Chính sách an sinh xã hội đối với xu hướng già hóa dân số ở Việt Nam

Già hóa dân số là một thành tựu xã hội to lớn của nhân loại và

của mỗi quốc gia trong nỗ lực kéo dài tuổi thọ của con người. Tuy

nhiên, già hoá dân số sẽ làm cho gánh nặng kinh tế - xã hội trở nên

nghiêm trọng nếu quốc gia không có những bước chuẩn bị và thực

hiện các chiến lược, chính sách thích ứng. Việt Nam sẽ bước vào

giai đoạn già hóa dân số với tốc độ cao trong khi thời gian chuẩn bị

thích ứng không còn nhiều. Do vậy, cần phải hoạch định các chiến

lược, chính sách thực tế, xác đáng để thích ứng.

pdf 8 trang kimcuc 5980
Bạn đang xem tài liệu "Chính sách an sinh xã hội đối với xu hướng già hóa dân số ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách an sinh xã hội đối với xu hướng già hóa dân số ở Việt Nam

Chính sách an sinh xã hội đối với xu hướng già hóa dân số ở Việt Nam
CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI XU 
HƯỚNG GIÀ HÓA DÂN SỐ Ở VIỆT NAM
Tóm tắt: 
Già hóa dân số là một thành tựu xã hội to lớn của nhân loại và 
của mỗi quốc gia trong nỗ lực kéo dài tuổi thọ của con người. Tuy 
nhiên, già hoá dân số sẽ làm cho gánh nặng kinh tế - xã hội trở nên 
nghiêm trọng nếu quốc gia không có những bước chuẩn bị và thực 
hiện các chiến lược, chính sách thích ứng. Việt Nam sẽ bước vào 
giai đoạn già hóa dân số với tốc độ cao trong khi thời gian chuẩn bị 
thích ứng không còn nhiều. Do vậy, cần phải hoạch định các chiến 
lược, chính sách thực tế, xác đáng để thích ứng. 
Giang Thanh Long*
Đỗ Thị Thu**
* PGS. TS. Viện trưởng Viện Chính sách Công và Quản lý, ĐH Kinh tế Quốc dân
** Giảng viên, Học viện Ngân hàng; Nghiên cứu sinh, ĐH Kinh tế Quốc dân
Abstract 
Population aging is a great social achievement of mankind and of 
every country in an effort to extend the life of people. However, 
population aging will make the socio-economic burden serious 
if any country does not take proper steps to develop and adopt 
adaptive strategies and policies. Vietnam will enter a period of 
high population aging while adaptive preparation time is not much. 
Therefore, it is necessary to plan realistic, appropriate strategies 
and policies for adaption.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: an sinh xã hội, già hóa dân 
số, quá độ dân số
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 16/01/2019
Biên tập : 22/01/2019
Duyệt bài : 23/01/2019
Article Infomation:
Keywords: social security, population 
aging, population transition.
Article History:
Received : 16 Jan. 2019
Edited : 22 Jan. 2019
Approved : 23 Jan. 2019
1. Già hóa dân số ở Việt Nam 
Việt Nam đang trong giai đoạn “quá 
độ dân số” với hai xu hướng dân số diễn ra 
cùng lúc là “cơ cấu dân số vàng” và “dân số 
già hóa”. Xu hướng đầu thể hiện số lượng và 
tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tăng lên, 
trong khi xu hướng sau thể hiện số lượng 
và tỷ lệ người cao tuổi (NCT) tăng lên. Già 
hóa dân số ở Việt Nam là kết quả của hai xu 
hướng dân số nổi bật trong ba thập kỷ gần 
đây, đó là tỷ suất sinh giảm và tuổi thọ tăng. 
Kết quả là dân số trẻ em có xu hướng giảm, 
dân số trong độ tuổi lao động tăng và dân số 
cao tuổi tăng. 
