Cập nhật xử trí lạc nội mạc tử cung trong vô sinh dựa trên y học chứng cứ

Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là một bệnh lý phụ

khoa mãn tính khá phổ biến, gặp ở 10% phụ nữ độ

tuổi sinh sản, nguyên nhân và bệnh sinh vẫn chưa rõ,

với triệu chứng nổi bật là đau và vô sinh. Mặc dù có

đến 50% phụ nữ LNMTC bị vô sinh, thái độ xử trí các

trường hợp này vẫn chưa có sự thống nhất hoàn toàn.

Phương pháp điều trị được lựa chọn có thể đơn thuần

hay phối hợp giữa nội khoa, phẫu thuật, hỗ trợ sinh

sản hay các phương pháp khác. Y học chứng cứ cho

đến nay nhận thấy việc điều trị nội khoa ức chế chức

năng buồng trứng (bằng Danazol, progestins, GnRH

đồng vận hay viên tránh thai uống) đối với những

trường hợp vô sinh do lạc nội mạc tử cung không phải

là một giải pháp hiệu quả và không nên chỉ định đơn

thuần hay phối hợp trước/sau mổ. Những phụ nữ bị

LNMTC tối thiểu đến nhẹ, nội soi phẫu thuật có hiệu

quả hơn so với nội soi chẩn đoán trong việc cải thiện

tỷ lệ sinh sống. Những phụ nữ LNMTC trung bình đến

nặng, có thể cân nhắc nội soi phẫu thuật thay vì chỉ

chờ đợi, nhằm giúp tăng tỷ lệ có thai tự nhiên. Những

phụ nữ có u LNMTC ở buồng trứng, khi phẫu thuật

cần cắt bỏ vỏ khối u thay vì chỉ dẫn lưu và đốt điện

thành u, để có thể tăng tỷ lệ có thai cộng dồn. Cần

lưu ý nguy cơ giảm khả năng dự trữ buồng trứng hay

thậm chí mất buồng trứng do phẫu thuật và cân nhắc

lợi ích của lặp lại phẫu thuật trong từng trường hợp cụ

thể. Các phương pháp điều trị khác trong vô sinh do

LNMTC (dung dịch cản quang lipiodol, Pentoxifylline,

mifepristone, thảo mộc, Vitamin C, E) chưa thấy hiệu

quả rõ ràng. Đối với sinh sản hỗ trợ, bệnh nhân vô

sinh do LNMTC độ I/II, có thể được chỉ định kích thích

buồng trứng kèm IUI trong vòng 6 tháng sau phẫu

thuật để tăng tỷ lệ thai sinh sống hơn là chờ đợi hay

chỉ điều trị IUI đơn thuần. Nên chỉ định kỹ thuật hỗ

trợ sinh sản (ART) cho những trường hợp vô sinh

do LNMTC, đặc biệt là khi có ảnh hưởng đến vòi tử

cung hay có kèm theo yếu tố nam hay thất bại với các

phương pháp điều trị khác. Phác đồ GnRH đồng vận

hay đối vận không có khác biệt ở bệnh nhân LNMTC

tối thiểu/nhẹ hay có u lạc nội mạc buồng trứng.

Không có bằng chứng tăng tỷ lệ tái phát LNMTC sau

khi kích thích buồng trứng làm IVF/ICSI. Dùng kháng

sinh dự phòng vào thời điểm chọc hút trứng ở bệnh

nhân LNMTC là cần thiết. Có thể chỉ định đồng vận

GnRH từ 3-6 tháng trước khi thực hiện hỗ trợ sinh sản

cho những phụ nữ vô sinh bị LNMTC để cải thiện tỷ

lệ có thai lâm sàng. Phẫu thuật nội soi bóc u LNMTC

buồng trứng từ 3-6cm trước khi thực hiện hỗ trợ

sinh sản có thể không hữu ích trong việc cải thiện

tỷ lệ thành công. Với những trường hợp LNMTC sâu,

không có bằng chứng ủng hộ việc phẫu thuật cắt các

nốt LNMTC sâu trước khi thực hiện hỗ trợ sinh sản ở

những người vô sinh do LNMTC, tuy nhiên có thể chỉ

định phẫu thuật để cải thiện triệu chứng đau.

pdf 9 trang kimcuc 3300
Bạn đang xem tài liệu "Cập nhật xử trí lạc nội mạc tử cung trong vô sinh dựa trên y học chứng cứ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cập nhật xử trí lạc nội mạc tử cung trong vô sinh dựa trên y học chứng cứ

