Chính phủ điện tử và quản trị nhà nước hiện đại

Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về

chính phủ điện tử. Có thể khái quát lại những

điểm chung nhất của các quan niệm này về chính

phủ điện tử là việc sử dụng một cách rộng rãi

công nghệ thông tin và đặc biệt là Internet, để cải

thiện việc cung cấp dịch vụ của chính phủ (và

rộng hơn là của cả bộ máy nhà nước) tới công

dân, doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước

khác. Chính phủ điện tử là chính phủ ứng dụng

công nghệ thông tin để đổi mới tổ chức, đổi mới

quy trình, giúp cho các cơ quan nhà nước làm

việc có hiệu quả, hiệu lực và minh bạch hơn,

cung cấp thông tin, dịch vụ nhanh và tốt hơn cho

người dân, doanh nghiệp và các tổ chức, tạo điều

kiện thuận lợi hơn cho người dân thực hành dân

chủ và tham gia quản lý nhà nước.

pdf 10 trang kimcuc 5780
Bạn đang xem tài liệu "Chính phủ điện tử và quản trị nhà nước hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính phủ điện tử và quản trị nhà nước hiện đại

Chính phủ điện tử và quản trị nhà nước hiện đại
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 42-51 
42 
Review Article 
E-government and State Governance in the Morden Time 
Vu Cong Giao1,* Nguyen Van Quan2 
VNU, School of Law, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
Received 01 March 2019 
Revised 12 March 2019; Accepted 19 September 2019 
Abstract: Currently, e-government is one of the important tools to improve the efficiency of state 
management and the quality of public services. E-government applications contribute to meeting the 
requirements of modern governance, such as publicity, transparency, accountability, timeliness of 
public administration and citizen participation. Therefore, e-government is being developed and 
applied by various countries in the world including Vietnam. 
Keywords: E-government, Digital Government, Open Government, Governance, State Governance. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: giaovnu@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4202 
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 42-51 
43 
Chính phủ điện tử và quản trị nhà nước hiện đại1 
Vũ Công Giao1,*, Nguyễn Văn Quân2 
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 01 tháng 3 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 12 tháng 3 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 9 năm 2019 
Tóm tắt: Hiện nay, chính phủ điện tử là một trong những công cụ quan trọng để nâng cao hiệu quả 
quản lý nhà nước và chất lượng dịch vụ công. Ứng dụng chính phủ điện tử góp phần đáp ứng các 
đòi hỏi của quản trị nhà nước hiện đại, như công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, tính kịp 
thời của hoạt động công quyền và sự tham gia của người dân. Chính vì vậy, chính phủ điện tử đang 
được các quốc gia, trong đó có Việt Nam, tích cực triển khai xây dựng và áp dụng trong thực tế. 
Từ khóa: Chính phủ điện tử, chính phủ số, chính phủ mở, quản trị, quản trị nhà nước. 
Dẫn nhập * 
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về 
chính phủ điện tử. Có thể khái quát lại những 
điểm chung nhất của các quan niệm này về chính 
phủ điện tử là việc sử dụng một cách rộng rãi 
công nghệ thông tin và đặc biệt là Internet, để cải 
thiện việc cung cấp dịch vụ của chính phủ (và 
rộng hơn là của cả bộ máy nhà nước) tới công 
dân, doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước 
khác. Chính phủ điện tử là chính phủ ứng dụng 
công nghệ thông tin để đổi mới tổ chức, đổi mới 
quy trình, giúp cho các cơ quan nhà nước làm 
việc có hiệu quả, hiệu lực và minh bạch hơn, 
cung cấp thông tin, dịch vụ nhanh và tốt hơn cho 
________ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: giaovnu@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4202 
người dân, doanh nghiệp và các tổ chức, tạo điều 
kiện thuận lợi hơn cho người dân thực hành dân 
chủ và tham gia quản lý nhà nước. 
