Chi phí sử dụng vốn bình quân - Biến số kinh tế đo lường chính xác chi phí vốn trong phân tích CVP
Các quyết định kinh doanh của doanh nghiệp luôn xoay quanh mối quan hệ chi phí – khối lượng – lợi nhuận (CVP). Mối quan hệ này đã được lượng hóa trong mô hình phân tích CVP làm cơ sở cho việc ra quyết định về giá bán, sản lượng và lập kế hoạch chiến lược. Tuy nhiên, trên thực tế mô hình phân tích CVP truyền thống vẫn còn nhiều hạn chế do phải
tuân thủ các giả định và thiếu tính chính xác do chưa xác định được đầy đủ các biến số tác động. Bài viết
này bàn về những hạn chế của mô hình phân tích CVP truyền thống cũng như mô hình phân tích CVP kết
hợp với chi phí vốn của các tác giả Floria Guidry, James O. Horrigan, Cathy Craycraft (1998) và Robert
Kee (2007) và đề xuất sử dụng chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC) để đo lường chính xác chi phí sử
dụng vốn khi phân tích CVP.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chi phí sử dụng vốn bình quân - Biến số kinh tế đo lường chính xác chi phí vốn trong phân tích CVP
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN34 Số 114 - tháng 4/2017 *Khoa Kế toán - Trường Đại học Lao động - Xã hội CHI pHí sÖû DUÏNG VOÁN bìNH qUAÂN - bIEÁN sOÁ KINH TEÁ ñO lÖôØNG CHíNH XAÙC CHI pHí VOÁN TRONG pHAÂN TíCH CVp TS. ĐÀO THúY HÀ* Các quyết định kinh doanh của doanh nghiệp luôn xoay quanh mối quan hệ chi phí – khối lượng – lợi nhuận (CVP). Mối quan hệ này đã được lượng hóa trong mô hình phân tích CVP làm cơ sở cho việc ra quyết định về giá bán, sản lượng và lập kế hoạch chiến lược. Tuy nhiên, trên thực tế mô hình phân tích CVP truyền thống vẫn còn nhiều hạn chế do phải tuân thủ các giả định và thiếu tính chính xác do chưa xác định được đầy đủ các biến số tác động. Bài viết này bàn về những hạn chế của mô hình phân tích CVP truyền thống cũng như mô hình phân tích CVP kết hợp với chi phí vốn của các tác giả Floria Guidry, James O. Horrigan, Cathy Craycraft (1998) và Robert Kee (2007) và đề xuất sử dụng chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC) để đo lường chính xác chi phí sử dụng vốn khi phân tích CVP. Từ khóa: Chi phí - khối lượng - lợi nhuận (CVP), chi phí sử dụng vốn bình quân. Weighted Average Cost of Capital (WACC)-an economic variable that accurately measures the cost of capital in CVP analysis The economic decisions always involve in the relationship between cost - volume - profit (CVP). This relationship is mesured by CVP analysis to make a decision on pricing, volume and strategic planning. However in fact, the traditional CVP analysis has been imperfect for compling assumptions and not being correct completely which is caused by not determining all factors. This article discusses traditional CVP analysis as well as CVP analysis corporating the cost of capital made by Floria Guidry, James O. Horrigan, Cathy Craycraft (1998) và Robert Kee (2007) and proposes using weighted average cost of capital ( WACC) to mesure the cost of capital in CVP analysis. Keywords: Cost - volume - profit (CVP), weighted average cost of capital (WACC) NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 35Số 114 - tháng 4/2017 Giới thiệu Các quyết định kinh doanh của doanh nghiệp luôn xoay quanh mối quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận(CVP). Mối quan hệ này đã được lượng hóa trong mô hình phân tích CVP làm