Cập nhật xử trí lạc nội mạc tử cung trong vô sinh dựa trên y học chứng cứ
Cao NgọC ThàNh, Lê MiNh TâMtổng quan
Tập 11, số 04
Tháng 12-2013
Tạp chí Phụ Sản 
06
Cao Ngọc Thành, Lê Minh Tâm
Trường Đại học Y Dược Huế
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Lê Minh Tâm, leminhtam.vn@gmail.com 
Ngày nhận bài (received) 04/8/2013. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 25/8/2013. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 30/10/2013
Tóm tắt
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là một bệnh lý phụ 
khoa mãn tính khá phổ biến, gặp ở 10% phụ nữ độ 
tuổi sinh sản, nguyên nhân và bệnh sinh vẫn chưa rõ, 
với triệu chứng nổi bật là đau và vô sinh. Mặc dù có 
đến 50% phụ nữ LNMTC bị vô sinh, thái độ xử trí các 
trường hợp này vẫn chưa có sự thống nhất hoàn toàn. 
Phương pháp điều trị được lựa chọn có thể đơn thuần 
hay phối hợp giữa nội khoa, phẫu thuật, hỗ trợ sinh 
sản hay các phương pháp khác. Y học chứng cứ cho 
đến nay nhận thấy việc điều trị nội khoa ức chế chức 
năng buồng trứng (bằng Danazol, progestins, GnRH 
đồng vận hay viên tránh thai uống) đối với những 
trường hợp vô sinh do lạc nội mạc tử cung không phải 
là một giải pháp hiệu quả và không nên chỉ định đơn 
thuần hay phối hợp trước/sau mổ. Những phụ nữ bị 
LNMTC tối thiểu đến nhẹ, nội soi phẫu thuật có hiệu 
quả hơn so với nội soi chẩn đoán trong việc cải thiện 
tỷ lệ sinh sống. Những phụ nữ LNMTC trung bình đến 
nặng, có thể cân nhắc nội soi phẫu thuật thay vì chỉ 
chờ đợi, nhằm giúp tăng tỷ lệ có thai tự nhiên. Những 
phụ nữ có u LNMTC ở buồng trứng, khi phẫu thuật 
cần cắt bỏ vỏ khối u thay vì chỉ dẫn lưu và đốt điện 
thành u, để có thể tăng tỷ lệ có thai cộng dồn. Cần 
lưu ý nguy cơ giảm khả năng dự trữ buồng trứng hay 
thậm chí mất buồng trứng do phẫu thuật và cân nhắc 
lợi ích của lặp lại phẫu thuật trong từng trường hợp cụ 
thể. Các phương pháp điều trị khác trong vô sinh do 
LNMTC (dung dịch cản quang lipiodol, Pentoxifylline, 
mifepristone, thảo mộc, Vitamin C, E) chưa thấy hiệu 
quả rõ ràng. Đối với sinh sản hỗ trợ, bệnh nhân vô 
sinh do LNMTC độ I/II, có thể được chỉ định kích thích 
buồng trứng kèm IUI trong vòng 6 tháng sau phẫu 
thuật để tăng tỷ lệ thai sinh sống hơn là chờ đợi hay 
chỉ điều trị IUI đơn thuần. Nên chỉ định kỹ thuật hỗ 
trợ sinh sản (ART) cho những trường hợp vô sinh 
do LNMTC, đặc biệt là khi có ảnh hưởng đến vòi tử 
cung hay có kèm theo yếu tố nam hay thất bại với các 
phương pháp điều trị khác. Phác đồ GnRH đồng vận 
hay đối vận không có khác biệt ở bệnh nhân LNMTC 
tối thiểu/nhẹ hay có u lạc nội mạc buồng trứng. 
Không có bằng chứng tăng tỷ lệ tái phát LNMTC sau 
khi kích thích buồng trứng làm IVF/ICSI. Dùng kháng 
sinh dự phòng vào thời điểm chọc hút trứng ở bệnh 
nhân LNMTC là cần thiết. Có thể chỉ định đồng vận 
GnRH từ 3-6 tháng trước khi thực hiện hỗ trợ sinh sản 
cho những phụ nữ vô sinh bị LNMTC để cải thiện tỷ 
lệ có thai lâm sàng. Phẫu thuật nội soi bóc u LNMTC 
buồng trứng từ 3-6cm trước khi thực hiện hỗ trợ 
sinh sản có thể không hữu ích trong việc cải thiện 
tỷ lệ thành công. Với những trường hợp LNMTC sâu, 
không có bằng chứng ủng hộ việc phẫu thuật cắt các 
nốt LNMTC sâu trước khi thực hiện hỗ trợ sinh sản ở 
những người vô sinh do LNMTC, tuy nhiên có thể chỉ 
định phẫu thuật để cải thiện triệu chứng đau.
Summary
Updates treatment of endometriosis associated 
infertility based on evidence-based medicine
Endometriosis is a quite common chronic 
gynecological disease, affecting up to 10% 
of reproductive-aged women, the cause and 
pathogenesis is still unclear, with prominent 
symptoms are pain and infertility. Up to 50% 
of women with endometriosis are infertile, and 
agreement about treatment options has been 
difficult to establish. The treatment can be selected 
alone or in combination between medical therapy, 
surgery, assisted reproduction, or other methods. 
Evidence-based medicine so far found the medical 
therapy of ovarian function suppression (such 
as Danazol, progestins, GnRH agonist or oral 
contraceptive pills) for endometriosis is not an 
effective solution and should not be indicated alone 
or combination pre/post operation. In women with 
minimal/mild endometriosis, operative laparoscopy 
is more effective than diagnostic laparoscopy in 
improving live birth rate. Women with moderate to 