 1Theo định nghĩa đơn giản nhất, chính phủ 
điện tử đề cập đến việc sử dụng các công nghệ 
kỹ thuật số để chuyển đổi các hoạt động của bộ 
máy nhà nước, trong đó trọng tâm là của hệ 
thống cơ quan hành pháp, nhằm cải thiện hiệu 
quả, hiệu quả và cung cấp dịch vụ công. Theo đó, 
càng có nhiều dịch vụ trực tuyến thì việc sử dụng 
chúng càng phổ biến và tác động của chính phủ 
điện tử càng lớn. Ngoài ra, mạng Internet, điện 
thoại di động mang lại một kênh thuận tiện hơn 
để cung cấp thông tin của chính quyền. Bằng 
1 Bài viết này được sửa đổi, bổ sung từ bài viết đã 
được các tác giả trình bày và in trong Kỷ yếu Hội thảo 
“Chính phủ mở, Chính phủ điện tử và quản trị nhà 
nước hiện đại”, tổ chức bởi Khoa Luật ĐHQG Hà Nội 
ngày 15/01/2019. 
V.C. Giao, N.V. Quan / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 42-51 
44 
cách sử dụng tin nhắn văn bản "text-messaging", 
các cơ quan nhà nước có thể gửi cảnh báo khẩn 
cấp, cung cấp ngay lập tức thông tin theo yêu cầu 
và giúp công chúng tiếp cận được với chính 
quyền ở mọi nơi và mọi lúc. 
Chính phủ điện tử là một trong những xu 
hướng mới nhất của cải cách hành chính, cải 
cách quản trị nhà nước trong bối cảnh bùng nổ 
công nghệ thông tin. Có thể khái quát về các giai 
đoạn cải cách hành chính như sau: 
TT Tên gọi Giai đoạn Đặc trưng cơ bản 
1 Mô hình 
quan liêu 
(mô hình 
thư lại) 
Trước năm 
1980 
Chuyên quyền, cứng 
nhắc 
2 Quản trị 
nhà nước 
mới 
Từ 1980 Áp dụng các phương 
thức của doanh 
nghiệp; định hướng 
theo kết quả 
3 Chính phủ 
điện tử 
Từ giữa 1990 Lấy công dân làm 
trung tâm; đề cao 
trách nhiệm của 
chính quyền 
Chính phủ điện tử và quản trị nhà nước có 
những mối liên hệ chặt chẽ. Theo đó, chính phủ 
điện tử là một trong những công cụ cần thiết và 
hữu hiệu để thực hiện quản trị nhà nước trong bối 
cảnh mới (kỷ nguyên số và toàn cầu hoá) và rộng 
hơn là quản trị nhà nước hiện đại trước những 
thách thức của thế kỷ XXI. 
1. Khái lược về quản trị nhà nước hiện đại 
Thuật ngữ quản trị (tiếng Anh: governance) 
có nguồn gốc từ tiếng Hi lạp cổ là “kubernân”, 
dùng để chỉ việc điều khiển một con tàu hoặc một 
cỗ xe [2]. Trong những thập kỷ gần đây, 
________ 
2 Quản trị doanh nghiệp đề cập đến cách thức tổ chức, 
quản lý, thực hiện các hoạt động trong nội bộ của một 
doanh nghiệp. Về cooperate governance, ví dụ, xem 
OECD (2004), Principles of Corporate Governance, tại 
nceprinciples/31557724.pdf 
3 Quản trị quốc tế đề cập đến hoạt động của các tổ chức 
quốc tế và các quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề 
governance là thuật ngữ được sử dụng phổ biến 
bởi các tổ chức quốc tế. 
Theo Ngân hàng thế giới (WB), governance 
là “ cách thức mà quyền lực được thực thi 
thông qua các thể chế chính trị, kinh tế, xã hội 
của một quốc gia” [6]. Còn theo Chương trình 
phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), governance 
là “việc thực thi quyền lực chính trị, hành chính, 
kinh tế để quản lý các vấn đề của quốc gia ở mọi 
cấp độ”[21]. Ngân hàng phát triển châu Á 
(ADB), thì cho rằng, governance là “cách thức 
mà nhờ đó quyền lực được thực hiện để quản lý 
các nguồn lực kinh tế, xã hội cho sự phát triển 
của một quốc gia là môi trường thể chế mà ở 
đó các công dân tương tác với nhau và với các 
cơ quan, quan chức nhà nước”[1]. 
Như vậy, về bản chất, có thể thấy 
governance chính là quá trình ra quyết định và tổ 
chức thực hiện quyết định để quản lý, giải quyết 
các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội ở một quốc 
gia [5]. Thuật ngữ này chủ yếu gắn với tổ chức 
và hoạt động của bộ máy nhà nước (quản trị nhà 
nước hay quản trị công), mặc dù trong thực tế, 
khái niệm này cũng được sử dụng trong một số 
bối cảnh khác, chẳng hạn như quản trị doanh 
nghiệp (corporate governance)2, quản trị quốc tế 
(international governance)...3. 
Quản trị nhà nước hiện đại đánh dấu bước 
chuyển dịch từ cai trị (government) sang quản trị 
(governance). Khái niệm cai trị hàm ý cách quản 