Theo UNFPA (2011), một nước sẽ 
CHÑNH SAÁCH
98 Số 2+3(378+379) T1/2019
bước vào giai đoạn “bắt đầu già” khi dân 
số cao tuổi1 chiếm 10% tổng dân số và giai 
đoạn “già” khi dân số cao tuổi chiếm 20% 
tổng dân số. Với định nghĩa này, các dự 
báo dân số của Tổng cục Thống kê (TCTK, 
2016) cho giai đoạn 2014-2049 cho thấy 
dân số Việt Nam chính thức bước vào giai 
đoạn “bắt già hóa” từ trước năm 2014 và chỉ 
khoảng 20 năm để dân số Việt Nam sẽ bước 
vào giai đoạn “già” (Giang Thanh Long, 
2018);. Đây là một khoảng thời gian rất ngắn 
so với nhiều nền kinh tế phát triển khác bởi 
các nước này phải mất vài chục năm, thậm 
chí cả thế kỷ, để thay đổi như vậy. Về số 
lượng NCT, Việt Nam hiện có khoảng 10,1 
triệu người, trong đó số người từ 80 tuổi trở 
lên là khoảng 2 triệu người. Với cùng dự 
báo dân số, tỉ số phụ thuộc dân số (tính bằng 
số người từ 60 tuổi trở lên so với số người 
trong độ tuổi lao động 15-59) được dự báo 
tăng gấp hơn ba lần, từ 14% năm 2014 lên 
43% năm 2049. Tỷ lệ NCT chính thức vượt 
tỷ lệ trẻ em (từ 0-14 tuổi) vào năm 2040.
Già hóa dân số ở Việt Nam được minh 
họa bằng các tháp dân số năm 2018 và năm 
2040 tại Hình 1 dưới đây.
1 Theo Luật NCT số 39/2009/QH12, NCT được quy định là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên.
Quá trình già hóa dân số ở Việt Nam 
có một số đặc trưng như sau: 
Thứ nhất, dân số cao tuổi ở Việt Nam 
có xu hướng “già ở nhóm già nhất”, tức là tỷ 
lệ NCT ở nhóm lớn tuổi nhất (từ 80 trở lên) 
đã và đang tăng lên nhanh chóng;
Thứ hai, tỷ số giữa phụ nữ cao tuổi 
và nam giới cao tuổi tăng mạnh khi xét 
theo từng lứa tuổi (UNFPA, 2011; TW Hội 
LHPN Việt Nam, 2012). Trong nhân khẩu 
học, hiện tượng này được gọi là “nữ hóa 
dân số cao tuổi”. Tính toán của các tác giả 
từ Điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) 
2016 cho thấy tỷ số giữa số phụ nữ cao tuổi 
với số nam giới cao tuổi theo các nhóm tuổi 
60-69; 70-79 và 80 trở lên tương ứng là 
128/100; 141/100 và 183/100. Dự báo dân 
số của TCTK (2016) cũng cho kết quả tương 
tự trong các năm dự báo.
Thứ ba, “già hóa” dân số không đồng 
đều giữa các tỉnh và vùng. Một số địa phương 
có tốc độ già hóa nhanh do tỷ suất sinh thấp 
hoặc do dân số trẻ di cư, trong khi một số địa 
phương lại có tốc độ già hóa chậm do tỷ suất 
sinh và tỷ lệ trẻ em còn cao và rất cao.
Hình 1: Tháp dân số Việt Nam, năm 2018 và năm 2040
Nguồn: Các tác giả tự minh họa bằng số liệu của Tổng cục Thống kê (2016)
CHÑNH SAÁCH
99Số 2+3(378+379) T1/2019
2. Già hoá dân số đối với vấn đề chính 
sách an sinh xã hội
Già hóa dân số là một trong những 
nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi nhân khẩu 
lớn nhất trên thế giới hiện nay. Sự chuyển 
đổi nhân khẩu học do già hóa dân số đang 
và sẽ tạo ra những tác động lớn đến các 
hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội của 
mỗi dân tộc, quốc gia. Theo Tổ chức Y tế 
Thế giới (WHO, 2015), trung bình cứ một 
giây có hai người bước vào tuổi 60 (tức là 
trở thành NCT); mỗi năm thế giới có thêm 
khoảng 58 triệu NCT; và đến năm 2050 thì 
cứ 5 người thì có một NCT2. Giống như vấn 
đề gia tăng dân số, xu hướng già hoá dân số 
cũng gây ra một số thách thức đối với tăng 
trưởng kinh tế, phát triển hạ tầng kỹ thuật, 
hạ tầng xã hội và các dịch vụ an sinh xã hội 
liên quan. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu 
cho thấy, già hoá dân số có tác động mạnh 
đến mối quan hệ gia đình, lối sống, hệ thống 
an sinh xã hội, đặc biệt là hệ thống hưu trí 
quốc gia. 
