Chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam và những kiến nghị

Chế định thành lập doanh nghiệp là một trong những chế định pháp lý quan trọng

trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và Luật Doanh nghiệp nói riêng. Bên cạnh

những ưu điểm đã đạt được trong việc tạo hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động thành

lập doanh nghiệp, chế định này đã sớm bộc lộ những hạn chế nhất định. Bài viết của tác

giả tập trung phân tích một số nội dung pháp lý cơ bản về thành lập doanh nghiệp, trên cơ

sở đó chỉ ra những bất cập và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định pháp lý về

thành lập doanh nghiệp.

pdf 7 trang kimcuc 4960
Bạn đang xem tài liệu "Chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam và những kiến nghị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam và những kiến nghị

Chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam và những kiến nghị
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 19 - Thaùng 2/2014 
90 
CHẾ ĐỊNH HÁ LUẬT THÀNH LẬ DOANH NGHIỆ 
 Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ 
 NGUYỄN THỊ DIỄM ANH(*) 
TÓM TẮT 
 Chế định thành lập doanh nghiệp là một trong những chế định pháp lý quan trọng 
trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và Luật Doanh nghiệp nói riêng. Bên cạnh 
những ưu điểm đã đạt được trong việc tạo hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động thành 
lập doanh nghiệp, chế định này đã sớm bộc lộ những hạn chế nhất định. Bài viết của tác 
giả tập trung phân tích một số nội dung pháp lý cơ bản về thành lập doanh nghiệp, trên cơ 
sở đó chỉ ra những bất cập và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định pháp lý về 
thành lập doanh nghiệp. 
Từ khóa: Chế định pháp luật thành lập doanh nghiệp; kiến nghị hoàn thiện chế định 
pháp luật thành lập doanh nghiệp; thành lập doanh nghiệp. 
ABSTRACT 
The legal institution for the establishment of enterprises is one of the important legal 
institutions in the Vietnamese law system in general and the enterprise law in particular. 
Besides the advantages obtained in the creation of the legal framework which adjusts the 
operation of the enterprise establishment, this institution soon reveals its limitations. This 
article focuses on analyzing some of the basic legal contents of the establishment of 
enterprises, points out the gaps and makes some recommendations to improve the legal 
system for the establishment of enterprises. 
Keywords: Legal institutions for the establishment of enterprise; recommendations of 
improving legal institutions for establishing enterprises; establishing enterprises. 
Chế định pháp luật thành lập doanh 
nghiệp ở Việt Nam hiện nay được quy 
định chủ yếu trong Luật Doanh nghiệp 
năm 2005 đã được sửa đổi bổ sung năm 
2009 (trong bài viết này gọi tắt là Luật 
Doanh nghiệp 2005); Nghị định số 
102/2010/NĐ-CP; Nghị định số 
43/2010/NĐ-CP; Nghị định số 
05/2013/NĐ-CP Và một số văn bản quy 
phạm pháp luật khác. Ngoài việc tạo 
khung pháp lí cơ bản, nền tảng để điều 
chỉnh hoạt động kinh doanh của Doanh 
nghiệp, những quy định cụ thể và tương 
đối phù hợp trong chế định pháp luật 
thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam còn 
góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các 
doanh nghiệp trong nước thành lập, phát 
huy nội lực, khai thác tiềm năng sẵn có và 
bước đầu tạo môi trường pháp lí thuận lợi để 
thu hút đầu tư nước ngoài. Bài viết này sẽ 
phân tích khái quát chế định pháp luật thành 
lập doanh nghiệp theo quy định của pháp 
luật Việt Nam hiện hành và chỉ ra một số bất 
cập, hạn chế của nó, trên cơ sở đó đưa ra 
những kiến nghị hoàn thiện. 
1. CHẾ Đ NH PHÁP LUẬT THÀNH LẬP 
DOANH NGHI P THEO QUY Đ NH CỦA 
PHÁP LUẬT VI T NAM HI N HÀNH 
Chế định pháp luật thành lập doanh 
nghiệp theo quy định của pháp luật Việt 
Nam hiện hành gồm hai nội dung chủ yếu: 
Những điều kiện cơ bản để thành lập doanh 
nghiệp và đăng kí doanh nghiệp. 