lý xã hội mà trong đó chính quyền độc quyền 
thực hiện các hoạt động quản lý xã hội và có xu 
hướng lạm dụng quyền lực trong hoạt động này. 
Ngược lại, khái niệm quản trị hàm ý chính quyền 
chỉ là một chủ thể đóng vai trò dẫn dắt, tạo lập 
các điều kiện và quy tắc cho việc tham gia quản 
lý xã hội của nhiều chủ thể, bao gồm các chủ thể 
bên ngoài bộ máy nhà nước [14]. Dưới góc độ 
quản trị, quyền lực nhà nước không chỉ được 
toàn cầu như biến đổi khí hậu, xung đột, tranh chấp lãnh 
thổ, chống khủng bốVề international governance, ví 
dụ, xem trang web của ChathamHouse, tại: 
https://www.chathamhouse.org/research/topics/inter
national-law-and-governance/international-
governance. 
V.C. Giao, N.V. Quan / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 42-51 45 
thực hiện thông qua cưỡng chế, mệnh lệnh, kế 
hoạch mà có thể được thực hiện thông qua quan 
hệ đối tác, mạng lưới [12], hay nói cách khác là 
quan hệ hợp tác, bổ trợ giữa công và tư, công 
bằng và dân chủ [13]. Điều đó không có nghĩa là 
nhà nước mất đi hoặc phải “hy sinh” vai trò của 
mình trong quản lý xã hội mà chỉ là nhà nước 
phải loại trừ các hành động chuyên chế, độc 
đoán, tăng cường các hành động tổ chức, kiến 
tạo, dựa trên sự kết nối chặt chẽ với người dân, 
doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. 
Yêu cầu tiếp theo trong quản trị nhà nước hiện 
đại đó là phải bảo đảm tính tự chủ của các chủ thể 
tham gia hoạt động quản lý, đặc biệt là của chính 
quyền địa phương. Sự phân cấp, phân quyền trong 
quản trị nhà nước hiện đại không triệt tiêu vị trí, 
vai trò của chính quyền trung ương, mà chỉ sắp 
đặt lại vị trí, vai trò đó một cách phù hợp hơn trong 
mô hình quản trị mới theo kiểu mạng lưới, mà ở 
đó chính quyền trung ương đứng ở giữa thực hiện 
các hoạt động điều phối, kiến tạo, dẫn dắt. 
Một yêu cầu nữa đặt ra với quản trị nhà nước 
hiện đại đó là cách thức sử dụng quyền lực. Nếu 
như trong mô hình quản trị truyền thống, quyền 
lực được sử dụng chủ yếu là quyền lực cứng 
(hard power) thì trong quản trị nhà nước hiện 
đại, quyền lực quan trọng nhất là quyền lực mềm 
(soft power). Hiểu theo góc độ quản trị nhà nước, 
quyền lực cứng chính là sức mạnh dựa trên bộ 
máy cưỡng chế của nhà nước (quân đội, cảnh sát, 
toà án, nhà tù..), còn quyền lực mềm thể hiện ở 
uy tín, năng lực, hiệu quả, tính dân chủ, liêm 
chính, công minh của bộ máy công quyền. 
Ngoài các yêu cầu cơ bản nêu trên, có tác giả 
cho rằng quản trị nhà nước hiện đại phải đáp ứng 
những yêu cầu sau: Thứ nhất, phẳng hơn 
(flatter), thể hiện ở việc thu hẹp khoảng cách 
công dân và chính quyền bằng truyền thông, 
công nghệ thông tin; giảm tầng nấc trong hệ 
thống quản trị để hiệu quả hơn; cung cấp thông 
tin cho việc ra quyết định, phối hợp, hợp tác 
trong hành pháp; hình thành mạng lưới hợp tác 
giữa khối công và tư. Thứ hai, nhanh hơn 
(agile), thể hiện ở việc thay đổi và thích nghi, đặc 
________ 
4 Đỗ Minh Khôi, “Quản trị nhà nước hiện đại”, tài 
liệu đã dẫn. 
biệt trong tái cấu trúc bộ máy. Thứ ba, sắp xếp 
hợp lý (streamlined), thể hiện ở việc xác định 
đúng chức năng nhiệm vụ; bộ máy, tinh giản 
nhưng không giảm dịch vụ. Thứ tư, hiểu biết và 
thích nghi với công nghệ (tech-enabled and tech 
savvy), thể hiện ở việc tái thiết kế bộ máy phù 
hợp với mạng lưới và công nghệ [7]. 
Từ một góc nhìn khác, Liên hợp quốc cho 
rằng quản trị nhà nước hiện đại phải mang những 
dấu hiệu sau đây: (1) thể chế quản trị mạnh và 
pháp quyền; (2) tư pháp tin cậy và độc lập; (3) 
khung khổ pháp lý hiệu quả cho hoạt động kinh 
tế; (4) môi trường kinh tế mở và cạnh tranh; (5) 
ổn định giá cả và trách nhiệm tài chính; (6) hệ 
thống thuế công bằng; (7) phát triển sự cạnh 
tranh trong thị trường tài chính, lao động và vốn; 
(8) năng lực quản lý và thực thi pháp luật, tư 
nhân hoá, nguồn lực ngoài hợp lý cho khối tư; 
(9) quan hệ đối tác khu vực cộng và tư trong việc 
thúc đẩy kinh doanh, nhấn mạnh các doanh 