Tốc độ “già hóa dân số” nhanh sẽ tác 
động tới nhiều lĩnh vực đời sống xã hội như 
hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe, hệ 
thống an sinh xã hội, việc làm, tuổi nghỉ hưu, 
quan hệ gia đình, tâm lý, lối sống đặt ra 
yêu cầu, thách thức là cần phải xây dựng một 
xã hội thích ứng với giai đoạn “già hóa dân 
số” của đất nước. Chúng ta cũng nhận thức 
chưa đầy đủ về việc đảm bảo quyền và khả 
năng tiếp cận, thụ hưởng chăm sóc sức khỏe, 
an sinh xã hội, an toàn và môi trường thân 
thiện với NCT. Theo một số chuyên gia của 
Ngân hàng Thế giới (Ronald Lee, Andrew 
Mason và Daniel Cotlear, 2010) thì già hóa 
dân số sẽ gây nên nhiều tác động kinh tế, xã 
hội sâu rộng. Nó sẽ ảnh hưởng lên thị trường 
lao động và mang lại nhiều thách thức đối 
với các nhà hoạch định chính sách, doanh 
nghiệp và toàn bộ người dân nói chung. 
2 Báo cáo tại Hội thảo quốc tế thích ứng với già hoá dân số tại Hà Nội ngày 17/7/2017.
3 Điểm 5, Mục III, Nghị quyết số 10/2011/QH13 ngày 08 tháng 11 năm 2011 của Quốc hội khoá 13.
Ở nước ta, vấn đề thách thức đang đặt 
ra là dù chính thức bước vào giai đoạn già 
hóa dân số từ năm 2011, nhưng tốc độ già 
hóa nhanh trong bối cảnh vẫn là một nước 
có mức thu nhập trung bình thấp. Phân 
tích thực trạng, dự báo về quá trình già hóa 
dân số và NCT sẽ cung cấp những luận cứ 
quan trọng cho việc đề xuất các chính sách, 
chương trình thực hiện mục tiêu “già hóa 
thành công”, đó là mục tiêu đảm bảo an sinh 
xã hội (nhằm đảm bảo thu nhập cho NCT 
thông qua lao động và hưởng hưu trí), dịch 
vụ chăm sóc NCT phát triển (nhằm đảm 
bảo dân số cao tuổi khỏe mạnh, tỷ lệ tàn tật, 
thương tật và đau ốm thấp) và hoạt động 
cộng đồng, xã hội phong phú (nhằm khuyến 
khích NCT chủ động tham gia các hoạt động 
xã hội, đóng góp cho cộng đồng và xã hội). 
Do đó, các vấn đề liên quan đến già hóa dân 
số được coi trọng trong Chiến lược Phát 
triển Kinh tế Xã hội của Việt Nam trong 
thập kỷ tới cũng như Kế hoạch Phát triển 
Kinh tế Xã hội giai đoạn 2011-2015.3 Vấn 
đề này cũng được đề cập đến trong nhiều 
chiến lược quốc gia khác nhau, ví dụ, Chiến 
lược Dân số và Sức khỏe Sinh sản, các chiến 
lược và chính sách của một số lĩnh vực khác.
Già hóa dân số là thách thức nhưng 
cũng là cơ hội đối với mỗi quốc gia. Ví dụ, 
đối với việc chăm sóc NCT, tất cả các vấn 
đề từ giáo dục, đào tạo, an sinh, xã hội, y 
tế, kinh tế... đều cần có những chương trình 
phát triển riêng. Nhiều vấn đề liên quan đến 
NCT sẽ phải được giải quyết như thiết kế và 
xây dựng nhà ở, đường sá, các phương tiện 
hỗ trợ người già, đào tạo điều dưỡng viên, 
bác sĩ... để phục vụ đối tượng này. Đây cũng 
là cơ hội để các doanh nghiệp có thể nghiên 
cứu và phát triển những lĩnh vực để phục 
vụ nhu cầu cho NCT. Do đó, một khía cạnh 
nhất định, NCT, cũng là đối tượng góp phần 
phát triển kinh tế - xã hội.
CHÑNH SAÁCH
100 Số 2+3(378+379) T1/2019
Hiện nay, Chính phủ đã và đang tiếp 
tục nghiên cứu xây dựng chính sách chăm 
sóc sức khỏe dài hạn. Tuy nhiên, Việt Nam 
sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức về kinh 
tế khi triển khai chính sách này, nhất là khi 
phần lớn NCT luôn có ít nhất một bệnh mạn 
tính trở lên và điều kiện kinh tế khá khó 
khăn. Vì thế, thích ứng với già hóa dân số, 
là một công việc nhiều thách thức đòi hỏi sự 
tham gia của các ngành, các cấp. 
Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã ban 
hành Đề án chăm sóc sức khỏe NCT với 
nhìn nhận một cách toàn diện, tăng cường 
chăm sóc NCT ngay tại cộng đồng. Nếu chỉ 
dựa vào bệnh viện hay nhà dưỡng lão chi 
phí sẽ cao và tốn kém hơn. Người Việt Nam 
có văn hóa gia đình, là việc các thế hệ cùng 
chung sống trong một gia đình được thế giới 
đánh giá là nét văn hóa tốt, là điểm mạnh 
để tiến hành tốt công tác chăm sóc sức khỏe 
cho NCT tại cộng đồng. Bộ Y tế cũng đang 
triển khai mô hình chăm sóc NCT tại cộng 
đồng và khuyến khích các doanh nghiệp và 
tư nhân cùng tham gia.
Một số cuộc hội thảo khoa học cũng đã 
được Bộ Y tế phối hợp với các tổ chức quốc 
tế thực hiện để các nhà hoạch định chính 
sách, nhà quản lý, cộng đồng doanh nghiệp, 
các chuyên gia và nhà khoa học và các đối 
tác cùng nhau chia sẻ, thảo luận về thực 
trạng, thách thức của già hóa dân số. Các 
chuyên gia cũng chia sẻ các kinh nghiệm, 
mô hình, sáng kiến hay trong phát triển kinh 
tế, xây dựng hệ thống an sinh xã hội, chăm 
sóc xã hội và chăm sóc y tế trong bối cảnh 
già hóa dân số để Việt Nam học tập. 
Già hóa dân số đang đặt ra cho Việt 
Nam một số vấn đề về chính sách an sinh xã 
hội dưới đây:
1. Già hoá dân số đối với vấn đề sức 
khỏe, chăm sóc sức khỏe và chăm sóc dài 
hạn cho NCT: Theo thống kê của Liên hợp 
quốc (2018)4, tuổi thọ trung bình của nam 
4 Nguồn: https://danso.org/viet-nam/, tiếp cận ngày 10/1/2019
giới và nữ giới ở Việt Nam tương ứng là 72 
và 81 - những con số ấn tượng trong điều 
kiện một nước có thu nhập trung bình. Tuy 
nhiên, tuổi thọ khỏe mạnh của Việt Nam 
lại khá thấp khi so sánh với các nước có 
cùng chỉ số tuổi thọ khi sinh (như Thái Lan, 
Malaysia). Tỷ lệ NCT tự đánh giá sức khỏe 
tốt hoặc rất tốt còn thấp (chỉ khoảng 5%), 
trong khi có tới hơn 65% cho rằng có sức 
khỏe yếu và rất yếu (TW Hội LHPN Việt 
Nam, 2012) - Hình 2. Gần 44% NCT có 
nhiều hơn một bệnh mạn tính và có sự khác 
biệt rõ rệt về độ tuổi (càng già càng nhiều 
bệnh), giới (phụ nữ có nhiều bệnh hơn nam 
giới), khu vực (NCT nông thôn có tỷ lệ mắc 
bệnh mạn tính cao hơn NCT thành thị) 
(Dũng và Long, 2016). Hệ thống các cơ sở 
chăm sóc sức khỏe cho NCT đã có những 
biến chuyển tích cực nưng chưa thể theo 
kịp nhu cầu KCB của NCT. Các vấn đề liên 
quan tới nhân lực, cơ sở vật chất phục vụ 
dịch vụ lão khoa còn cần phải cải thiện 
(Bộ Y tế và Nhóm đối tác y tế, 2018). 
Cùng lúc đó, NCT Việt Nam cũng đối 
mặt với tình trạng khó khăn trong thực hiện 
các công việc hàng ngày (ADLs – activities 
Hình 2: Tình trạng sức khoẻ do NCT tự 
đánh giá (%)
Nguồn: Điều tra về NCT Việt Nam (VNAS) 
năm 2011
CHÑNH SAÁCH
101Số 2+3(378+379) T1/2019
of daily living). Tỷ lệ NCT đối mặt với việc 
khó khăn có sự khác biệt lớn theo nhóm tuổi 
và giới tính. Điều này đòi hỏi phải có sự 
chăm sóc thường xuyên của gia đình, cộng 
đồng hoặc cơ sở chăm sóc. Một thách thức 
không nhỏ là gia đình NCT đang chuyển 
nhanh từ gia đình truyền thống nhiều thế hệ 
sang gia đình hạt nhân, trong đó tỷ lệ hộ gia 
đình chỉ có vợ chồng NCT sống với nhau 
ngày càng tăng lên và dẫn tới tình trạng 
người già chăm sóc người già. Xét theo khía 
cạnh giới, tỷ lệ phụ nữ cao tuổi sống một 
mình, góa chồng cao hơn nhiều tỷ lệ nam 
giới sống một mình, góa vợ. Sự rủi ro về 
sức khỏe thể chất cũng như tinh thần và khả 
năng tự chăm sóc ngày càng giảm đòi hỏi 
phải có hệ thống chăm sóc dài hạn rộng rãi, 
tốt thì mới đảm bảo chất lượng cuộc sống 
của NCT.
