Ấn Độ có lợi thế như khoa công - công nghệ, tin học, 
dược phẩm, thúc đẩy du lịch hai chiều với những chiến dịch quảng bá ở cả ASEAN và 
Ấn Độ. 
Những nỗ lực để đẩy mạnh hợp tác toàn diện của Ấn Độ và ASEAN trong hơn một 
thập niên qua được thể hiện rõ nhất trên lĩnh vực kinh tế. Hợp tác để phát triển kinh tế 
cũng là mục tiêu hàng đầu và trước tiên trong quan hệ đối tác Ấn Độ - ASEAN mà chính 
sách hướng Đông hướng tới. Trong hơn một thập niên qua, từ chỗ thương mại hai chiều 
chỉ đạt khoảng 2,4 tỉ USD vào năm 1990; 2,91 tỉ USD năm 1993; 8,79 tỉ USD vào năm 
1997; 9,88 tỉ vào năm 2001; 17,8 tỉ vào năm 2003, và 23 tỉ USD vào cuối năm 2005. Chỉ 
riêng từ năm 2002 đến 2005, thương mại hai chiều của Ấn Độ và ASEAN đã tăng 150%, 
từ 9,7 tỉ USD vào năm 2002 tăng lên 23 tỉ USD vào năm 200518. Trong hội nghị cấp 
cao ASEAN lần thứ 10 tại Lào vào năm 2004, Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh bày 
tỏ niềm tin rằng thương mại hai chiều Ấn Độ - ASEAN sẽ vượt 30 tỉ USD vào năm 2007. 
những con số này tuy chưa phải là lớn (so với thương mại hai chiều ASEAN - Trung 
Quốc đạt 120 tỉ USD/năm), nhưng vẫn là một khởi đầu rất ấn tượng đối với cả hai bên. 
Ngoài lĩnh vực hợp tác chính là kinh tế, Ấn Độ và ASEAN cũng đã có những cam kết 
hợp tác về an ninh trong khuân khổ diễn đàn an ninh khu vực (ARF). Năm 2003, Ấn Độ 
và ASEAN đã kí một bản “Tuyên bố chung về Hợp tác chống khủng bố quốc tế”. Trong 
hội nghị cấp cao ASEAN - Ấn Độ lần thứ II vào tháng 10/2003, Ấn Độ đã kí Hiệp ước 
Thân thiện và Hợp tác với ASEAN (TAC), trong đó Ấn Độ cam kết sẽ hợp tác và tham 
gia chặt chẽ trong việc giữ gìn an ninh và sự ổn định của khu vực, đặc biệt là hợp tác 
trong vấn đề chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, dự báo và quản lí thiên tai, cơ 
chế cảnh báo sớm, bệnh dịch cúm gia cầm, tăng cường hợp tác về an ninh năng 
lượng 
Quan hệ hợp tác toàn diện của Ấn Độ và ASEAN còn được thể hiện qua hàng loạt các 
văn bản về hợp tác khoa học kĩ thuật bao gồm các lĩnh vực khoa học không gian, công 
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dược học, chữa bệnh từ xa Trong hội nghị cấp cao 
về hợp tác kĩ thuật ASEAN - Ấn Độ tổ chức tại New Delhi tháng 12/2006, hai bên đã kí 
kết một văn bản về việc thành lập quĩ “khoa học kĩ thuật ASEAN - Ấn Độ” nhằm tăng 
cường công tác nghiên cứu và phát triển kĩ thuật trong khu vực vì lợi ích chung. 
Hơn 15 năm kể từ khi kết thúc chiến tranh lạnh, tuy chưa mang lại những thay đổi có 
tính chất đột phá trong quan hệ Ấn Độ và ASEAN, nhưng rõ ràng chính sách hướng 
Đông của Ấn Độ đối với khu vực Đông Nam Á đã gặt hái được những kết quả bước đầu 
hết sức tốt đẹp và đang ngày càng chứng tỏ được tính ưu việt và khả năng hiện thực của 
mình. Thế giới, khu vực, từng quốc gia thành viên của ASEAN cũng như nhân dân Ấn 
Độ đều cảm nhận được sự thay đổi nhanh chóng theo chiều hướng lạc quan trong quan hệ 
giữa Ấn Độ và ASEAN từ sau chiến tranh lạnh đến nay, và đặc biệt là sự thay đổi diễn ra 
dưới những tác động tích cực của chính sách hướng Đông. 
18
 Vibhanshu Shekha, India - ASEAN Relation, An Overview, IPCS Special Report, No. 39, March 2007, p.2. 
 9 
Mặc dù vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn mà Ấn Độ và ASEAN phải vượt qua trong 
thời gian tới để có thể thực hiện các cam kết đã kí. Phần lớn những khó khăn xuất phát từ 
bản thân tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của cả ASEAN và Ấn Độ (cả hai đều là những 
cộng đồng đông dân cư, đa dạng về dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, khoảng cách giàu 
nghèo còn rất lớn, cả hai còn tồn tại những yếu kém, những bất đồng và mâu thuẫn do 
lịch sử để lại, cả hai đều không phải là những nền kinh tế phát triển toàn diện ở mức độ 
cao như những nền kinh tế Tây Âu và Bắc Mĩ để có thể trợ giúp cho nhau), nhiều dự 
án và mục tiêu mà hai bên đề ra nhưng chưa có đủ khả năng tài chính để thực hiện, đàm 
phán về thị trường thương mại tự do giữa hai bên còn những bất đồng nhất định xuất phát 
từ lợi ích tối cao của hai nước Tuy nhiên, với việc thương mại hai chiều và đầu tư trực 
tiếp giữa hai bên không ngừng tăng trong từng năm trong suốt những năm triển khai 
chính sách hướng Đông, nhiều rào cản về kinh tế, chính trị đã được tháo gỡ, danh mục 
các hoạt động hợp tác liên tục tăng, kết quả hợp tác cũng được thể hiện qua những con số 
đầy ấn tượng Có nhiều khả năng để hi vọng rằng, chính sách hướng Đông của Ấn Độ 
đã, đang và sẽ mở ra nhiều triển vọng tốt đẹp cho quan hệ Ấn Độ - ASEAN trong tương 
lai. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. A.N. Ram, 1995, India’s “Look East” Policy - A Perspective, in India’s Foreign 
Policy, New Delhi. 
2. C.V.C Naidu, 2004, India and Southeast Asia: Look East Policy, Wold forcus, Sep. 
3. Frédéric Grare and Amitabh Matto, 2001, India and ASEAN, the Politics of India’s 
Look East Policy, Vol. I, Centre for Study of National Security Policy, New Delhi. 
4. Frédéric Grare and Amitabh Matto, 2003, Beyond the Rhetoric, The Economics of 
India’s Look East Policy, Vol. II, Centre for Study of National Security Policy, New 
Delhi. 
5. Mohammeh Ayoob, 1990, India and Southeast Asia - India Perceptions and Policies, 
Routledge, London. 
6. Namasimha. Rao, 1992, India’s Look East Policy, The Hindu 03/09/1992. 
7. Vibhanshu Shekha, India - ASEAN Relation, An Overview, IPCS Special Report, No. 
39, March 2007. 
8. Dipanka Banedi, 1995, India and Southeast Asia in the XXI Century, New Delhi. 
9. Võ Xuân Vinh, 3/2007, ASEAN trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ, Tạp chí 
Cộng sản số 125. 

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_huong_dong_cua_an_do_doi_voi_khu_vuc_dong_nam_a_t.pdf