severe endometriosis, operative laparoscopy should 
be considered instead of expectant management to 
increase spontaneous pregnancy rate. Women with 
endometrioma, surgeons should perform excision 
of the endometrioma capsule instead of drainage 
and electrocoagulation of endometrioma wall, to 
increase the cumulative pregnancy rate. It should 
be noted the risk of reduced ovarian reserve or 
CẬP NHẬT XỬ TRÍ LẠC NỘI MẠC TỬ CUNG
TRONG VÔ SINH DỰA TRÊN Y HỌC CHỨNG CỨ
Tập 11, số 04
Tháng 12-2013
Tạp chí Phụ Sản 
07
Tạp Chí phụ sảN - 11(4), 06-14, 2013
even lost of ovary due to surgery and consider the 
benefits of repeat surgery in specific case. The other 
methods of infertility treatment (lipiodol contrast 
solution, Pentoxifylline, mifepristone, herbs, vitamins 
C, E) show no clear effect. For medically assisted 
reproduction, infertile patients with endometriosis 
level I/II, can be indicated with IUI with controlled 
ovarian stimulation within 6 months after surgery 
to increase the live birth rate instead of expectant 
management or IUI alone. Assisted reproduction 
techniques (ART) should be indicated for infertility 
with endometriosis, especially when fallopian tubes 
are affected or with male factor or failure with other 
treatments. GnRH agonist or GnRH antagonist 
protocol show no difference in patients with minimal 
/ mild endometriosis or endometrioma. No evidence 
of increased recurrence rate after controlled ovarian 
stimulation for IVF / ICSI. Use of prophylactic 
antibiotics at the time of ovum retrieval in patients 
with endometrioma are needed. GnRHagonist can 
be used 3-6 months before ART for infertile women 
with endometriosis to improve clinical pregnancy 
rates. Laparoscopy for 3-6cm endometrioma before 
ART may not be useful in improving the success rate. 
With deep nodular endometriosis, effectiveness of 
the excision before assisted reproduction is not well 
established with regard to reproductive outcome, 
but surgery may be indicated to improve pain.
I. Giới thiệu
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) được định nghĩa là sự 
hiện diện của mô tương tự nội mạc tử cung (các tuyến 
và mô đệm) bên ngoài tử cung, gây ra phản ứng viêm 
mạn tính, mô sẹo, và dính, có thể làm biến dạng giải 
phẫu vùng chậu của người phụ nữ (Kennedy S, 2005). 
LNMTC chủ yếu được tìm thấy ở phụ nữ trẻ, nhưng 
không liên quan đến chủng tộc hoặc xã hội. LNMTC 
là một bệnh lý khá phổ biến, xảy ra ở khoảng 10% dân 
số nữ nói chung (Ozkan S, 2008); với những phụ nữ có 
triệu chứng đau vùng chậu, vô sinh, hoặc cả hai, tần 
suất LNMTC là 35 -50% (Giudice LC, 2004). Khoảng 25 
đến 50% phụ nữ vô sinh có LNMTC, và 30 - 50% phụ nữ 
có LNMTC bị vô sinh (Adamson GD, 2010).
Lạc nội mạc tử cung là bệnh lý mãn tính với tỉ lệ tái 
phát cao. Nguyên nhân và sinh bệnh học vẫn còn chưa 
rõ ràng (Grummer, 2013). Mục đích chính của điều trị 
bao gồm giảm các triệu chứng, ức chế các mảng ghép 
lạc nội mạc, dự phòng xuất hiện các ổ mới mô nội mạc 
tử cung lạc chỗ. Điều trị hiện tại chủ yếu tập trung vào 
xử trí các triệu chứng lâm sàng của bệnh chứ không 
phải loại trừ căn bệnh này. Kết hợp cụ thể nội khoa, điều 
trị phẫu thuật, và tâm lý có thể cải thiện chất lượng cuộc 
sống của phụ nữ với LNMTC (Mateo Sanez et al., 2012)
Mối quan hệ giữa LNMTC và vô sinh được tranh 
luận trong nhiều năm. Với các cặp vợ chồng bình 
thường, khả năng sinh sản trong khoảng 15-20% mỗi 
tháng và giảm dần theo tuổi. Phụ nữ bị LNMTC có xu 
hướng giảm khả năng sinh sản hàng tháng còn khoảng 
2-10% (Hughes EG, 1993) và liên quan đến tỷ lệ sinh 
sống thấp hơn (Collins JA, 1995). Mặc dù có nhiều tiến 
bộ đáng kể trong lĩnh vực chẩn đoán lâm sàng và cận 
lâm sàng, hiểu hiết về mối liên hệ giữa LNMTC và vô 
sinh vẫn còn nhiều hạn chế (Grummer, 2013). Cho đến 
nay, chưa có chỉ định điều trị cụ thể đối với mô nội mạc 
tử cung lạc chỗ, bằng phương pháp nội khoa hoặc 
phẫu thuật, được chứng minh sẽ cải thiện khả năng 
sinh sản cho các trường hợp vô sinh do LNMTC. Các 
phương pháp trị liệu thường được chọn lựa hiện nay 
xoay quanh điều trị nội tiết, phẫu thuật hay chỉ định 
sinh sản hỗ trợ như kích thích buồng trứng, thụ tinh 
trong ống nghiệm. Tuy nhiên, chọn lựa phương pháp 
cụ thể cho từng trường hợp vô sinh do LNMTC vẫn là 
một thách thức cho các nhà lâm sàng (Mateo Sanez et 