nghiệp nhỏ và vừa; (10) tự do tiếp cận thông tin; 
(11) thúc đẩy phát triển công nghệ và cơ sở hạ 
tầng [19]. 
Tóm lại, quản trị nhà nước hiện đại có những 
thay đổi lớn so với mô hình quản trị truyền 
thống. Những thay đổi đó nhằm đáp ứng các yêu 
cầu bắt nguồn từ tính chất dân chủ, đa dạng của 
xã hội hiện đại. Những đặc điểm cơ bản nhất của 
quản trị nhà nước hiện đại là: (1) vai trò chủ yếu 
là điều tiết của nhà nước; (2) quản trị trên nền 
tảng pháp quyền; (3) quản trị hướng tới mục đính 
bảo đảm quyền cá nhân và dân chủ, đa dạng về 
mô hình dân chủ; (4) quản trị đa tầng, đa chủ thể, 
phi tập trung và mạng lưới; (5) quản trị hợp tác, 
chia sẻ trách nhiệm hơn là cai trị4. Đây là những 
đặc điểm sẽ chi phối tất cả các quốc gia trên thế 
giới trong thế kỷ XXI. 
Trong khoảng vài thập kỷ gần đây, cùng với 
khái niệm quản trị, khái niệm quản trị tốt (good 
governance) cũng được đề cập đến ngày càng 
nhiều. Theo UNDP: “Quản trị tốt nói đến các hệ 
thống quản lý có năng lực, kịp thời, toàn diện và 
minh bạch...”5 . Theo Ngân hàng thế giới thì: 
“Quản trị tốt là tập hợp các thể chế minh bạch, 
5 Remarks by Helen Clark, Administrator of the 
United Nations Development Programme, at the 
Fourth United Nations Conference on the Least 
V.C. Giao, N.V. Quan / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 42-51 
46 
có trách nhiệm giải trình, có năng lực và kỹ năng, 
cùng với ý chí quyết tâm làm những điều tốt 
đẹpTất cả giúp cho một nhà nước cung cấp 
những dịch vụ công cho người dân một cách hiệu 
quả’6. Còn theo cơ quan Cao uỷ nhân quyền Liên 
Hợp Quốc: “quản trị tốt liên quan đến các tiến 
trình và kết quả chính trị và thể chế mà cần thiết 
để đạt được các mục tiêu phát triển. Đó là một 
tiến trình mà các cơ quan công quyền giải quyết 
các vấn đề công cộng, quản lý các nguồn lực 
công và bảo đảm việc thực hiện các quyền con 
người theo cách thức hoàn toàn không có sự 
tham nhũng và lạm dụng và thực sự tuân thủ 
nguyên tắc pháp quyền. Tuỳ thuộc vào bối 
cảnh và mục đích sử dụng, thuật ngữ quản trị tốt 
có thể được dùng để nói đến các vấn đề như: tôn 
trọng đầy đủ các quyền con người (full respect 
of human rights); nguyên tắc pháp quyền (the 
rule of law), sự tham gia hiệu quả [của người 
dân] (effective participation), sự cộng tác của 
nhiều chủ thể (multi-actor partnerships), chính 
trị cạnh tranh (political pluralism), các tiến trình 
và thể chế minh bạch và có trách nhiệm giải trình 
(transparent and accountable processes and 
institutions), khu vực công hiệu lực, hiệu quả 
(efficient and effective public sector), tính hợp 
pháp (legitimacy), tiếp cận với kiến thức, thông 
tin và giáo dục (access to knowledge, 
information and education), trao quyền chính trị 
của người dân (political empowerment of 
people), sự công bình (equity), sự ổn định 
(sustainability), thái độ và các giá trị giúp thúc 
đẩy trách nhiệm, sự đoàn kết và sự khoan dung 
(attitudes and values that foster responsibility, 
solidarity and tolerance)7. 
Những định nghĩa nêu trên cho thấy những 
quan điểm rộng, hẹp khác nhau về nội hàm của 
quản trị tốt. Tuy nhiên, nhìn chung có thể thấy 
sự đồng thuận về một số đặc trưng chủ yếu. Theo 
________ 
Developed Countries High Level Interactive 
Thematic Debate on Good Governance at All Levels, 
Istanbul, 11 May 2011. 
6 Paul Wolfowitz, World Bank President, Jakarta, 11 
April 2006. Nguồn: World Bank, Strengthening the 
World Bank Group Engagement on Governance and 
Anticorruption, 21 March 2007, tr. 1. 
một tài liệu của Liên Hợp Quốc, những đặc trưng 
chính (major characteristics)8 của quản trị tốt 
bao gồm [5]: Sự tham gia (participatory) của 
người dân, định hướng đồng thuận (consensus 
oriented), trách nhiệm giải trình (accountable), 
sự minh bạch (transparent), sự kịp thời 
(responsive), tính hiệu lực (effective), tính hiệu 
quả (efficient), tính bình đẳng và không loại trừ 
chủ thể nào (equitable and inclusive) và tuân thủ 
pháp quyền (follows the rule of law) [20]. 