(*)
 ThS, Trường Đại học Công đoàn. 
91 
1.1. Những đi u kiện c ản để thành lập 
doanh nghiệp 
Trước khi thực hiện thủ tục đăng kí 
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, 
người thành lập doanh nghiệp cần chuẩn bị 
các điều kiện sau đây: 
Thứ nhất, tư cách pháp lí của chủ thể 
thành lập, góp vốn, mua cổ phần và quản lí 
doanh nghiệp 
Chủ thể thành lập, góp vốn, mua cổ 
phần và quản lí doanh nghiệp được quy 
định tại Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2005 
và từ điều 12 đến điều 15 Nghị định 
102/2010/NĐ-CP. Theo quy định tại khoản 
1 điều 13 Luật Doanh nghiệp 2005, Tổ 
chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân 
nước ngoài có quyền thành lập và quản lí 
doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định 
của Luật này, trừ trường hợp quy định tại 
khoản 2 Điều này . Khoản 2 điều 13 Luật 
Doanh nghiệp 2005 quy định những cá 
nhân, tổ chức không có quyền thành lập và 
quản lí doanh nghiệp tại Việt Nam. 
Thứ hai, ngành nghề kinh doanh 
Căn cứ các quy định của pháp luật 
Việt Nam hiện hành, có thể chia ngành 
nghề kinh doanh thành những nhóm chủ 
yếu như sau: Ngành nghề, lĩnh vực bị cấm 
kinh doanh; Ngành nghề kinh doanh có 
điều kiện và ngành nghề kinh doanh thuộc 
những lĩnh vực và địa bàn được khuyến 
khích, ưu đãi đầu tư. 
Nhóm thứ nhất, ngành nghề bị cấm 
kinh doanh. Những ngành nghề thuộc 
nhóm này được quy định tại khoản 3 điều 7 
Luật Doanh nghiệp 2005; Điều 7 Nghị định 
số 102/2010/NĐ-CP; Điều 7 Nghị định số 
43/2010/NĐ-CP và Điều 30 Luật Đầu tư 
2005. Xét một cách tổng quát, đó là những 
ngành nghề thuộc các lĩnh vực đầu tư mà 
hoạt động của Doanh nghiệp có thể gây 
phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật 
tự, an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn 
hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục dân tộc 
Việt Nam và sức khỏe của nhân dân, làm 
hủy hoại tài nguyên, phá hoại môi trường. 
Nhóm thứ hai, ngành nghề kinh doanh 
có điều kiện. Đây là những ngành nghề 
kinh doanh mà theo quy định của pháp 
luật, doanh nghiệp phải đáp ứng được một 
số yêu cầu nhất định mới được phép kinh 
doanh. Điều kiện về kinh doanh gồm hai 
nội dung, đó là: Ngành nghề kinh doanh 
có điều kiện và điều kiện kinh doanh. 
Ngành nghề kinh doanh có điều kiện được 
hiểu là những ngành nghề kinh doanh 
thuộc các lĩnh vực đầu tư mà theo yêu cầu 
quản lí, điều tiết nền kinh tế, nhà nước 
quy định doanh nghiệp cần phải đáp ứng 
những điều kiện nhất định mới có thể đảm 
bảo kinh doanh có hiệu quả. Ngành, nghề 
kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh 
doanh được quy định tại Điều 8 Nghị định 
số 102/2010/NĐ-CP và Điều 29 Luật Đầu 
tư 2005. 
 Nhóm thứ ba, ngành nghề kinh doanh 
thuộc những lĩnh vực và địa bàn được 
khuyến khích, ưu đãi đầu tư được quy định 
tại Điều 27 và Điều 28 Luật Đầu tư năm 
2005. 
Thứ ba, tài sản kinh doanh 
Chủ thể thành lập doanh nghiệp bắt 
buộc phải đăng kí tài sản đầu tư vào hoạt 
động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi 
được cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh 
nghiệp, số tài sản này được ghi thành vốn 
điều lệ hoặc vốn đầu tư đối với doanh 
nghiệp tư nhân. Tài sản đưa vào góp vốn 
kinh doanh phải thỏa mãn hai điều kiện sau 
đây: 
Thứ nhất, tài sản đầu tư vào doanh 
nghiệp phải là những tài sản được pháp 
luật công nhận. Điều 163 Bộ luật Dân sự 
2005 quy định: tài sản bao gồm vật, tiền, 
giấy tờ có giá và các quyền tài sản . Tài 
sản đầu tư vào doanh nghiệp còn được quy 
định tại khoản 4 điều 4 Luật Doanh nghiệp 
2005 và khoản 1 điều 2 Nghị định số 
108/2006/NĐ-CP. 