al., 2012) (Yang, 2013). Bài tổng quan này nhằm đánh 
giá hiệu quả của các phương pháp điều trị khác nhau 
ở bệnh nhân vô sinh do LNMTC. Các nghiên cứu y văn 
được tìm kiếm dựa trên các chỉ số tỷ lệ sinh sống, tỷ lệ 
đa thai, tỷ lệ sẩy thai, thai ngoài tử cung và tác dụng 
không mong muốn của điều trị. Trong đó tỷ lệ trẻ sinh 
sống được xem như là thông số có giá trị nhất.
II. Điều trị vô sinh do lạc nội mạc tử cung
2.1. Điều trị nội khoa vô sinh do LNMTC
Các thuốc nội tiết ức chế phóng noãn về lý thuyết 
có thể ức chế sự phát triển mô lạc nội mạc tử cung 
– là mô phụ thuốc estrogen. Một số loại thuốc như 
danazol, progestins, thuốc viên tránh thai và GnRH 
đồng vận vì thế được nghiên cứu cho các trường hợp 
vô sinh do LNMTC với mong muốn cải thiện tỷ lệ có 
thai và tỷ lệ sinh sống. 
Bài nghiên cứu trên thư viện Cochrane của Hughes 
và cộng sự (Hughes E, 2010) đã phân tích 25 thử 
nghiệm ngẫu nhiên, so sánh các thuốc ức chế phóng 
noãn với giả dược hoặc không điều trị gì. Kết quả 
chung ghi nhận tỷ số chênh (OR) có thai sau ức chế 
phóng noãn so với giả dược là 0,97 (CI 0.68 - 1.34, p 
= 0.8) với mọi phụ nữ và 1.02 (95% CI 0.70 - 1.52, p = 
Cao NgọC ThàNh, Lê MiNh TâMtổng quan
Tập 11, số 04
Tháng 12-2013
Tạp chí Phụ Sản 
08
0.82) ở phụ nữ vô sinh. Không có bằng chứng có lợi 
của việc điều trị. Trong 191 đối tượng nghiên cứu, tỷ số 
chênh có thai sau tất cả các loại thuốc so với danazol 
là 1.38 (95% CI 1.05- 1.82, p = 0.02) với mọi phụ nữ và 
1.37 (95% CI 0.94 - 1.99, p = 0.10) ở phụ nữ vô sinh. Khi 
so sánh trực tiếp GnRHa và danazol, OR là 1.45 (95% CI 
1.08 - 1.95, p = 0.01) cho mọi phụ nữ và 1.63 (95% CI 
1.12 - 2.37, p = 0.01) ở người vô sinh với ưu thế thuộc 
về GnRHa. Không thấy hiệu quả rõ ràng, khi so sánh 
GnRHa với thuốc tránh thai uống (n=86; OR 0.93, 95% 
CI 0.41 - 2.12, p = 0.86) với mọi phụ nữ và OR 0.83, 95% 
CI 0.34 - 2.05, p = 0.69 ở phụ nữ vô sinh. 
Kết luận của tác giả cho thấy không có sự khác biệt 
có ý nghĩa về tỷ lệ có thai giữa các loại thuốc được chỉ 
định. Tuy nhiên, sự so sánh như thế không đánh giá trực 
tiếp liệu việc ức chế buồng trứng tự nó là một can thiệp 
hiệu quả mà chỉ thể hiện sự không khác biệt có ý nghĩa 
giữa các thuốc đối với tỷ lệ sinh sống (Hughes E, 2010). 
Như vậy rõ ràng việc điều trị nội khoa ức chế chức năng 
buồng trứng (bằng Danazol, progestins, GnRH đồng 
vận hay viên tránh thai uống) đối với những trường hợp 
vô sinh do lạc nội mạc tử cung không phải là một giải 
pháp hiệu quả và không nên chỉ định đơn thuần.
2.2. Điều trị phẫu thuật trong vô sinh do LNMTC
Phẫu thuật nội soi thường chỉ định trong trường 
hợp LNMTC nhằm mục đích lấy bỏ tổn thương 
LNMTC và phục hồi giải phẫu vùng chậu. Nghiên cứu 
tổng quan hệ thống của Jacobson TZ (Jacobson TZ, 
2010) so sánh hiệu quả phẫu thuật nội soi nhằm cải 
thiện khả năng sinh sản ở người có LNMTC. Những 
bệnh nhân có LNMTC mức độ tối thiểu và nhẹ, được 
đánh giá sau phẫu thuật về tỷ lệ sinh sống và thai 
diễn tiến sau 20 tuần. Kết quả ghi nhận nội soi phẫu 
thuật có ưu thế hơn so với nội soi chẩn đoán về tỷ 
lệ thai lâm sàng với OR = 1.66 (95% Cl 1.09 - 2.51). 
Như vậy, những bệnh nhân LNMTC mức độ tối thiểu 
và nhẹ theo phân loại rAFS, nội soi phẫu thuật và gỡ 
dính có hiệu quả làm tăng tỷ lệ sinh sống khi so với 
nội soi chẩn đoán (Jacobson TZ, 2010).
Nghiên cứu tiến cứu theo dõi dọc trên 173 bệnh 
nhân đã nhận thấy tỷ lệ có thai chung sau phẫu thuật 
LNMTC là 48%, trong đó 47% có thai tự nhiên sau 6 
tháng. Trong số 63 trường hợp thực hiện hỗ trợ sinh 
sản, 25 trường hợp thành công (tỷ lệ 39.7% trong vòng 
10 tháng). Nghiên cứu khẳng định lợi ích của phẫu 
thuật LNMTC đối với khả năng sinh sản và nên chỉ định 
hỗ trợ sinh sản nếu không có thai tự nhiên trong vòng 
từ 6-12 tháng sau phẫu thuật (Bourdel et al., 2012). 
Với những phụ nữ bị LNMTC tối thiểu hoặc nhẹ 
mong muốn có thai, hiệu quả của những phương pháp 
phẫu thuật khác nhau không rõ ràng. Có bằng chứng ít 
ỏi rằng phụ nữ LNMTC có thai cộng dồn sau 36 tháng 
cao hơn khi điều trị hóa hơi laser CO2 (87%) so với điều 
trị đốt điện đơn cực (71%), bằng nội soi chẩn đoán 
(65%), hoặc nội soi chẩn đoán có kèm 3 tháng danazol 
800mg/ngày sau mổ (63%) (Chang FH, 1997)
Những bệnh nhân có khối u LNMTC ở buồng trứng 
được chỉ định phẫu thuật vì lý do vô sinh hay do đau, 
việc cắt bỏ khối u làm tăng khả năng có thai tự nhiên 