Tóm lại, xét tổng thể, từ những phân tích ở 
trên, có thể hiểu quản trị tốt là một tập hợp những 
tiêu chí về quản lý xã hội nhằm hướng đến mục 
tiêu thúc đẩy, bảo đảm sự phát triển hài hoà, bền 
vững của một quốc gia [5]. Cũng từ những phân 
tích ở trên, có thể khẳng định quản trị tốt không 
phải là một phương thức hay mô hình tổ chức, 
hoạt động của một nhà nước hay một hệ thống 
chính trị, mà là các nguyên tắc định hướng cho 
việc thiết kế và vận hành bộ máy n ...  này của quản trị điện tử 
tương ứng với 3 tương tác điển hình cho quá 
trình quản trị: G2C (‘Government to Citizens’ - 
giữa chính phủ và công dân), G2B (‘Government 
to Business’ - giữa chính phủ và các doanh 
nghiệp) và cuối cùng là G2G (‘Government to 
Government’ - giữa các bộ phận khác nhau của 
chính quyền). 
Nhiều nghiên cứu cũng chứng minh rằng, 
chính phủ điện tử góp phần thúc đẩy quản trị tốt 
[17]. Theo đó, chính phủ điện tử không chỉ thúc 
đẩy sự linh hoạt và nhanh nhạy của các thiết chế 
công quyền trong việc đáp ứng các nhu cầu ngày 
càng cao và khắt khe của công dân, mà còn góp 
phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của chính quyền. 
Thông qua việc khảo sát và nghiên cứu 12 dự 
án chính phủ điện tử ở các nước đang phát triển. 
Bhatnagar [4] chứng minh rằng các dự án này 
góp phần cải thiện quản trị bằng cách tăng tính 
minh bạch, giảm tham nhũng, chi phí giao dịch 
và cải thiện chất lượng dịch vụ. Điều này góp 
phần khẳng định giả thiết của Richard Heeks[9] 
________ 
9 Xem: https://www.itu.int/ITU-D/cyb/app/docs/e-
gov_for_dev_countries-report.pdf, truy cập ngày 
18/12/2018. 
rằng, quản trị điện tử và chính phủ điện tử là một 
cách tốt để đạt được quản trị tốt và công nghệ 
thông tin đóng vai trò quan trọng để củng cố 
quản trị tốt. 
Tuy nhiên, một số không ít hệ thống chính 
phủ điện tử được triển khai tại các nước đang 
phát triển không cải thiện được năng quản trị vì 
những lý do khác nhau. Theo Guida và Crow 
[11], điều này có thể được giải thích bởi một số 
lý do sau đây: 
- Sử dụng các công cụ, kỹ thuật và công nghệ 
không phù hợp; 
- Thiếu vắng sự kết nối, liên hệ giữa các nhà 
tài trợ quốc tế, các cơ quan tài trợ dự án và người 
thụ hưởng dự án trên thực tế; 
- Chính quyền các nước này sử dụng quá 
mức các phương pháp tiếp cận từ trên xuống 
“top-down” mà không tính đến nhu cầu của 
người dùng. 
Đồng thời, Guida và Crow đã liệt kê các yếu 
tố về mặt quản trị khác khiến cho các đề án chính 
phủ điện tử thất bại. Có thể kể ra một số yếu tố 
như thiếu minh bạch, thiếu sự tham gia của công 
dân, sự chống đối của bộ máy quan liêu, tham 
nhũng, môi trường chính trị và quy định pháp lý 
lạc hậu và nguồn nhân lực không có kỹ năng. 
Dễ dàng nhận thấy những lợi ích mà chính 
phủ điện tử mang lại cho quản lý nhà nước cũng 
như thuận lợi cho người dân. Nhưng việc áp 
dụng chính phủ điện tử cũng gặp phải những rào 
cản nhất định tại một số quốc gia, đặc biệt là tại 
các nước đang phát triển. 
Báo cáo của Liên minh Viễn thông Quốc tế 
(ITU) năm 2008 về chính phủ điện tử cho các 
nước đang phát triển (Electronic Government 
for Developing Countries9) chỉ ra rằng, việc sử 
dụng hiệu quả công nghệ thông tin để phục vụ 
công dân một cách trực tuyến là một thách thức 
lớn đối với nhiều quốc gia, đặc biệt là đối với 
các nước đang phát triển. Tại các nước này, 
chính quyền phải đối mặt với nhiều bất ổn và 
rủi ro trong việc phát triển và cung cấp dịch vụ 
chính phủ điện tử. Điều này xuất phát từ sự 
V.C. Giao, N.V. Quan / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 42-51 49 
phức tạp của công nghệ, các quy trình tổ chức 
rườm rà, cũng như sự khác biệt rất lớn về thái 
độ của mọi người đối với công nghệ và sự thay 
đổi nói chung. 
Chính phủ điện tử không chỉ đơn thuần đòi 
hỏi bí quyết về công nghệ để phát triển và vận 
hành thành công các dịch vụ trực tuyến, mà hơn 
thế cần phải có chiến lược để tổ chức và sắp xếp 
các nguồn lực cụ thể như máy tính và mạng 