92 
Thứ hai, tài sản góp vốn phải thuộc 
quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền sử 
dụng hợp pháp của chủ thể góp vốn thành 
lập doanh nghiệp. Đối với những ngành 
nghề kinh doanh quy định vốn pháp định 
thì tài sản góp vốn phải bằng hoặc lớn hơn 
vốn pháp định. 
Thứ tư, tên, địa chỉ trụ sở chính của 
doanh nghiệp 
Tên doanh nghiệp là tên gọi chính thức 
của doanh nghiệp, tên doanh nghiệp được 
quy định từ Điều 31 đến Điều 34 Luật 
Doanh nghiệp 2005 và Điều 13 đến Điều 
16 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP về đăng 
kí doanh nghiệp. 
Trụ sở chính của doanh nghiệp là địa 
điểm liên lạc, giao dịch của doanh nghiệp, 
phải ở trên lãnh thổ Việt Nam. Trụ sở 
chính của doanh nghiệp được quy định tại 
Điều 35 Luật Doanh nghiệp năm 2005. 
Thứ năm, hồ sơ đăng kí kinh doanh 
hợp lệ 
Hồ sơ đăng kí kinh doanh của doanh 
nghiệp được quy định từ Điều 16 đến Điều 
20 Luật Doanh nghiệp 2005 và từ Điều 19 
đến Điều 23 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP. 
Người thành lập doanh nghiệp phải chuẩn 
bị hồ sơ đăng kí kinh doanh theo quy định 
của pháp luật. 
Bên cạnh những điều kiện trên, đối với 
những loại hình doanh nghiệp pháp luật có 
quy định số lượng thành viên tối thiểu thì 
doanh nghiệp phải đáp ứng đủ các điều 
kiện đó. Doanh nghiệp phải xác định và 
đăng kí người đại diện theo pháp luật trong 
quan hệ với các cơ quan nhà nước và quan 
hệ với doanh nghiệp, khách hàng. Ngoài 
những điều kiện trên, người thành lập 
doanh nghiệp phải chuẩn bị lệ phí đăng kí 
kinh doanh theo quy định của pháp luật. 
1.2. Đ ng kí doanh nghiệp 
1.2.1. Thủ tục đăng kí 
Căn cứ Điều 15 Luật Doanh nghiệp 
năm 2005 và Điều 27 Nghị định số 
43/2010/NĐ-CP, có thể phân thành hai 
hình thức đăng kí doanh nghiệp đó là: 
Đăng kí doanh nghiệp trực tiếp (Chủ thể 
thành lập doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng kí 
doanh nghiệp tại cơ quan đăng kí kinh 
doanh cấp tỉnh thành nơi doanh nghiệp dự 
định đặt trụ sở chính) và đăng kí doanh 
nghiệp qua mạng điện tử (Chủ thể thành 
lập doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng kí doanh 
nghiệp qua cổng thông tin đăng kí doanh 
nghiệp quốc gia) 
Thủ tục đăng kí doanh nghiệp trực tiếp 
được quy định tại Điều 15 Luật Doanh 
nghiệp 2005. Thủ tục đăng kí kinh doanh 
qua mạng điện tử được quy định tại Điều 
27 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP. 
1.2.2. Những thủ tục sau đăng kí doanh 
nghiệp 
Sau khi được cấp giấy chứng nhận 
đăng kí, doanh nghiệp phải thực hiện các 
thủ tục sau đây: Công bố sự ra đời theo quy 
đinh tại Điều 28 Luật Doanh nghiệp 2005; 
Thông báo thời gian mở cửa tại trụ sở 
chính với cơ quan đăng kí kinh doanh theo 
quy định tại khoản 2 điều 35 Luật Doanh 
nghiệp 2005. 