sau phẫu thuật khi so sánh với xẻ dẫn lưu hay đốt điện 
thành khối u (Hart RJ, 2008). Mặc dù nghiên cứu thử 
nghiệm đối chứng ngẫu nhiên chưa chứng minh được 
lợi ích của việc cắt bỏ so với đốt khối u, khuyến cáo cho 
đến nay vẫn nên cắt bỏ tổn thương đặc biệt là các tổn 
thương sâu (Hart RJ, 2008Koninckx PR, 2012) 
Những phụ nữ LNMTC ở trực tràng-âm đạo đã 
được phẫu thuật, tỷ lệ có thai tự nhiên cộng dồn trong 
24 tháng là 44,9% không khác biệt so với nhóm không 
phẫu thuật (46,8%)(Vercellini P, 2006). Tuy nhiên, 
những trường hợp LNMTC mức độ trung bình và nặng 
đã được phẫu thuật nội soi cắt bỏ và gỡ dính, tỷ lệ có 
thai tự nhiên cộng dồn trong vòng 3 năm sau phẫu 
thuật được báo cáo từ 46-77% với LNMTC trung bình 
và từ 44-74% với LNMTC nặng (Vercellini P, 2006) (Barri 
PN, 2010). Tóm lại, những dữ kiện này cho thấy phẫu 
thuật nội soi là một giải pháp hiệu quả trong điều trị vô 
sinh do LNMTC mức độ trung bình và nặng. 
Những phụ nữ bị vô sinh và đau vùng chậu nặng, 
không đáp ứng với điều trị nội tiết hay có tổn thương 
chít hẹp ruột, việc cắt bỏ triệt để tổn thương lạc nội 
mạc kèm cắt bỏ một phần ruột và nối giúp tăng tỷ 
lệ có thai sau mổ (35%) so với chỉ cắt đơn thuần các 
tổn thương lạc nội mạc (21%) nhưng sự khác biệt này 
không có ý nghĩa thống kê (Stepniewska A, 2010) 
Điều đặc biệt cần lưu tâm là đánh giá khả năng dự trữ 
buồng trứng trước khi thực hiện nội soi ở những người 
vô sinh do có nhiều bằng chứng rằng việc phẫu thuật 
LNMTC góp phần giảm dự trữ buồng trứng do mất phần 
mô buồng trứng lành (Pellicano M, 2008) (Somigliana E, 
2012) (Streuli I, 2012). Việc đánh giá hình thái và chức 
năng vòi tử cung và buồng trứng khi kết thúc phẫu 
thuật nội soi có thể góp phần tiên lượng khả năng sinh 
sản sau mổ cho những bệnh nhân này (Adamson GD, 
2010). Nhận định những trường hợp LNMTC nào cần 
được phẫu thuật nên dựa vào một số yếu tố lâm sàng 
như vô sinh nguyên phát, thống kinh, có nốt ở tử cung-
cùng/túi cùng sau (Whitehill et al., 2012).
Việc chỉ định lặp lại phẫu thuật thường không cải 
thiện tỷ lệ có thai, thường chỉ đạt đến một nửa so với tỷ 
lệ sau lần mổ đầu tiên, thay vào đó chỉ định lặp lại IVF có  ... 
với 24%, p = 0,004) so với nhóm không phẫu thuật. Tuy 
nhiên, số trường hợp sinh sống không khác biệt giữa 
hai nhóm (Bianchi PH, 2009).
Nghiên cứu thuần tập hồi cứu của Papaleo và cộng 
sự nghiên cứu về ảnh hưởng của LNMTC sâu với khả 
năng đáp ứng buồng trứng trong kỹ thuật hỗ trợ sinh 
sản. Tổng số 51 trường hợp LNMTC độ III-IV chia thành 
hai nhóm qua phẫu thuật là LNMTC tại buồng trứng 
(n=27) và có xâm lấn sâu (n=24). Kết quả ghi nhận đáp 
ứng buồng trứng của nhóm xâm lấn sâu kém hơn đáng 
kể so với nhóm chỉ bị LNMTC ở buồng trứng. Hiệu quả 
phẫu thuật không cải thiện đáng kể khả năng đáp ứng 
buồng trứng trong IVF (Papaleo E, 2011).
Tóm lại, y văn hiện nay không có bằng chứng ủng 
hộ việc phẫu thuật cắt các nốt LNMTC sâu trước khi 
thực hiện hỗ trợ sinh sản ở những người vô sinh do 
LNMTC, tuy nhiên có thể chỉ định phẫu thuật để cải 
thiện triệu chứng đau.
Iv. Kết luận
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là một bệnh lý phụ 
khoa mãn tính khá phổ biến ở phụ nữ trong độ tuổi 
sinh sản. Mặc dù có đến 50% phụ nữ LNMTC bị vô 
sinh, thái độ xử trí các trường hợp này vẫn chưa có sự 
thống nhất hoàn toàn. Y học chứng cứ cho đến nay 
nhận thấy việc điều trị nội khoa ức chế chức năng 
buồng trứng (bằng Danazol, progestins, GnRH đồng 
vận hay viên tránh thai uống) đối với những trường 
hợp vô sinh do lạc nội mạc tử cung không phải là một 
giải pháp hiệu quả và không nên chỉ định đơn thuần 
hay phối hợp trước/sau mổ. Những phụ nữ bị LNMTC 
tối thiểu đến nhẹ, nội soi phẫu thuật có hiệu quả hơn 
so với nội soi chẩn đoán trong việc cải thiện tỷ lệ sinh 
sống. Các phương pháp điều trị khác trong vô sinh do 
LNMTC chưa thấy hiệu quả rõ ràng. Đối với sinh sản hỗ 
trợ, bệnh nhân vô sinh do LNMTC độ I/II, có thể được 
chỉ định kích thích buồng trứng kèm IUI trong vòng 
Tập 11, số 04
Tháng 12-2013
Tạp chí Phụ Sản 
13
Tạp Chí phụ sảN - 11(4), 06-14, 2013
6 tháng sau phẫu thuật để tăng tỷ lệ thai sinh sống. 
Nên chỉ định kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) cho những 
trường hợp vô sinh do LNMTC, đặc biệt là khi có ảnh 
hưởng đến vòi tử cung hay có kèm theo yếu tố nam 
hay thất bại với các phương pháp điều trị khác. Phẫu 