internet, và các nguồn lực vô hình như năng lực 
của nhân viên, quy trình tổ chức và quản lý 
Theo Nagy Hanna, sự thành công của chính 
quyền trong các đề án về chính phủ điện tử phụ 
thuộc vào 2 yếu tố cơ bản [8]: 
Thứ nhất, phải có một lượng lớn công dân có 
khả năng và sẵn sàng chấp nhận và sử dụng các 
dịch vụ trực tuyến; 
Thứ hai, chính quyền có khả năng về mặt kỹ 
thuật và quản lý để triển khai các ứng dụng công 
nghệ tiên tiến. 
4. Liên hệ với Việt Nam 
Theo đánh giá của Liên Hợp Quốc, Việt 
Nam xếp hạng 88/193 quốc gia, vùng lãnh thổ về 
Chính phủ điện tử và đứng thứ 6 trong khu vực 
ASEAN, sau Singapore, Malaysia, Brunei, Thái 
Lan và Philippines [15]. Xếp hạng này còn thấp 
so với mong muốn và điều đó càng thúc đẩy 
quyết tâm mạnh mẽ hơn trong xây dựng Chính 
phủ điện tử tại Việt Nam. 
Nhận thức được những lợi ích của chính phủ 
điện tử, từ năm 2015, Chính phủ đã ban hành 
Nghị quyết 36A về xây dựng chính phủ điện tử. 
Trong đó, nhiệm vụ xây dựng hệ thống thông tin 
điện tử thông suốt, kết nối liên thông văn bản 
điện tử, dữ liệu điện tử Chính phủ đến cấp tỉnh, 
cấp huyện, cấp xã; 100% dịch vụ công được 
cung cấp trực tuyến; xây dựng Cổng dịch vụ 
công quốc gia tại địa chỉ duy nhất trên Internet là 
những nội dung trọng yếu. Đây được xem là 
quyết tâm để thực hiện bằng được chính phủ điện 
tử, nhằm cải cách thủ tục hành chính, đem lại 
những lợi ích thiết thực cho người dân và cộng 
đồng doanh nghiệp Việt Nam. 
Thực tế trong thời gian qua, nhiều bộ ngành, 
địa phương và cấp chính quyền đã thể hiện rõ nỗ 
lực cũng như quyết tâm phát triển ứng dụng 
CNTT nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý 
và phục vụ dân sinh. Theo số liệu của Bộ Thông 
tin và Truyền thông về mức độ ứng dụng CNTT 
tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương năm 
2016 cho thấy, về cơ bản, hạ tầng kỹ thuật CNTT 
của các thành phố trực thuộc trung ương đã đáp 
ứng được yêu cầu cho việc ứng dụng CNTT 
trong công việc của địa phương và đội ngũ cán 
bộ công chức [16]: Các thành phố trực thuộc 
trung ương đã xây dựng mạng diện rộng (WAN). 
Tỷ lệ các cơ quan được kết nối vào mạng WAN 
đối với các cơ quan chuyên môn là 100%, đã có 
100% các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực 
thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực 
thuộc trung ương có trang hoặc cổng thông tin 
điện tử, đáp ứng nhu cầu tuyên truyền, quản lý, 
điều hành của các cơ quan nhà nước, nhu cầu tìm 
hiểu, tra cứu, khai thác thông tin của người dân 
và doanh nghiệp [16]. Có thể kể ra một số dịch 
vụ hành chính công đã được cung cấp trực tuyến 
hiện nay đã được triển khai tại một số địa phương 
như đăng ký khai sinh, cấp mới, cấp lại, cấp đổi 
hộ chiếu, đăng ký xe ô tô qua mạng, v.v.. 
Tuy nhiên, thực tế, xây dựng và vận hành 
chính quyền điện tử tại Việt Nam gặp phải một 
số thách thức như sau: 
Nhận thức hiểu biết về công nghệ thông tin 
và kỹ thuật số: Để vận hành chính phủ điện tử 
thì bản thân cán bộ, công chức trong các cơ 
quan hành chínhh nhà nước phải nhận thức 
đúng và hiểu được tầm quan trọng của chính 
phủ điện tử trong cải cách hành chính. Hiện tại, 
không ít cán bộ, công chức còn nhận thức một 
cách đơn giản rằng, chính phủ điện tử là thông 
tin, truyền thông về hoạt động của Chính phủ 
nói riêng và chính quyền nói chung. Thực tế, 
chính phủ điện tử chính là việc sử dụng CNTT 
làm công cụ đặc lực trong việc phục vụ người 
dân, đơn giản hoá một số hoạt động của công 
quyền. Các cải cách như mô hình thủ tục một 
cửa online sẽ mang lại lợi ích không chỉ cho 
người dân mà cả cho chính quyền. 
- Khó khăn còn đến từ nhận thức của người 
dân: Người dân không sử dụng chính phủ điện tử 
vì không quen sử dụng công nghệ thông tin và 
truyền thông, thiếu truy cập, thiếu đào tạo về 
V.C. Giao, N.V. Quan / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 42-51 
50 
công nghệ cũng như lo lắng về sự riêng tư và tính 
bảo mật của thông tin. 