2. M T S BẤT CẬP VỀ CHẾ Đ NH 
THÀNH LẬP DOANH NGHI P Ở 
VI T NAM HI N NAY 
Th nhất, t n doanh nghiệp 
Nghị định số 43/2010/NĐ-CP quy 
định: Các doanh nghiệp đã đăng kí tên 
doanh nghiệp ph hợp với quy định tại 
Nghị định số 88/2006/NĐ-CP nhưng không 
ph hợp với quy định tại khoản 1 Điều 14 
Nghị định này không bắt buộc phải đăng kí 
đổi tên. Khuyến khích và tạo điều kiện 
thuận lợi cho các doanh nghiệp có tên 
tr ng và tên gây nhầm lẫn tự thương lượng 
với nhau để đăng kí đổi tên doanh nghiệp 
hoặc bổ sung tên địa danh để làm yếu tố 
phân biệt tên doanh nghiệp . Như vậy, 
hiện tượng các doanh nghiệp trùng tên vẫn 
đang còn tồn tại trên thực tế. Thực trạng 
này gây khó khăn cho công tác quản lí nhà 
nước đối với doanh nghiệp, dễ gây nhầm 
lẫn cho người tiêu dùng và đối tác của các 
doanh nghiệp. 
93 
Th hai, vốn pháp định 
Theo quy định tại khoản 7 điều 4 Luật 
Doanh nghiệp 2005, vốn pháp định được 
hiểu là mức vốn tối thiểu phải có theo quy 
định của pháp luật để thành lập doanh 
nghiệp . Các quy định của pháp luật Việt 
Nam hiện hành về vốn pháp định còn có 
một số bất cập sau đây. 
Thứ nhất, ngành nghề kinh doanh có 
quy định vốn pháp định còn được quy định 
rải rác ở nhiều Nghị định khác nhau, gây 
khó khăn cho người thành lập doanh 
nghiệp trong việc tra cứu, cập nhập thông 
tin về mức vốn pháp định. Bên cạnh đó, 
một số ngành nghề kinh doanh có quy định 
vốn pháp định cần được điều chỉnh mức 
vốn pháp định cho phù hợp với nhu cầu 
của thực tiễn. Ví dụ, tại khoản 1 điều 3 
Nghị định số 153/2007/NĐ-CP quy định: 
“Doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất 
động sản phải có vốn pháp định là 6 (sáu) 
tỷ đồng . Theo tác giả, mức vốn này là quá 
thấp so với yêu cầu của thực tiễn. 
Thứ hai, cơ quan có thẩm quyền xác 
nhận vốn pháp định còn được quy định khá 
chung chung trong Luật Doanh nghiệp, 
Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Doanh 
nghiệp, Nghị định hướng dẫn đăng kí 
doanh nghiệp. Thực trạng này, gây khó 
khăn và lúng túng cho người thành lập 
doanh nghiệp và cơ quan đăng kí kinh 
doanh khi áp dụng pháp luật để giải quyết 
việc đăng kí kinh doanh. 
Th a, ch ng chỉ hành ngh của cá 
nh n hoặc một số cá nh n theo quy định 
đối với doanh nghiệp kinh doanh các 
ngành ngh mà theo quy định của pháp 
luật c n phải có ch ng chỉ hành ngh 
Chứng chỉ hành nghề được hiểu là văn 
bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền 
của Việt Nam hoặc hiệp hội nghề nghiệp 
được Nhà nước ủy quyền cấp cho cá nhân 
có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm 
nghề nghiệp về một ngành, nghề nhất định. 