thuật nội soi bóc u LNMTC buồng trứng từ 3-6cm trước 
khi thực hiện hỗ trợ sinh sản có thể không hữu ích 
Tài liệu tham khảo
1. Adamson GD, K. S., Hummelshoj L. (2010). “Creating 
solutions in endometriosis: global collaboration through the World 
Endometriosis Research Foundation. .” J Endometriosis 2: 3–6.
2. Adamson GD, P. D. (2010). “Endometriosis fertility index: 
the new, validated endometriosis staging system. .” Fertil Steril 
94: 1609–1615.
3. Barnhart K, D.-S. R., Coutifaris C.. (2002). “ Effect of 
endometriosis on in vitro fertilization.” Fertil Steril 77: 1148-1155.
4. Barri PN, C. B., Tur R, Barri-Soldevila PN, Rodríguez I. 
(2010). “Endometriosis-associated infertility: surgery and IVF, a 
comprehensive therapeutic approach.” Reprod Biomed Online 
21: 179-185.
5. Barri, P. N., B. Coroleu, et al. (2010). “Endometriosis-associated 
infertility: surgery and IVF, a comprehensive therapeutic approach.” 
Reprod Biomed Online 21(2): 179-185.
6. Benaglia L, S. E., Iemmello R, Colpi E, Nicolosi AE, 
Ragni G. (2008). “Endometrioma and oocyte retrieval-
induced pelvic abscess: a clinical concern or an exceptional 
complication?” Fertil Steril. 89(5): 1263-1266. doi: 1210.1016/j.
fertnstert.2007.1205.1038. Epub 2008 Mar 1212.
7. Benaglia L, S. E., Santi G, Scarduelli C, Ragni G, Fedele L. 
(2011). “IVF and endometriosis-related symptom progression: 
insights from a prospective study.” Hum Reprod. 26(9): 2368-2372. 
doi: 2310.1093/humrep/der2208. Epub 2011 Jun 2329.
8. Benschop L, F. C., Van der Poel N, Heineman MJ. (2010). 
“Interventions for women with endometrioma prior to assisted 
reproductive technology. .” Cochrane Database Syst Rev 
11:CD008571.
9. Bianchi PH, P. R., Zanatta A, Alegretti JR, Motta EL, Serafini 
PC. (2009). “Extensive excision of deep infiltrative endometriosis 
before in vitro fertilization significantly improves pregnancy 
rates.” J Minim Invasive Gynecol. 16(2): 174-180. doi: 110.1016/j.
jmig.2008.1012.1009.
10. Bourdel, N., L. Dejou-Bouillet, et al. (2012). “[Endometriosis 
and postoperative infertility. A prospective study (Auvergne cohort 
of endometriosis)].” Gynecol Obstet Fertil 40(6): 337-343.
11. Chang FH, C. H., Soong YK, Chang MY, Lee CL, Lai YM. 
(1997). “Efficacy of isotopic 13CO2 laser laparoscopic evaporation 
in the treatment of infertile patients with minimal and mild 
endometriosis: a life table cumulative pregnancy rates study.” J Am 
Assoc Gynecol Laparosc. 4(2): 219-223.
12. Chatterjee, S., S. Dey, et al. (2012). “Pregnancy outcome 
in pre-operative danazol treatment followed by laparoscopic 
correction in infertility associated with endometriosis.” J Indian 
Med Assoc 110(10): 694-699.
13. Coccia ME, R. F., Gianfranco S. (2010). “Does controlled 
ovarian hyperstimulation in women with a history of endometriosis 
influence recurrence rate?” J Womens Health (Larchmt) 19(11):(11): 
2063-2069. doi: 2010.1089/jwh.2009.1914. Epub 2010 Sep 2011.
14. Collins JA, B. E., Wilan AR. (1995). “The prognosis for live 
birth among untreated infertile couples.” Fertil Steril. 64(1): 22-28.
15. CostelloM.F. (2004). “Systematic review of the treatment 
of ovulatory infertility with clomiphene citrate and intrauterine 
insemination.” Aust N Z J Obstet Gynaecol 44: 93-102.
16. D’Hooghe TM, D. B., Spiessens C, Meuleman C, Debrock 
S. (2006). “Is the endometriosis recurrence rate increased after 
ovarian hyperstimulation?” Fertil Steril. 86.(2): 283-290. Epub 
2006 Jun 2006.
17. Donnez, J., J. Squifflet, et al. (2002). “The efficacy of medical 
and surgical treatment of endometriosis-associated infertility and 
pelvic pain.” Gynecol Obstet Invest 54 Suppl 1: 2-7; discussion 7-10.
18. Flower A, L. J., Lewith G, Little P, Li Q. (2012). “Chinese herbal 
medicine for endometriosis. .” Cochrane Database Syst Rev 
2012(5:CD006568).
19. Furness S, Y. C., Farquhar C, Cheong YC. (2011). “Pre 
and post-operative medical therapy for endometriosis surgery. 
.” Cochrane Database of Systematic Reviews 2004, Updated 
2011(Issue 3): Art. No.: CD003678. DOI: 003610.001002/14651858.
CD14003678.pub14651852.
20. Giudice LC, K. L. (2004). “Endometriosis.” Lancet. 
364(9447): 789–799.
21. Grummer, R. (2013). “Translational animal models to 
study endometriosis-associated infertility.” Semin Reprod Med 
31(2): 125-132.