2. Già hoá dân số đối với vấn đề chế 
độ hưu trí và trợ cấp cho NCT: Tỷ lệ NCT 
đang hưởng hưu và trợ cấp xã hội tăng lên 
nhưng vẫn còn thấp. Tỷ lệ “nhóm giữa mất 
tích” (missing middle) (tức là NCT không 
phải giàu, cũng không phải nghèo không 
được hưởng bất kỳ khoản hưu trí hoặc trợ 
cấp nào) chiếm gần 50% NCT (Vụ BHXH, 
Bộ LĐ-TB&XH, 2017) (Hình 3). Mức 
hưởng trợ cấp còn thấp và chậm điều chỉnh 
nên sức mua của khoản trợ cấp giảm đi theo 
thời gian. Tổng lương hưu và trợ cấp của 
NCT chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng thu 
nhập của hộ gia đình cao tuổi. 
Do chính sách an sinh xã hội vẫn còn 
những khoảng trống, tình trạng người lao 
động rút khỏi hệ thống an sinh xã hội gia 
tăng trong thời gian gần đây khiến NCT 
mất cơ hội có lương hưu khi tới độ tuổi quy 
định. Theo Bộ Lao động - Thương binh và 
Xã hội, số lượng người lao động làm thủ 
tục bảo hiểm xã hội (BHXH) hưởng chính 
sách trợ cấp một lần đang gia tăng. Những 
năm gần đây, theo báo cáo thống kê của Cơ 
quan BHXH Việt Nam, bình quân mỗi năm 
có khoảng hơn 600.000 người làm thủ tục 
BHXH một lần. Có nhiều nguyên nhân dẫn 
đến tình trạng này, trong đó phải kể đến điều 
kiện để được hưởng BHXH một lần quá rộng 
rãi (chỉ cần nghỉ việc một năm không tiếp 
tục tham gia BHXH). Mặt khác, điều kiện 
tối thiểu về thời gian đóng BHXH để được 
hưởng lương hưu khá dài (20 năm), làm nản 
lòng một số bộ phận người lao động. Bên 
cạnh đó, tâm lý của người Việt Nam là “trẻ 
Hình 3: Độ bao phủ của hưu trí đối với NCT 
Nguồn: Vụ BHXH, Bộ LĐ-TB&XH (2017)
CHÑNH SAÁCH
102 Số 2+3(378+379) T1/2019
cậy cha, già cậy con” vẫn còn nặng nề, chưa 
hình thành văn hóa đóng - hưởng để tự bảo 
đảm an sinh khi về già. Đời sống người lao 
động nói chung còn khó khăn, nhiều người 
lao động mong muốn có một khoản chi tiêu 
trước mắt (như khám, chữa bệnh, xây nhà).
Theo kết quả báo cáo nghiên cứu do Tổ 
chức Dịch vụ hưu trí toàn cầu Ernst&Young 
phối hợp thực hiện với BHXH Việt Nam 
mới đây, BHXH đang gặp nhiều thách thức 
trước bối cảnh già hóa dân số tại Việt Nam. 
Mức độ cam kết tham gia của người sử 
dụng lao động với chế độ hưu trí nói riêng 
hay chính sách BHXH nói chung của Việt 
Nam còn thấp; tuổi nghỉ hưu thấp nên tỷ lệ 
hưởng lương hưu ở mức tối đa cao và dài. 
Hiện nay, số người được hưởng lương hưu 
mới có khoảng gần 2,3 triệu; số tiền tuyệt 
đối đóng vào quỹ BHXH không cao do tiền 
lương làm căn cứ đóng BHXH chỉ chiếm 
khoảng 60% thu nhập thực tế. Theo BHXH 
Việt Nam, 70% NCT không có tích lũy vật 
chất; 2,3% gặp khó khăn, thiếu thốn; trên 
70% NCT vẫn tự lao động kiếm sống cùng 
với sự hỗ trợ của con cháu và gia đình và chỉ 
có hơn 25,5% sống bằng lương hưu hay trợ 
cấp xã hội. 