Luật Doanh nghiệp 2005 quy định, hồ 
sơ đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp 
phải có chứng chỉ hành nghề của Giám đốc 
hoặc Tổng giám đốc và cá nhân khác đối 
với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề 
mà theo quy định của pháp luật phải có 
chứng chỉ hành nghề. Khoản 4 điều 19 
Nghị định 43/2010/NĐ-CP quy định hồ sơ 
đăng kí doanh nghiệp đối với doanh nghiệp 
tư nhân phải có: “Bản sao hợp lệ chứng chỉ 
hành nghề của một hoặc một số cá nhân 
theo quy định đối với doanh nghiệp tư 
nhân kinh doanh các ngành, nghề mà theo 
quy định của pháp luật phải có chứng chỉ 
hành nghề . Khoản 5 điều 20 Nghị định số 
43/2010/NĐ-CP quy định hồ sơ đăng kí 
doanh nghiệp đối với Công ty cổ phần, 
Công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành 
viên trở lên, công ty hợp danh phải có: 
 Bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của 
các thành viên hợp danh đối với công ty 
hợp danh, của một hoặc một số cá nhân 
đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công 
ty cổ phần nếu công ty kinh doanh ngành, 
nghề mà theo quy định của pháp luật phải 
có chứng chỉ hành nghề . Khoản 7 điều 
21 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP quy định 
hồ sơ đăng kí doanh nghiệp đối với Công 
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phải 
có: Bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề 
của một hoặc một số cá nhân theo quy định 
đối với công ty kinh doanh các ngành, 
nghề mà theo quy định của pháp luật phải 
có chứng chỉ hành nghề 
 Các quy định của pháp luật Việt Nam 
về chứng chỉ hành nghề của cá nhân hoặc 
một số cá nhân theo quy định đối với 
doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề 
mà theo quy định của pháp luật cần phải có 
chứng chỉ hành nghề còn có những hạn chế 
sau đây: 
 Thứ nhất, những ngành nghề kinh 
doanh có quy định chứng chỉ hành nghề 
của một hoặc một số cá nhân còn được quy 
định rải rác ở nhiều văn bản quy phạm 
pháp luật khác nhau. Ví dụ: Điều 16 Nghị 
định 17/2010/NĐ-CP quy định người đại 
diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải 
94 
có chứng chỉ hành nghề khi doanh nghiệp 
kinh doanh dịch vụ đấu giá tài sản; Điều 14 
Nghị định 79/2006/NĐ-CP quy định chi 
tiết thi hành một số điều của Luật Dược 
năm 2006 quy định cá nhân giữ chức vụ 
quản lí trong doanh nghiệp phải có chứng 
chỉ hành nghề; Khoản 3 điều 87 Luật Xây 
dựng năm 2003 quy định cá nhân làm việc 
tại doanh nghiệp phải có chứng chỉ hành 
nghề khi doanh nghiệp kinh doanh những 
ngành nghề thiết kế xây dựng công 
trình..v.v. Điều này gây khó khăn cho 
người thành lập doanh nghiệp trong việc 
tra cứu văn bản để cập nhập thông tin. 
Thứ hai, hiện nay việc thay đổi nội 
dung đăng kí kinh doanh; đăng kí bổ sung, 
thay đổi ngành nghề kinh doanh đã được 
quy định khá chi tiết tại Điều 26 Luật 
Doanh nghiệp 2005 và từ Điều 34 đến Điều 
46 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP. Tuy 
nhiên các quy định về việc đăng kí bổ 
sung, thay đổi cá nhân, nhóm cá nhân cần 
có chứng chỉ hành nghề khi doanh nghiệp 
kinh doanh những ngành nghề mà theo quy 
định của pháp luật cần phải có chứng chỉ 
hành nghề lại chưa được quy định cụ thể ở 
các văn bản nêu trên. 
3. NHỮNG KIẾN NGH HOÀN THI N 
Thứ nhất, tên doanh nghiệp 
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các 
cơ quan quản lí nhà nước, bảo vệ quyền và 
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, người 
tiêu dùng..v.v. pháp luật cần quy định chi 
tiết hơn những quy định pháp luật hiện 
hành về các trường hợp tên doanh nghiệp 
bị trùng; các hành vi nghiêm cấm đối với 
các doanh nghiêp lợi dụng trùng tên gây 
khó khăn cho hoạt động quản lí nhà nước, 
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp 
của người tiêu dùng; các chế tài pháp lí cụ 
thể đối với những doanh nghiệp bị trùng 
tên khi thực hiện những hành vi nghiêm 
cấm. 