22. Guo SW, L. M., Shen F, Liu X. (2011). “Use of mifepristone to 
treat endometriosis: a review of clinical trials and trial-like studies 
conducted in China.” Womens Health (7:51-70.).
23. Hart RJ, H. M., Maouris P, BuckettW. , (2008). “Excisional 
surgery versus ablative surgery for ovarian endometriomata. 
.” Cochrane Database of Systematic Reviews 2008( Issue 2. ): 
Art. No.: CD004992. DOI: 004910.001002/14651858.CD14004992.
pub14651853.
24. Hughes E, B. J., Collins JJ, Farquhar C, Fedorkow DM, 
Vanderkerchove P (2010). “Ovulation suppression for endometriosis 
for women with subfertility.” Cochrane Database of Systematic 
Reviews(3): Art. No.: CD000155. DOI: 000110.001002/14651858.
CD14000155.pub14651852.
25. Hughes EG, F. D., Cllins JA. (1993). “A quantitative overview 
of controlled trials in endometriosis-associated infertility.” Fertil 
Steril. 59:: 963-970.
26. Jacobson TZ, D. J., Barlow D, Farquhar C, Koninckx PR, 
Olive D. ,. (2010). “Laparoscopic surgery for subfertility associated 
with endometriosis. Cochrane Database of Systematic Reviews 
2010.” ( Issue 1): Art. No.: CD001398. DOI: 001310.001002/14651858.
CD14001398.pub14651852.
27. Johnson NP, F. C., Hadden WE, Suckling J, Yu Y, Sadler L. . 
(2004). “The FLUSH trial-flushing with lipiodol for unexplained (and 
endometriosis-related) subfertility by hysterosalpingography: a 
randomized trial.” Hum Reprod(19): 2043-2051.
28. Kennedy S, B. A., Chapron C, D’Hooghe T, Dunselman G, 
trong việc cải thiện tỷ lệ thành công. Với những trường 
hợp LNMTC sâu, không có bằng chứng ủng hộ việc 
phẫu thuật cắt các nốt LNMTC sâu trước khi thực hiện 
hỗ trợ sinh sản ở những người vô sinh do LNMTC. Vẫn 
còn nhiều vấn đề liên quan đến hiệu quả điều trị khả 
năng sinh sản ở phụ nữ có LNMTC cần được nghiên 
cứu với các thiết kế chất lượng cao hơn để khẳng định.
Cao NgọC ThàNh, Lê MiNh TâMtổng quan
Tập 11, số 04
Tháng 12-2013
Tạp chí Phụ Sản 
14
Saridogan E, et al. (2005). “ESHRE guideline on the diagnosis and 
management of endometriosis.” Hum Reprod. 20(10): 2698-2704.
29. Kim CH, C. Y., Mok JE. (1996). “Simplified ultralong 
protocol of gonadotrophin-releasing hormone agonist for 
ovulation induction with intrauterine insemination in patients 
with endometriosis.” Hum Reprod. 11(2): 398-402.
30. Koninckx PR, U. A., Adamyan L, Wattiez A, Donnez 
J. (2012). “Deep endometriosis: definition, diagnosis, and 
treatment. .” Fertil Steril 98: 564-571.
31. Lin, X. N., M. L. Wei, et al. (2012). “Outcome of in vitro 
fertilization in endometriosis-associated infertility: a 5-year 
database cohort study.” Chin Med J (Engl) 125(15): 2688-2693.
32. Liu X, G. S. (2008). “A pilot study on the off-label use of 
valproic acid to treat adenomyosis.” Fertil Steril (89): 246-250.
33. Lu D, S. H., Li Y, Clarke J, Shi G. (2012). “Pentoxifylline 
for endometriosis.” Cochrane Database Syst Rev 
2012(1:CD007677.).
34. Mateo Sanez, H. A., E. Mateo Sanez, et al. (2012). 
“[Treatment of patients with endometriosis and infertility].” 
Ginecol Obstet Mex 80(11): 705-711.
35. Mier-Cabrera J, G.-G. M., De la Jara-Diaz J, Perichart-
Perera O, Vadillo-Ortega F, Hernandez-Guerrero C. (2008). 
“Effect of vitamins C and E supplementation on peripheral 
oxidative stress markers and pregnancy rate in women with 
endometriosis. .” Int J Gynaecol Obstet (100:252-256.).
36. Moravek MB, W. E., Lebovic DI. (2009). “Thiazolidinediones 
as therapy for endometriosis: a case series. .” Gynecol Obstet 
Invest 68: 167-170.
37. Nulsen JC, W. S., Dumez S, Metzger DA. (1993). “A 
randomized and longitudinal-study of human menopausal 
gonadotropin with intrauterine insemination in the treatment 
of infertility. .” Obstet Gynecol 82: 780-786.
38. Omland AK, T. T., Dale PO, Abyholm T. (1998). “Artificial 
insemination by husband in unexplained infertility compared 
with infertility associated with peritoneal endometriosis.” Hum 
Reprod. 13(9): 2602-2605.
39. Opøien HK, F. P., Byholm T, Tanbo T. (2011). “Complete 
surgical removal of minimal and mild endometriosis improves 
outcome of subsequent IVF/ICSI treatment.” Reprod Biomed 
Online. 23(3): 389-395. doi: 310.1016/j.rbmo.2011.1006.1002. Epub 
2011 Jun 1015.
40. Ozkan S, M. W., Arici A. (2008). “Endometriosis and 
infertility: epidemiology and evidence-based treatments. .” 
Annals of New York Academy of Science(1127): 92-100.