- Khó khăn về cơ sở hạ tầng: Đây không phải 
là khó khăn của riêng Việt Nam mà của đa số các 
ước đang phát triển trong ứng dụng chính phủ 
điện tử. Đầu tư cho chính phủ điện tử đòi hỏi chi 
phí tài chính lớn cũng như cả đầu tư về nguồn 
lực con người (đào tạo về công nghệ thông tin 
cho cán bộ, công chức). Ở nước ta, hạ tầng kỹ 
thuật CNTT trong hệ thống cơ quan nhà nước 
tuy đã được cải thiện đáng kể trong thời gian 
qua, tạo nền tảng cho trển khai thành công một 
số ứng dụng CNTT, nhưng vẫn chưa đáp ứng 
nhu cầu thực tế. Chưa kể, hạ tầng bảo đảm an 
toàn, bảo mật thông tin hầu như chưa đáng ứng 
được nhu cầu [16]. 
Xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số 
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước là một 
đòi hỏi cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. Xuất 
phát từ những thách thức và hạn chế của xây 
dựng và vận hành chính phủ điện tử ở Việt Nam 
trong thời gian vừa qua, chúng tôi đề xuất một số 
kiến nghị, giải pháp như sau: 
- Về nguồn nhân lực: Cần đẩy mạnh hoạt 
động, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực CNTT 
có chất lượng để thực hiện nhiệm vụ ứng dụng 
CNTT trong quản trị lý nhà nước và quản trị 
quốc gia. Đối với đội ngũ cán bộ, công chức 
trong các cơ quan hành chính nhà nước, cần phải 
có chính sách phù hợp để đào tạo về sử dụng, vận 
hành chính quyền điện tử. 
- Về nâng cao nhận thức của người dân về 
chính phủ điện tử và vai trò của CNTT: Ở Việt 
Nam, có một thực tế là các dịch vụ của chính phủ 
điện tử còn xa lạ với một bộ phận người dân, đặc 
biệt là những người cao tuổi và người có thu 
nhập thấp. Cần phải học tập kinh nghiệm của các 
nước trong việc hỗ trợ người dân tiếp cận với 
CNTT. Ví dụ như Singapor thành lập các trung 
tâm hỗ trợ người dân, đặc biệt là người lớn tuổi 
sử dụng chính phủ điện tử. Hiện nay ở nước ta, 
các cơ quan hành chính thông thường không có 
người hướng dẫn, người đến làm thủ tục hành 
chính phải tự thân vận động hoặc hỏi người xung 
quanh; còn liên quan chính phủ điện tử thì gần 
như không có chương trình truyền thông hiệu 
quả nào đến người dân. 
- Về cơ sở kỹ thuật, công nghệ thông tin: cần 
xây dựng, ban hành và triển khai đồng bộ ứng 
dụng CNTT trên nền tảng các công nghệ mới 
như điện toán đám mây và big data trong lưu trữ, 
quản lý các ứng dụng và cơ sở dữ liệu; triển khai 
ứng dụng chính phủ điện tử một cách đồng bộ và 
hiệu quả trong cung cấp các dịch vụ cho người 
dân và doanh nghiệp. Để có nền tàng cơ sở kỹ 
thuật và hạ tầng CNTT hiện đại, cần đẩy mạnh 
xã hội hoá, thiết lập cơ chế khuyến khích các 
doanh nghiệp tham gia triển khai ứng dụng 
CNTT để xây dựng chính quyền điện tử, thành 
phố thông minh 
- Liên quan đến bảo mật thông tin, cần xây 
dựng hệ thống pháp luật đảm bảo an toàn, an 
ninh thông tin trong xây dựng, vận hành, khai 
thác hệ thống thông minh của chính quyền trung 
ương cũng như địa phương và bảo đảm an toàn 
thông tin của cá nhân trong thế giới mạng. 
Tài liệu tham khảo 
[1] ADB (2005), Governance: Sound Development 
Management Governance, tại 
https://www.adb.org/sites/default/files/institutiona
l-document/32027/govpolicy.pdf, truy cập ngày 
18/12/2018. 
[2] Sabri Boubaker, Duc Khuong Nguyen (editors), 
Corporate Governance and Corporate Social 
Responsibility: Emerging Markets Focus, World 
Scientific Publishing Co Pte Ltd, 2014, tr. 377. Dẫn 
theo Nguyễn Văn Quân, Nguồn gốc và sự phát triển 
của quản trị tốt, trong cuốn “Quản trị tốt: Lý luận và 
thực tiễn”, Vũ Công Giao, Nguyễn Hoàng Anh, Đặng 
Minh Tuấn, Nguyễn Minh Tuấn (đồng chủ biên), 
NXB Chính trị Quốc gia, 2017. 
[3] Michiel Backus., “e-Governance and Developing 
Countries: Introduction and examples”, Research 
Report ; No. 3, April, 2001, Xem: 
https://bibalex.org/baifa/Attachment/Documents/1
19334.pdf, truy cập ngày 18/12/2018. 
[4] S. Bhatnagar, “e-government: from vision to 
implementation: a practical guide with case 