Thứ hai, vốn pháp định 
Hiện nay đã có một số văn bản quy 
định cơ quan có thẩm quyền xác nhận vốn 
pháp định như: Tổ chức kiểm toán độc lập 
có thẩm quyền xác nhận vốn pháp định vốn 
pháp định đối với doanh nghiệp đang hoạt 
động có nhu cầu bổ sung ngành nghề kinh 
doanh bất động sản (mục 1.2 phần I Thông 
tư số 13/2008/TT-BXD ngày 21 tháng 5 
năm 2008; Ngân hàng thương mại được 
phép hoạt động tại Việt Nam, tổ chức có 
chức năng định giá ở Việt Nam về kết quả 
định giá tài sản được đưa vào góp vốn có 
thẩm quyền xác nhận vốn pháp định đối 
với doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề 
dịch vụ bảo vệ (khoản 2 điều 9 Nghị định 
số 52/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 4 năm 
2008). Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, 
cơ quan có thẩm quyền xác nhận vốn pháp 
định còn được quy định khá chung chung 
trong Luật Doanh nghiệp, Nghị định hướng 
dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp, Nghị định 
hướng dẫn đăng kí doanh nghiệp. Nhằm 
tiết kiệm thời gian, công sức cho người 
thành lập doanh nghiệp, pháp luật cần có 
quy định cụ thể về cơ quan có thẩm quyền 
xác nhận vốn pháp định trong một văn bản 
pháp lí cụ thể. Bên cạnh đó, pháp luật cũng 
cần có sự điều chỉnh về mức vốn pháp định 
đối với một số ngành nghề kinh doanh cho 
phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, trước 
mắt đó là ngành nghề kinh doanh bất động 
sản. 
Thứ ba, chứng chỉ hành nghề 
Cần rà soát lại những ngành, nghề kinh 
doanh theo quy định của pháp luật cần có 
chứng chỉ hành nghề của giám đốc và cá 
nhân khác, loại bỏ những quy định không 
có lợi cho người thành lập doanh nghiệp 
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người 
thành lập doanh nghiệp thực hiện hoạt 
động đăng kí doanh nghiệp. 
Cần xây dựng quy chế pháp lí kiểm 
tra, giám sát chứng chỉ hành nghề của giám 
đốc và cá nhân khác sau khi doanh nghiệp 
được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh 
doanh bởi vì trên thực tế, tại thời điểm 
thành lập doanh nghiệp, người lao động 
trong doanh nghiệp có đủ chứng chỉ hành 
95 
nghề theo quy định của pháp luật nhưng 
sau đó họ xin nghỉ việc, doanh nghiệp buộc 
phải tuyển dụng người lao động mới. Nếu 
không có sự quy định chặt chẽ của pháp 
luật, sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản 
lí nhà nước rất dễ xảy ra hiện tượng người 
lao động mới trong doanh nghiệp không 
đáp ứng yêu cầu về chứng chỉ hành nghề 
theo quy định của pháp luật nhưng vẫn 
ngang nhiên hành nghề. 
Tóm lại, trước khi thực hiện thủ tục 
đăng kí doanh nghiệp tại cơ quan nhà nước 
có thẩm quyền, người thành lập doanh 
nghiệp cần chuẩn bị các điều kiện cơ bản 
theo quy định của pháp luật như: Tư cách 
pháp lí của chủ thể thành lập và quản lí 
doanh nghiệp; Ngành nghề kinh doanh; tài 
sản; hồ sơ đăng kí doanh nghiệp..v.v. Sau 
khi được cấp giấy chứng nhận đăng kí ki 
doanh, người thành lập doanh nghiệp cần 
thực hiện các thủ tục sau đăng kí doanh 
nghiệp theo quy định của pháp luật. 
Chế định pháp luật thành lập doanh 
nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc 
tạo hành lang pháp lí điều chỉnh hoạt động 
của các chủ thể khi tham gia vào quá trình 
thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện 
nay một số quy định pháp luật về thành lập 
doanh nghiệp đã bộc lộ những hạn chế nhất 
định gây khó khăn cho các chủ thể khi áp 
dụng chế định pháp luật thành lập doanh 
nghiệp vào thực tiễn. Để hoàn thiện chế 
định pháp luật về thành lập doanh nghiệp, 
Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung, một số quy 
định về tên doanh nghiệp; chứng chỉ hành 
nghề; vốn pháp định. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lê Thị Châu (2010), Tìm hiểu Luật Kinh tế, Nxb Lao động, Hà Nội. 
2. Minh Ngọc, Ngọc Hà (2010) Luật Kinh tế, Nxb Lao động, Hà Nội. 
3. Nguyễn Viết Tý (cb) (2008), Giáo trình Luật Thương mại, tập 1, Trường Đại học Luật 
Hà Nội, Nxb CAND, Hà Nội. 
4. Luật Doanh nghiệp 2005 (đã sửa đổi bổ sung năm 2009). 
5. Nghị định số 102/2010/NĐ-CP Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật 
Doanh nghiệp 
6. Nghị định số 43/20010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 về Đăng kí doanh nghiệp. 
7. Nghị định số 05/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2013 sửa đổi, bổ sung một số 
điều quy định về thủ tục hành chính của Nghị định số 43/20010/NĐ-CP ngày 
15/4/2010 về Đăng kí doanh nghiệp. 
8. Nghị định số 153/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi 
hành Luật Kinh doanh bất động sản. 
9. Nghị định số 52/2008/NĐ-CP ngày 22/ 4/2008 về quản lí kinh doanh dịch vụ bảo vệ. 
10. Thông tư số 13/2008/TT-BXD ngày 21/5/2008 hướng dẫn thực hiện một số nội dung 
của Nghị định 153/2007/NĐ-CP. 
* Nhận bài ngày: 23/10/2013. Biên tập xong: 20/2/2014. Duyệt đăng: 24/2/2014. 
 96 
HỘP THƯ ẠN ĐỌC 
Kính gửi uý bạn đọc, 
Trong thời gian qua, chúng tôi nhận được rất nhiều bài viết của các nhà khoa học 
trong cả nước. Ban Biên tập Tạp chí Đại học Sài G n chân thành cảm ơn sự cộng tác của 
Quý vị. 
Trong số Tạp chí này, chúng tôi xin giới thiệu đến uý bạn đọc và các nhà khoa học 
những bài nghiên cứu thuộc lĩnh vực Khoa học Tự nhiên, Khoa học Xã hội và Khoa học 
Giáo dục. 
Ban Biên tập Tạp chí Đại học Sài Gòn c ng xin trân trọng thông báo đã nhận được 
bài viết của các tác giả có tên sau đây gửi tới Toà soạn: PGS.TS. Huỳnh Văn Sơn, TS. B i 
Văn Thắng, TS. Trần uang Nam, TS. Phạm Ngọc Hiền, TS. Lê Văn Tấn, TS. Đặng Kim 
Tại, TS. Phạm Lê Thông, TS. Nguyễn Văn Thắng, ThS. Nguyễn Ngọc Phú, ThS. Nguyễn 
Văn Thương, ThS. Hà Thị Thuỳ Dương, ThS. Nguyễn inh Hiệp, ThS.NCS. Ngô Xuân 
Bình, ThS. Trần Cao Nguyên, ThS. Nguyễn Anh H ng, ThS.NCS. Lê Chi Lan, ThS. Ngô Thị 
Kim Liên, ThS. Hoàng Thị Kiều Oanh, ThS. Lê Dình Nghi, ThS. Trần Thị Ngọc uỳnh, 
ThS. Lê Khoa Huân, ThS. Lê Nguyễn Bình inh, ThS. ai Trương Huy, ThS. V Thị Thu, 
ThS. Nguyễn Vĩnh Khương, ThS. ai ỹ Hạnh, ThS Nguyễn Tiến Công, NCS. Nguyễn Huy 
Khuyến, ThS. Nguyễn Thị Oanh, ThS. Phan Tất Hiển, ThS. Lê Thái Sơn c ng nhiều bài 
viết của các tác giả khác. Chúng tôi xin được chọn đăng ở các số Tạp chí tiếp theo. 
Với những bài viết đã chọn đăng trong số Tạp chí này, chắc chắn vẫn c n những 
thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của uý bạn đọc để có thể ngày 
một nâng cao chất lượng Tạp chí Đại học Sài G n. 
 ột lần nữa, Ban biên tập Tạp chí Đại học Sài Gòn chân thành cảm ơn uý bạn đọc, 
các nhà khoa học trong cả nước và mong muốn được đón nhận sự tín nhiệm lâu dài của 
 uý vị trong tương lai. 
Trân trọng kính chào. 
 BAN BIÊN TẬP 
TẠP CHÍ ĐẠI HỌC SÀI GÒN 

File đính kèm:

  • pdfche_dinh_phap_luat_thanh_lap_doanh_nghiep_o_viet_nam_va_nhun.pdf