41. Pabuccu R, O. G., Kaya C. (2007). “GnRH agonist 
and antagonist protocols for stage I-II endometriosis and 
endometrioma in in vitro fertilization/intracytoplasmic sperm 
injection cycles.” Fertil Steril. 88(4): :832-839.
42. Papaleo E, O. J., Viganò P, Brigante C, Marsiglio E, De 
Michele F, Candiani M. (2011). “Deep pelvic endometriosis 
negatively affects ovarian reserve and the number of oocytes 
retrieved for in vitro fertilization.” Acta Obstet Gynecol Scand. 
90(8): 878-884. doi: 810.1111/j.1600-0412.2011.01161.x. Epub 02011 
Jun 01114.
43. Pellicano M, B. S., Guida M, Bifulco G, Di Spiezio 
Sardo A, Cirillo D, Nappi C. (2008). “Ovarian endometrioma: 
postoperative adhesions following bipolar coagulation and 
suture.” Fertil Steril(89:): 796–799.
44. Reilly SJ, S. A., Prentice LR, Johnson NP. (2011). “The 
IVF-LUBE trial: lipiodol uterine bathing effect for enhancing 
the results of in vitro fertilisation, a pilot randomised trial.” 11th 
World Congress on Endometriosis.
45. Sallam HN, G.-V. J., Dias S, Arici A, Abou-Setta AM. 
(2006). “Long-term pituitary down-regulation before in vitro 
fertilization (IVF) for women with endometriosis.” Cochrane 
Database of Systematic Reviews (Issue 1. ): Art. No.: CD004635. 
DOI:004610.001002/14651858.CD14004635.pub14651852.
46. Soliman S, D. S., Collins J, Jarrell J. . (1993). “A randomized 
trial of in vitro fertilization versus conventional treatment for 
infertility.” Fertil Steril 59: 1239-1244.
47. Somigliana E, B. N., Benaglia L, Viganò P, Vercellini P, 
Fedele L. (2012). “Surgical excision of endometriomas and 
ovarian reserve: a systematic review on serum antimüllerian 
hormone level modifications.” Fertil Steril(98): 1531-1538.
48. Stepniewska A, P. P., Guerriero M, Scioscia M, Ruffo 
G, Minelli L. (2010). “Colorectal endometriosis: benefits of 
long-term follow-up in patients who underwent laparoscopic 
surgery.” Fertil Steril. 93((7)): :2444-2446. doi: 2410.1016/j.
fertnstert.2009.2408.2029.
49. Streuli I, d. Z. D., Gayet V, Santulli P, Bijaoui G, de Mouzon 
J, Chapron C. (2012). “ In women with endometriosis anti-
Mullerian hormone levels are decreased only in those with 
previous endometrioma surgery. .” Hum Reprod(27): 3294–3303.
50. Subit M, G. P., Broce M, Seybold D, Randall D. (2011). 
“Endometriosis associated infertility: double intrauterine 
insemination improves fecundity in patients positive for 
antiendometrial antibodies. .” Am J Reprod Immunol 66: 100-107.
51. Tummon I, A. L., Martin J, Tulandi T. (1997). “Randomized 
controlled trial of superovulation and insemination for 
infertility associated with minimal or mild endometriosis. .” 
Fertil Steril 68: 8-12.
52. Vercellini P, P. G., De Giorgi O, Daguati R, Pasin R, 
Crosignani PG. (2006). “Reproductive performance in 
infertile women with rectovaginal endometriosis: is surgery 
worthwhile?” Am J Obstet Gynecol. 2006 195:((5)): 1303-1310. 
Epub 2006 May 1316.
53. Vercellini P, S. E., Viganò P, De Matteis S, Barbara G, Fedele 
L. (2009). “The effect of second-line surgery on reproductive 
performance of women with recurrent endometriosis: a 
systematic review.” Acta Obstet Gynecol Scand (88): 1074-1082.
54. Werbrouck, E., C. Spiessens, et al. (2006). “No difference in 
cycle pregnancy rate and in cumulative live-birth rate between 
women with surgically treated minimal to mild endometriosis 
and women with unexplained infertility after controlled ovarian 
hyperstimulation and intrauterine insemination.” Fertil Steril 
86(3): 566-571.
55. Whitehill, K., P. J. Yong, et al. (2012). “Clinical predictors of 
endometriosis in the infertility population: is there a better way 
to determine who needs a laparoscopy?” J Obstet Gynaecol 
Can 34(6): 552-557.
56. Yang, D. Z. (2013). “[Controversies in the management of 
endometriosis and infertility].” Zhonghua Fu Chan Ke Za Zhi 
48(1): 3-5.
57. Zegers-Hochschild F, A. G., de Mouzon J, Ishihara 
O, Mansour R, Nygren K, Sullivan E, Vanderpoel S (2009). 
“International Committee for Monitoring Assisted Reproductive 
Technology (ICMART) and the World Health Organization 
(WHO) revised glossary of ART terminology, 2009.” Fertil Steril. 
92((5)): 1520-1524. doi: 1510.1016/j.fertnstert.2009.1509.1009.

File đính kèm:

  • pdfcap_nhat_xu_tri_lac_noi_mac_tu_cung_trong_vo_sinh_dua_tren_y.pdf