cơ sở cho việc ra quyết định về giá bán, sản lượng và lập kế hoạch chiến lược. Tuy nhiên, trên thực tế mô hình phân tích CVP truyền thống vẫn còn nhiều hạn chế do phải tuân thủ các giả định và thiếu tính chính xác do chưa xác định được đầy đủ các biến số tác động. Bài viết này bàn về những hạn chế của mô hình phân tích CVP truyền thống cũng như mô hình phân tích CVP kết hợp với chi phí vốn của các tác giả Floria Guidry, James O. Horrigan, Cathy Craycraft (1998) và Robert Kee (2007) và đề xuất sử dụng chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC) để đo lường chính xác chi phí sử dụng vốn khi phân tích CVP. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý thuyết và khung phân tích Để nghiên cứu vai trò và những hạn chế của mô hình phân tích CVP, bài viết đã sử dụng mô hình phân tích CVP truyền thống CVP đầu tiên do Hess đề xuất năm 1903, mô hình CVP cải tiến của Floria Guidry, James O. Horrigan, Cathy Craycraft (1998) và Robert Kee (2007). Để đề xuất giải pháp hoàn thiện mô hình phân tích CVP, bài viết sử dụng mô hình tính chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC) để đo lường chính xác biến chi phí vốn trong mô hình phân tích CVP cải tiến do Floria Guidry, James O. Horrigan, Cathy Craycraft (1998) và Robert Kee (2007) đề xuất. - Phương pháp nghiên cứu Bài viết sử dụng phương pháp phân tích định tính - phân tích bài báo khoa học để xác định những khoảng trống, những hạn chế và tổng kết những bài học kinh nghiệm có thể áp dụng trong bài viết này. kết quả và thảo luận + Kết quả nghiên cứu Chỉ ra được hạn chế trong đo lường chi phí sử dụng vốn các nghiên cứu về CVP do Floria Guidry, James O. Horrigan, Cathy Craycraft (1998) và Robert Kee (2007) đề xuất. + Thảo luận kết quả nghiên cứu Để đảm bảo độ chính xác và khả năng áp dụng NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN36 Số 114 - tháng 4/2017 trong các doanh nghiệp có cơ cấu vốn khác nhau cần phải xác định lại cơ sở đo lường chi phí sử dụng vốn. kết luận kèm theo gợi ý chính sách và kiến nghị giải pháp Để đảm bảo độ chính xác và khả năng áp dụng trong các doanh nghiệp có cơ cấu vốn khác nhau, bài viết đề xuất sử dụng chi phí sử dụng vốn bình quân làm cơ sở đo lường chi phí sử dụng vốn khi phân tích CVP. Nội dung bài viết Phân tích CVP giúp nhà quản trị hiểu được mối quan hệ tương quan giữa chi phí, khối lượng, lợi nhuận bằng cách tập trung vào sự tương tác của 5 nhân tố: giá cả, số lượng và mức độ hoạt động, chi phí biến đổi đơn vị, tổng chi phí cố định và cơ cấu sản phẩm tiêu thụ [Mc Watters và cộng sự (2001) trích dẫn từ Mohamed Elshahat (2006, tr24)]. Mô hình phân tích CVP đầu tiên do Hess đề xuất năm 1903 được xác định bằng phương trình: Pr(q) = pq – (bq +a) = (p –b)q – a [1] Trong đó: Pr(q): lợi nhuận; p: giá bán đơn vị; q: sản lượng tiêu thụ; b: chi phí biến đổi đơn vị; a: chi phí cố định. Một điểm mấu chốt khi áp dụng mô hình phân tích CVP là đều phải tuân thủ các giả định: (1) kết cấu của sản phẩm sản xuất, tiêu thụ không đổi, (2) giá bán không đổi, (3) phương trình lợi nhuận là một đường tuyến tính, (4) sản lượng sản xuất bằng với sản lượng tiêu thụ. Trên thực tế, những giả định này thường bị vi phạm do hầu hết doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm. Khi sản xuất và tiêu thụ nhiều loại sản phẩm thì tăng doanh thu của sản phẩm này sẽ ảnh hưởng đến doanh thu của sản