studies” New Delhi ; Thousand Oaks, Calif. : Sage 
Publications, 2004. 
[5] Vũ Công Giao, Nguyễn Hoàng Anh, Đặng Minh 
Tuấn, Nguyễn Minh Tuấn (đồng chủ biên) “Quản 
trị tốt: Lý luận và thực tiễn”, NXB Chính trị Quốc 
gia, 2017. 
V.C. Giao, N.V. Quan / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 42-51 51 
[6] World Bank (2006), Making PRSP Inclusive, tại 
Resources/280658-
1172608138489/MakingPRSPInclusive.pdf, truy 
cập ngày 18/12/2018. 
[7] Global Agenda Council on the Future of 
Government - World Economic Forum (2011), The 
Future of Government Lessons Learned From 
Around The World, Xem: 
1_FutureofGovernment_Report.pdf – 
[8] Hanna, Nagy., Transforming Government and 
Building the Information Society: Challenges and 
Opportunities for the Developing World, Nagy Hanna 
& Peter T. Knight editors, Springer, NY, 2010. 
[9] Heeks, R., “iGovernment : Understanding e-
Governance for Development”, Working Paper 
Series : Paper No. 11, Institute for Development 
Policy and Management, Xem: 
ments/NISPAcee/UNPAN015484.pdf, truy cập 
ngày 18/12/2018. 
[10] Richard Heeks, “Most e-Government-for-
Development Projects Fail How Can Risks be 
Reduced, 2003, Xem: 
ments/cafrad/unpan011226.pdf, truy cập ngày 
18/12/2018. 
[11] J. Guida, and M. Crow “e-government and e-
governance”, in Unwin, T. (ed.), ICT4D: 
International and Communication Technology for 
Development, Cambridge University Press 2009. 
Xem: https://www.itu.int/ITU-D/cyb/app/docs/e-
gov_for_dev_countries-report.pdf, truy cập ngày 
18/12/2018. 
[12] Bob Jessop, The State Past, Present, Future, Polity, 
2016, tr.166-169, tại 
rsc/hss/book/pdf/vol07_08.pdf 
[13] S. Joseph. Jr. Nye and D. John (2000), Governance 
in a globalizing world, Brookings Institution Press. 
[14] Joseph Stiglitz, “Globalization And The Economic 
Role Of The State In The New Millennium”, 
Journal Of Industrial and Corporate Change, 2003. 
[15] Báo Lao động, Xây dựng chính phủ điện tử, rào cản 
nào?, xem: https://laodong.vn/thoi-su/xay-dung-
chinh-phu-dien-tu-rao-can-nao-631923.ldo, truy 
cập ngày 18/12/2018. 
[16] Phạm Tiến Luật, Những thách thức trong xây dựng 
chính phủ điện tử ở Việt Nam, Tạp chí Quản lý nhà 
nước, số 264 (1/2018). 
[17] D. Nute, “Net eases Government Purchasing 
Process”, The American City & County Journal, 
117 (1), 2002; K.A. O’Connell, “Computerizing 
Government: The Next Generation”, The 
American City & County Journal, 118 (8), 2003. 
[18] OECD (2004), Principles of Corporate 
Governance, tại: 
nanceprinciples/31557724.pdf, truy cập ngày 
18/12/2018. 
[19] United Nation (2002), World Public sector report 
Globalization and the State, tại: 
https://publicadministration.un.org/publications/co
ntent/PDFs/E-
Library%20Archives/World%20Public%20Sector
%20Report%20series/World%20Public%20Sector
%20Report.2001.pdf , truy cập ngày 11/11/2018. 
[20] United Nations Economic and Social Commission for 
Asia and the Pacific, What is Good Governance?, tại: 
 https://www.unescap.org/sites/default/files/good-
governance.pdf ., truy cập ngày 18/12/2018. 
[21] UNDP (1997), Governance & Sustainable Human 
Development. A UNDP Policy Document. New York 
United Nations Development Programme, 1997. 
[22] Jim Macnamara, The Quadrivium of Online Public 
Consultation: Policy, Culture, Resources, Technology, 
Dẫn theo Nguyễn Đức Lam, Quản trị tốt: những 
chuẩn mực chung, tài liệu đã dẫn. Vũ Công Giao, 
Nguyễn Hoàng Anh, Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Minh 
Tuấn (đồng chủ biên) “Quản trị tốt: Lý luận và thực 
tiễn”, NXB Chính trị Quốc gia, 2017. 
[23] United Nations : Department of economic and 
Social Affairs, Division for Public Administration 
and Development Management, “The Global e-
Government Survey 2008”, xem: 
https://publicadministration.un.org/egovkb/portals
/egovkb/Documents/un/2008-
Survey/unpan028607.pdf, truy cập ngày 
18/12/2018. 

File đính kèm:

  • pdfchinh_phu_dien_tu_va_quan_tri_nha_nuoc_hien_dai.pdf