Về trợ cấp xã hội, trợ cấp cho NCT 
được thực hiện theo quy định tại Nghị định 
số 136/2013/NĐ-CP với mức trợ cấp thấp 
nhất là 270.000 đồng/tháng. Mức trợ cấp tối 
thiểu này mới chỉ bằng 45% chuẩn nghèo 
chung (lương thực) và bằng khoảng 22% 
chuẩn nghèo phi lương thực. Cùng với sự 
trượt giá của đồng tiền trong thời gian qua, 
sức mua của khoản trợ cấp đối với NCT bị 
giảm đáng kể trong những năm qua: nghiên 
cứu của Bộ LĐ-TB&XH và UNDP (2015) 
cho thấy sức mua của khoản trợ cấp xã hội 
cho NCT đã từ năm 2007 đến năm 2014 đã 
giảm hơn 25%. 
3. Già hoá dân số, lực lượng lao động 
và việc làm của NCT: Thực tế ở một số nước 
có dân số già và rất già (như Nhật Bản, Hàn 
Quốc, Đức, Thái Lan) cho thấy lực lượng 
lao động của các nước này giảm sút mạnh do 
già hóa quá nhanh và dù có lao động nhập cư 
nhưng cũng không đáp ứng được các yêu cầu 
về chuyên môn, kỹ thuật. Vì lý do này mà 
việc duy trì lao động của NCT là một chính 
sách đạt nhiều mục đích, trong đó có duy trì 
thu nhập cho NCT, đảm bảo sự năng động 
về mặt thể chất và trí lực cho NCT để tránh 
những nguy cơ với các bệnh liên quan tới sa 
sút trí tuệ Ở Việt Nam, tính toán của các 
tác giả từ số liệu VHLSS năm 2016 cho thấy 
gần 55% NCT vẫn đang làm việc nhưng hầu 
hết là trong các hoạt động sản xuất nông, lâm, 
ngư nghiệp – những hoạt động nhìn chung có 
mức thu nhập còn thấp và bấp bênh. Tỷ lệ 
hoạt động kinh tế giảm rõ rệt theo độ tuổi. 
NCT ở nông thôn tham gia hoạt động kinh tế 
nhiều hơn đáng kể so với NCT ở thành thị. 
Chính sách tuổi hưu, chính sách dành cho lao 
động cao tuổi cần phải được cải thiện để 
thu hút lực lượng lao động cao tuổi trong nền 
kinh tế, đảm bảo quyền lao động là những 
thách thức không nhỏ với Việt Nam trong 
bối cảnh “cơ cấu dân số vàng” với lực lượng 
lao động tiếp tục tăng trong thời gian tới, 
trong khi “già hóa dân số” khiến lực lượng 
lao động ngày càng già đi.
3. Một số đề xuất cải cách và xây dựng 
chính sách thích ứng già hoá dân số
Từ những phân tích trên, để đạt được 
“già hóa thành công”, chúng tôi đề xuất một 
số khuyến nghị liên quan đến cải cách và 
xây dựng chính sách thích ứng như sau:
Thứ nhất, nâng cao ý thức và hiểu biết 
của các nhà quản lý, hoạch định chính sách 
cũng như của toàn bộ cộng đồng về những 
thách thức của già hóa dân số và đời sống 
của NCT. Thực tế cho thấy, khi thực hiện 
thay đổi chính sách nào, chúng ta cần nâng 
cao nhận thức của các nhà hoạch định chính 
sách và toàn xã hội về vấn đề đó. Do vậy, 
nếu vấn đề già hóa dân số và thực trạng dân 
số cao tuổi không được đánh giá, quan tâm 
sâu sắc thì sẽ không có sự thay đổi các chính 
sách hiện có hoặc đề xuất xây dựng chính 
sách mới phù hợp với xu hướng già hóa và 
thực trạng dân số cao tuổi. Những thách thức 
CHÑNH SAÁCH
103Số 2+3(378+379) T1/2019
mà các quốc gia có dân số già và rất già như 
Nhật Bản, các nước Châu Âu (như Ý, Đan 
Mạch, Phần Lan) là những bài học thực 
tiễn cho Việt Nam, đó là cần phải chuẩn bị 
ngay các chính sách, chương trình hướng tới 
một dân số già nhưng phù hợp với điều kiện 
phát triển kinh tế còn thấp.