phẩm khác. Ngoài ra, giả định về mức giá bán không đổi chỉ đúng khi sản xuất với số lượng nhỏ[Mclaney và Atrill (2002) trích dẫn từ Mohamed Elshahat (2006, tr25)]. Giả định về mối quan hệ tuyến tính giữa doanh thu, chi phí và khối lượng là phi thực tế. Nếu biểu diễn phương trình đường doanh thu và chi phí thực tế bằng đồ thị thì hình ảnh của chúng là những đường cong trong khi mô hình phân tích CVP lại biểu diễn bằng đường thẳng. Sự khác biệt này làm xuất hiện sai số dự báo khi sử dụng mô hình CVP để dự báo doanh thu, chi phí và sản lượng hòa vốn [4, tr 144]. Sự thiếu chính xác của mô hình phân tích CVP không chỉ nảy sinh từ việc tuân thủ các giả định mà còn do mô hình này chưa đề cập đến một biến số tài chính quan trọng đó là chi phí sử dụng vốn. Từ góc độ nhà đầu tư, khi góp vốn vào doanh nghiệp, họ phải từ bỏ các cơ hội đầu tư khác. Do đó, việc đầu tư vào doanh nghiệp sẽ phát sinh chi phí cơ hội của vốn và điều này sẽ khiến nhà đầu tư phải đòi hỏi một mức sinh lời nhất định. Trên góc độ doanh nghiệp, để có quyền sử dụng vốn, doanh nghiệp phải trả một khoản thu nhập (chi phí sử dụng vốn) nhất định cho nhà đầu tư. Vì thế, chi phí sử dụng vốn cần được coi trọng như chi phí hoạt động và phải được bổ sung vào hàm chi phí để ước tính đầy đủ chi phí sản xuất sản phẩm. Nếu bỏ qua chi phí sử dụng vốn, giá thành sản phẩm sẽ bị tính thiếu, lợi nhuận bị ước tính cao hơn thực tế dẫn đến ra quyết định sai lầm. Kết quả điều tra các công ty áp dụng CVP truyền thống trong nghiên cứu của Kaplan và Cooper (1998) đã cho thấy 20% sản phẩm của họ mang lại 300% lợi nhuận trong khi đó 80% sản phẩm còn lại chỉ hòa vốn và thua lỗ. Lý do là mô hình phân tích CVP đã phản ánh sai hiệu quả kinh tế của sản phẩm do không tính đến chi phí vốn. Nhà quản trị có thể chấp nhận sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm có mức hoàn vốn thấp hơn chi phí vốn và kết quả là sản phẩm đó không những không làm tăng giá trị kinh tế (EVA) mà còn làm suy giảm [2, tr491]. Theo Steward (1991) thì EVA tăng (giảm) có thể làm tăng (giảm) giá cổ phiếu của doanh nghiệp và điều này đồng nghĩa với việc tăng (giảm) giá trị khoản đầu tư của chủ sở hữu [2, tr481]. Như vậy, xem xét chi phí sử dụng vốn trong phân tích CVP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 37Số 114 - tháng 4/2017 sẽ tạo ra tầm nhìn cho nhà quản trị khi ra quyết định chiến lược về lựa chọn dự án đầu tư và huy động vốn nhằm gia tăng giá trị doanh nghiệp. Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu để cải tiến mô hình phân tích CVP khỏi những giả định hoặc mở rộng các biến số trong mô hình để đảm bảo cung cấp thông tin chính xác hơn cho việc ra quyết định. Một trong những biến số quan trọng được các tác giả Floria Guidry, James O. Horrigan, Cathy Craycraft (1998) và Robert Kee (2007) đề xuất bổ sung vào mô hình là chi phí sử dụng vốn. Khi bổ sung chi phí sử dụng vốn, phương trình xác định điểm hòa vốn trong mô hình phân tích CVP là [1, tr 76-77]: pq = bq + a + ( k0ΔTA) [2] Trong đó: p: là giá bán đơn vị, b: là chi phí biến đổi đơn vị, a: là chi phí cố định, q: là sản lượng tiêu thụ. k0: là chi phí sử dụng vốn ΔTA: là tổng tài sản cần huy động của dự án Theo Floria Guidry, James O. Horrigan, Cathy Craycraft (1998), k0 được ước tính bằng mô hình định giá tài sản vốn (CAPM). Tuy nhiên, việc ước tính chi phí sử dụng vốn theo mô hình này chỉ đúng khi toàn bộ vốn đầu tư được hình thành từ lợi nhuận để lại. Trên thực tế, vốn đầu tư của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn như (1) vốn vay, (2) vốn từ phát hành cổ phiếu ưu đãi, (3) vốn từ lợi nhuận để lại, (4) vốn từ phát hành cổ phần thường mới. Mỗi nguồn vốn đầu tư có chi phí sử dụng vốn khác nhau, do vậy chi phí sử dụng vốn khi đưa vào mô hình phân tích CVP phải là chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC) của tất cả các nguồn vốn hình thành quỹ đầu tư vào tài sản của dự án. WACC = ∑ni=1 Wiri [3] Trong đó: WACC là chi phí sử dụng vốn bình quân ri = Chi phí sử dụng vốn của nguồn vốn i Wi : Tỷ trọng của nguồn vốn i trong tổng nguồn tài trợ i: nguồn tài trợ tính theo thứ tự Khi đưa biến chi phí sử dụng vốn bình quân vào mô hình CVP thì cần loại trừ chi phí lãi vay ra khỏi chi phí hoạt động (chi phí biến đổi và chi phí NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN38 Số 114 - tháng 4/2017 cố định) để tránh bị tính trùng vì trong WACC đã bao gồm cả chi phí sử dụng vốn vay. Do chi phí lãi vay là khoản chi phí được tính trừ vào lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp trong khi chi phí sử dụng các nguồn vốn khác thì không được trừ nên để loại trừ ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp thì chi phí sử dụng vốn vay khi dùng để tính WACC phải là chi phí sử dụng vốn vay sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Xác định chi phí sử dụng vốn vay sau thuế thu nhập doanh nghiệp (rd ) rd = rdt ( 1-t%) [4] rd: là chi phí sử dụng vốn vay sau thuế thu nhập doanh nghiệp rdt: là chi phí sử dụng vốn vay trước thuế thu nhập doanh nghiệp Xác định chi phí sử dụng vốn của cổ phiếu ưu đãi (rp) Trong đó: rp: chi phí sử dụng cổ phiếu ưu đãi Dp: là cổ tức của một cổ phần ưu đãi Pp: Giá phát hành một cổ phiếu ưu đãi e: là tỷ lệ chi phí phát hành tính theo giá phát hành Xác định chi phí sử dụng lợi nhuận để lại để tái đầu tư Nếu doanh nghiệp quyết định sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư thì doanh nghiệp cần đảm bảo đạt được tỷ suất sinh lời tối thiểu bằng tỷ suất sinh lời mà cổ đông thường có thể thu được khi sử dụng số tiền đó đầu tư vào nơi khác với mức độ rủi ro tương đương với mức độ rủi ro hiện tại của doanh nghiệp. Như vậy, chi phí sử dụng vốn của lợi nhuận để lại để tái đầu tư là tỷ suất sinh lời đòi hỏi của cổ đông thường đối với cổ phần thường của doanh nghiệp. Khi ước tính chi phí sử dụng lợi nhuận để lại để tái đầu tư có thể sử dụng một trong ba phương pháp: (1) phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF), (2) phương pháp mô hình định giá tài sản vốn (CAPM), (3) phương pháp theo lãi suất trái phiếu cộng thêm mức bù rủi ro. + Nếu theo phương pháp chiết khấu dòng tiền: Trong đó: P0 : Giá thị trường hiện hành của cổ phiếu dt : Cổ tức dự tính nhận được trong năm thứ t re: tỷ suất sinh lời đòi hỏi của cổ đông đối với cổ phần thường Nếu giả định cổ tức tăng trưởng đều đặn hàng năm với tỷ lệ là “g” thì giá cổ phiếu được xác định bằng công thức sau: Trong đó: P0: Giá thị trường hiện hành của cổ phiếu d1: Cổ tức dự tính nhận được trong năm thứ 1 g: Tỷ lệ tăng trưởng cổ tức dự tính đều đặn hàng năm Trong phương pháp DCF, việc xác định tỷ lệ tăng trưởng cổ tức ‘‘g’’ là không đơn giản và có thể phải tham khảo số liệu dự báo của các nhà phân tích chứng khoán khi việc trả cổ tức không ổn