Thứ hai, cần giải quyết đồng bộ các 
chính sách tăng trưởng, phát triển kinh tế và 
đảm bảo an sinh xã hội nhằm đảm bảo và 
cải thiện thu nhập của NCT từ lao động và 
hưu trí. Theo đó, phát triển kinh tế phải gắn 
liền với các mục tiêu xã hội và phải được 
coi là chiến lược quan trọng hàng đầu. Để 
làm được điều này, chúng ta phải tận dụng 
tốt cơ hội “dân số vàng” ngay từ hiện tại, 
điều này sẽ giúp dân số già ở nước ta có thu 
nhập và sức khỏe tốt trong tương lai. Nguồn 
thu nhập ổn định nhất của NCT chính là tiền 
lương hưu được hưởng từ việc họ đã đóng 
góp trong suốt thời gian làm việc. Do đó, cần 
phải cải cách hệ thống hưu trí theo một lộ 
trình nhất định nhằm đảm bảo sự công bằng, 
ổn định, phát triển quỹ và phù hợp với tình 
hình phát triển thị trường tài chính. Ngoài 
việc đảm bảo mối quan hệ đóng - hưởng 
sát thực hơn thì việc chuyển đổi cơ chế hoạt 
động của hệ thống hưu trí sẽ góp phần cải 
thiện cân bằng quỹ hưu trí một cách đáng 
kể, đặc biệt việc đầu tư quỹ hưu trí được 
chú trọng và có hiệu quả hơn. Các loại hình 
bảo hiểm cũng cần được đa dạng nhằm tăng 
cường khả năng tiếp cận của các nhóm dân 
số, đặc biệt chú trọng đến mở rộng hệ thống 
bảo hiểm tự nguyện với thiết kế linh hoạt, 
phù hợp với khả năng đóng góp và chi trả 
của đối tượng và có khả năng liên thông với 
các loại hình bảo hiểm khác. Nghị quyết số 
28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần 
thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Khóa 
XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội 
cũng đã thể hiện rõ quan điểm đổi mới là 
“Phát triển hệ thống chính sách bảo hiểm xã 
hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội 
nhập quốc tế; huy động các nguồn lực xã hội 
theo truyền thống tương thân tương ái của 
dân tộc; hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ 
trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh 
tế - xã hội; kết hợp hài hoà các nguyên tắc 
đóng - hưởng; công bằng, bình đẳng; chia sẻ 
và bền vững.” 
Bên cạnh đó, Chính phủ cần triển khai 
các chương trình thu hút NCT tham gia hoạt 
động kinh tế, đặc biệt với các ngành, lĩnh 
vực mà đào tạo thông qua thực hành là chủ 
yếu nhằm tiết kiệm được một nguồn lực lớn 
cho đào tạo.
Trợ cấp xã hội cho nhóm NCT có điều 
kiện khó khăn cũng cần được mở rộng và 
tiến tới một hệ thống phổ cập cho mọi NCT, 
đặc biệt, cần chú trọng hỗ trợ NCT ở nông 
thôn, vùng sâu, vùng xa và phụ nữ cao tuổi. 
Mức hưởng và cách thức trợ cấp cần được 
xem xét cho phù hợp với điều kiện sống và 
sức khỏe của NCT. Việc xác định đối tượng 
cần phải cải cách để tránh sai sót trong lập 
hồ sơ và phê duyệt đối tượng được hưởng.
Thứ ba, tăng cường chăm sóc sức khỏe, 
xây dựng và mở rộng các dịch vụ chăm sóc 
NCT với sự tham gia tích cực, chủ động của 
mọi thành phần xã hội và nâng cao năng lực 
quốc gia về chăm sóc NCT. Trong đó, công 
tác truyền thông giáo dục sức khỏe và nâng 
cao nhận thức, ý thức về sức khỏe cho mọi 
lứa tuổi để chuẩn bị cho một tuổi già khỏe 
mạnh, tránh bệnh tật, thương tật và tàn phế. 
Bộ Y tế cần chú trọng đến việc quản lý và 
kiểm soát các bệnh mạn tính (đặc biệt như 
tim mạch, tăng huyết áp, thoái khớp, tiểu 
đường, ung thư) cùng với việc ứng dụng 
các kỹ thuật mới trong chẩn đoán và điều trị 
sớm, điều trị lâu dài các bệnh mạn tính; cần 
tạo ra môi trường sống thân thiện cho NCT. 
Đặc biệt, phải có một chương trình mục tiêu 
quốc gia toàn diện về chăm sóc NCT mà 
trong đó cần xác định một số mục tiêu lượng 
hoá được và có tính đặc trưng giới để cải 
thiện tình trạng sức khỏe NCT, giảm thiểu 
các bệnh mạn tính, tàn phế và tử vong khi 
bước vào tuổi già. Bên cạnh đó, xây dựng 
và củng cố mạng lưới chăm sóc dài hạn cho 
NCT, trong đó chăm sóc tại nhà và cộng 
đồng cần được chú trọng.
CHÑNH SAÁCH
104 Số 2+3(378+379) T1/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. UNFPA (Quỹ Dân số Liên hợp quốc). 2011. “Già hóa dân số và NCT ở Việt Nam: Thực trạng, dự báo và một 
số khuyến nghị chính sách”. Hà Nội: Quỹ Dân số LHQ.
2. Bộ Y tế và Nhóm đối tác y tế. 2018. “Báo cáo chung tổng quan ngành Y tế 2016: Hướng tới già hóa khỏe 
mạnh”. Hà Nội: Nhà xuất bản Y học.
3. Le Duc Dung and Giang Thanh Long. 2016. “Gender differences in prevalence and associated factors of 
multi-morbidity among older persons in Vietnam”, International Journal on Ageing in Developing Countries, 
1(2): 113-132.
4. TW Hội LHPN Việt Nam. 2012. “Điều tra về NCT Việt Nam 2011: Những kết quả chủ yếu”. Hà Nội: NXB 
Phụ nữ.
5. Tổng cục Thống kê. 2016. “Dự báo dân số Việt Nam, giai đoạn 2014-2049”. Hà Nội: Tổng cục Thống kê.
6. WHO (Tổ chức Y tế Thế giới). 2015. “World Report on Ageing and Health 2015”. Geneva: WHO.
7. WHO. 2018. “Global Health Observatory (GHO) Data – Life Expectancy”. Truy cập https://www.who.int/
gho/mortality_burden_disease/life_tables/situation_trends/en/ ngày 30/11/2018
8. Ronald Lee, Andrew Mason và Daniel Cotlear. 2010. “Some Economic Consequences of Global Aging – A 
Discussion Note for the World Bank”. Washington D.C: World Bank.
9. Vụ BHXH, Bộ LĐ-TB&XH. 2017. “Tình hình thực hiện BHXH ở Việt Nam”. Báo cáo trong Hội thảo Bộ 
LĐ-TB&XH và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về tình hình bao phủ hệ thống BHXH ở Việt Nam, tháng 
11/2017. 
10. Bộ LĐ-TB&XH và UNDP. 2015. “Báo cáo hỗ trợ kỹ thuật cho Đề án đổi mới hệ thống trợ giúp xã hội”. Dự 
án Đổi mới hệ thống trợ giúp xã hội (SAP).
11. Giang Thanh Long. 2018. “Aging and Pension Reforms in Vietnam”. Bài giảng cho khóa học The Pension 
Electives Course tại Trung tâm Đào tạo Quốc tế của Tổ chức Lao động Quốc tế (ITCILO), ngày 20/9/2018 
ở Turin, Ý.
Thứ tư, tăng cường vai trò của các tổ 
chức chính trị - xã hội, chính trị - xã hội - 
nghề nghiệp trong việc xây dựng, vận động 
và thực hiện chính sách cho già hóa dân số 
và NCT. Các hoạt động vận động gia đình, 
cộng đồng và toàn xã hội tham gia chăm sóc 
NCT cần được thúc đẩy và nhân rộng; cần 
kết hợp với các cơ quan chuyên môn trong 
nghiên cứu và đề xuất việc đa dạng hóa cách 
thức, mô hình tổ chức cuộc sống cho NCT 
như sống cùng con cháu, sống tại nhà dưỡng 
lão hoặc tại các cơ sở chăm sóc NCT tại 
cộng đồng Tổ chức các hoạt động cộng 
đồng cho NCT một cách thường xuyên 
nhằm nâng cao hiểu biết và đóng góp ý kiến 
của NCT với các chính sách của nhà nước 
cũng như đời sống của cộng đồng.
Thứ năm, cần phải xây dựng được cơ 
sở dữ liệu có tính đại diện quốc gia và thực 
hiện các nghiên cứu toàn diện về dân số cao 
tuổi. Đây sẽ là những đầu vào quan trọng 
cho việc đề xuất các chính sách, chương 
trình can thiệp thiết thực, có trọng tâm và 
hiệu quả; cần khắc phục sự kết nối lỏng 
lẻo giữa nghiên cứu và chính sách vì đây là 
điểm yếu nhất khi bàn đến già hóa dân số và 
dân số cao tuổi ở Việt Nam và là một nguyên 
nhân khiến cho việc bàn luận các chính sách 
cho NCT vẫn còn hời hợt và hầu hết NCT 
được xem là gánh nặng cần phải giải quyết 
thay vì coi họ là những người có đóng góp 
lớn cho nền kinh tế và gia đình thông qua 
các hoạt động kinh tế và xã hội■
CHÑNH SAÁCH
105Số 2+3(378+379) T1/2019

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_an_sinh_xa_hoi_doi_voi_xu_huong_gia_hoa_dan_so_o.pdf