định. Một trong những chỉ tiêu có thể sử dụng để ước tính ‘‘g’’ đó là tỷ lệ lợi nhuận giữ lại và tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE) trung bình trong tương lai: g = Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại x ROE = (1- tỷ lệ chi trả cổ tức) x ROE [8] Từ công thức trên có thể xác định được re NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 39Số 114 - tháng 4/2017 + Nếu theo mô hình CAPM re = rf +β (rm – rf ) [10] Trong đó: re: là tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư đối với cổ phiếu của doanh nghiệp rf: Tỷ suất sinh lời phi rủi ro (thường được tính bằng lãi suất trái phiếu Chính phủ) rm: Tỷ suất sinh lời kỳ vọng của thị trường β: Hệ số rủi ro đối với cổ phiếu của doanh nghiệp áp dụng mô hình CAPM để ước tính chi phí sử dụng lợi nhuận để lại đã cho thấy tác động của rủi ro đến chi phí sử dụng vốn một cách rõ ràng và có thể áp dụng cho các doanh nghiệp có mức chi trả cổ tức không ổn định. Tuy nhiên, việc ước tính tỷ suất sinh lời kỳ vọng của thị trường và hệ số rủi ro đối với cổ phiếu của doanh nghiệp là rất phức tạp, hơn nữa các yếu tố này thường biến động theo thời gian. + Nếu áp dụng phương pháp lãi suất trái phiếu cộng thêm mức bù rủi ro Do đầu tư vào trái phiếu công ty có mức rủi ro thấp hơn đầu tư vào cổ phiếu của công ty đó nên tỷ suất sinh lời đòi hỏi của cổ đông có thể xác định bằng cách lấy trái phiếu công ty cộng thêm một mức bù rủi ro. re = Lãi suất trái phiếu + mức bù rủi ro tăng thêm [11] Mặc dù, phương pháp này cho thấy mối quan hệ giữa rủi ro và chi phí sử dụng vốn nhưng lại mang tính chủ quan cao vì mức bù rủi ro được ước tính theo kinh nghiệm. - Xác định chi phí sử dụng cổ phần thường mới (rc) Phát hành cổ phần thường mới sẽ tạo ra nguồn vốn ngoại sinh cho doanh nghiệp. Chi phí sử dụng cổ phần thường mới được xác định theo công thức sau: Trong đó: rc: là chi phí sử dụng vốn cổ phần thường mới d1: là cổ tức dự tính nhận được trong năm thứ 1 Pro: là giá ròng phát hành 1 cổ phần thường mới (là khoản chênh lệch giữa giá phát hành và chi phí phát hành một cổ phần) g: là tỷ lệ tăng trưởng cổ tức dự tính đều đặn hàng năm Như vậy, sử dụng WACC để ước tính chi phí vốn sẽ chính xác hơn là sử dụng mô hình CAPM do Floria Guidry, James O. Horrigan, Cathy Craycraft (1998) đề xuất vì đã tính đến sự khác biệt về chi phí sử dụng vốn của từng nguồn tài trợ. Trên phương diện tài chính WACC chính là chi phí sử dụng vốn cận biên. Vì thế sử dung WACC để ước tính chi phí sử dụng vốn sẽ giúp xác định được chi phí sử dụng vốn ở các mức đầu tư khác nhau từ đó nhà quản trị có thể lựa chọn danh mục dự án đầu tư và đánh giá chính xác khả năng sinh lời của từng dự án, từng loại sản phẩm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Floria, G., James, O. H., Cathy, C. (1998), CVP analysis: A New Look, Journal of Managerial, 10(1), pp 74-85. 2. Kee, R. (2007), Cost – Volume – Profit Analysis Incorporate the Cost of Capital, Journal of Managerial Issues, 19 (4), pp. 478- 493. 3. Mohamed, F. E. (2006), Cost Information and Strategic Planning in the Egyptian Private Sector, Dissertation, Maastricht, The Netherlands. 4. Watters, M.C., Morse, C.H, Zimmerman, J.L. (2001), Managerment accounting: analysis and interpretation, Mc Graw – Hill Company, Inc, New York.
File đính kèm:
- chi_phi_su_dung_von_binh_quan_bien_so_kinh_te_do_luong_chinh.pdf