Cập nhật xử trí lạc nội mạc tử cung trong vô sinh dựa trên y học chứng cứ
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là một bệnh lý phụ
khoa mãn tính khá phổ biến, gặp ở 10% phụ nữ độ
tuổi sinh sản, nguyên nhân và bệnh sinh vẫn chưa rõ,
với triệu chứng nổi bật là đau và vô sinh. Mặc dù có
đến 50% phụ nữ LNMTC bị vô sinh, thái độ xử trí các
trường hợp này vẫn chưa có sự thống nhất hoàn toàn.
Phương pháp điều trị được lựa chọn có thể đơn thuần
hay phối hợp giữa nội khoa, phẫu thuật, hỗ trợ sinh
sản hay các phương pháp khác. Y học chứng cứ cho
đến nay nhận thấy việc điều trị nội khoa ức chế chức
năng buồng trứng (bằng Danazol, progestins, GnRH
đồng vận hay viên tránh thai uống) đối với những
trường hợp vô sinh do lạc nội mạc tử cung không phải
là một giải pháp hiệu quả và không nên chỉ định đơn
thuần hay phối hợp trước/sau mổ. Những phụ nữ bị
LNMTC tối thiểu đến nhẹ, nội soi phẫu thuật có hiệu
quả hơn so với nội soi chẩn đoán trong việc cải thiện
tỷ lệ sinh sống. Những phụ nữ LNMTC trung bình đến
nặng, có thể cân nhắc nội soi phẫu thuật thay vì chỉ
chờ đợi, nhằm giúp tăng tỷ lệ có thai tự nhiên. Những
phụ nữ có u LNMTC ở buồng trứng, khi phẫu thuật
cần cắt bỏ vỏ khối u thay vì chỉ dẫn lưu và đốt điện
thành u, để có thể tăng tỷ lệ có thai cộng dồn. Cần
lưu ý nguy cơ giảm khả năng dự trữ buồng trứng hay
thậm chí mất buồng trứng do phẫu thuật và cân nhắc
lợi ích của lặp lại phẫu thuật trong từng trường hợp cụ
thể. Các phương pháp điều trị khác trong vô sinh do
LNMTC (dung dịch cản quang lipiodol, Pentoxifylline,
mifepristone, thảo mộc, Vitamin C, E) chưa thấy hiệu
quả rõ ràng. Đối với sinh sản hỗ trợ, bệnh nhân vô
sinh do LNMTC độ I/II, có thể được chỉ định kích thích
buồng trứng kèm IUI trong vòng 6 tháng sau phẫu
thuật để tăng tỷ lệ thai sinh sống hơn là chờ đợi hay
chỉ điều trị IUI đơn thuần. Nên chỉ định kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản (ART) cho những trường hợp vô sinh
do LNMTC, đặc biệt là khi có ảnh hưởng đến vòi tử
cung hay có kèm theo yếu tố nam hay thất bại với các
phương pháp điều trị khác. Phác đồ GnRH đồng vận
hay đối vận không có khác biệt ở bệnh nhân LNMTC
tối thiểu/nhẹ hay có u lạc nội mạc buồng trứng.
Không có bằng chứng tăng tỷ lệ tái phát LNMTC sau
khi kích thích buồng trứng làm IVF/ICSI. Dùng kháng
sinh dự phòng vào thời điểm chọc hút trứng ở bệnh
nhân LNMTC là cần thiết. Có thể chỉ định đồng vận
GnRH từ 3-6 tháng trước khi thực hiện hỗ trợ sinh sản
cho những phụ nữ vô sinh bị LNMTC để cải thiện tỷ
lệ có thai lâm sàng. Phẫu thuật nội soi bóc u LNMTC
buồng trứng từ 3-6cm trước khi thực hiện hỗ trợ
sinh sản có thể không hữu ích trong việc cải thiện
tỷ lệ thành công. Với những trường hợp LNMTC sâu,
không có bằng chứng ủng hộ việc phẫu thuật cắt các
nốt LNMTC sâu trước khi thực hiện hỗ trợ sinh sản ở
những người vô sinh do LNMTC, tuy nhiên có thể chỉ
định phẫu thuật để cải thiện triệu chứng đau.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cập nhật xử trí lạc nội mạc tử cung trong vô sinh dựa trên y học chứng cứ
Cao NgọC ThàNh, Lê MiNh TâMtổng quan Tập 11, số 04 Tháng 12-2013 Tạp chí Phụ Sản 06 Cao Ngọc Thành, Lê Minh Tâm Trường Đại học Y Dược Huế Tác giả liên hệ (Corresponding author): Lê Minh Tâm, leminhtam.vn@gmail.com Ngày nhận bài (received) 04/8/2013. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 25/8/2013. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 30/10/2013 Tóm tắt Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là một bệnh lý phụ khoa mãn tính khá phổ biến, gặp ở 10% phụ nữ độ tuổi sinh sản, nguyên nhân và bệnh sinh vẫn chưa rõ, với triệu chứng nổi bật là đau và vô sinh. Mặc dù có đến 50% phụ nữ LNMTC bị vô sinh, thái độ xử trí các trường hợp này vẫn chưa có sự thống nhất hoàn toàn. Phương pháp điều trị được lựa chọn có thể đơn thuần hay phối hợp giữa nội khoa, phẫu thuật, hỗ trợ sinh sản hay các phương pháp khác. Y học chứng cứ cho đến nay nhận thấy việc điều trị nội khoa ức chế chức năng buồng trứng (bằng Danazol, progestins, GnRH đồng vận hay viên tránh thai uống) đối với những trường hợp vô sinh do lạc nội mạc tử cung không phải là một giải pháp hiệu quả và không nên chỉ định đơn thuần hay phối hợp trước/sau mổ. Những phụ nữ bị LNMTC tối thiểu đến nhẹ, nội soi phẫu thuật có hiệu quả hơn so với nội soi chẩn đoán trong việc cải thiện tỷ lệ sinh sống. Những phụ nữ LNMTC trung bình đến nặng, có thể cân nhắc nội soi phẫu thuật thay vì chỉ chờ đợi, nhằm giúp tăng tỷ lệ có thai tự nhiên. Những phụ nữ có u LNMTC ở buồng trứng, khi phẫu thuật cần cắt bỏ vỏ khối u thay vì chỉ dẫn lưu và đốt điện thành u, để có thể tăng tỷ lệ có thai cộng dồn. Cần lưu ý nguy cơ giảm khả năng dự trữ buồng trứng hay thậm chí mất buồng trứng do phẫu thuật và cân nhắc lợi ích của lặp lại phẫu thuật trong từng trường hợp cụ thể. Các phương pháp điều trị khác trong vô sinh do LNMTC (dung dịch cản quang lipiodol, Pentoxifylline, mifepristone, thảo mộc, Vitamin C, E) chưa thấy hiệu quả rõ ràng. Đối với sinh sản hỗ trợ, bệnh nhân vô sinh do LNMTC độ I/II, có thể được chỉ định kích thích buồng trứng kèm IUI trong vòng 6 tháng sau phẫu thuật để tăng tỷ lệ thai sinh sống hơn là chờ đợi hay chỉ điều trị IUI đơn thuần. Nên chỉ định kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) cho những trường hợp vô sinh do LNMTC, đặc biệt là khi có ảnh hưởng đến vòi tử cung hay có kèm theo yếu tố nam hay thất bại với các phương pháp điều trị khác. Phác đồ GnRH đồng vận hay đối vận không có khác biệt ở bệnh nhân LNMTC tối thiểu/nhẹ hay có u lạc nội mạc buồng trứng. Không có bằng chứng tăng tỷ lệ tái phát LNMTC sau khi kích thích buồng trứng làm IVF/ICSI. Dùng kháng sinh dự phòng vào thời điểm chọc hút trứng ở bệnh nhân LNMTC là cần thiết. Có thể chỉ định đồng vận GnRH từ 3-6 tháng trước khi thực hiện hỗ trợ sinh sản cho những phụ nữ vô sinh bị LNMTC để cải thiện tỷ lệ có thai lâm sàng. Phẫu thuật nội soi bóc u LNMTC buồng trứng từ 3-6cm trước khi thực hiện hỗ trợ sinh sản có thể không hữu ích trong việc cải thiện tỷ lệ thành công. Với những trường hợp LNMTC sâu, không có bằng chứng ủng hộ việc phẫu thuật cắt các nốt LNMTC sâu trước khi thực hiện hỗ trợ sinh sản ở những người vô sinh do LNMTC, tuy nhiên có thể chỉ định phẫu thuật để cải thiện triệu chứng đau. Summary Updates treatment of endometriosis associated infertility based on evidence-based medicine Endometriosis is a quite common chronic gynecological disease, affecting up to 10% of reproductive-aged women, the cause and pathogenesis is still unclear, with prominent symptoms are pain and infertility. Up to 50% of women with endometriosis are infertile, and agreement about treatment options has been difficult to establish. The treatment can be selected alone or in combination between medical therapy, surgery, assisted reproduction, or other methods. Evidence-based medicine so far found the medical therapy of ovarian function suppression (such as Danazol, progestins, GnRH agonist or oral contraceptive pills) for endometriosis is not an effective solution and should not be indicated alone or combination pre/post operation. In women with minimal/mild endometriosis, operative laparoscopy is more effective than diagnostic laparoscopy in improving live birth rate. Women with moderate to severe endometriosis, operative laparoscopy should be considered instead of expectant management to increase spontaneous pregnancy rate. Women with endometrioma, surgeons should perform excision of the endometrioma capsule instead of drainage and electrocoagulation of endometrioma wall, to increase the cumulative pregnancy rate. It should be noted the risk of reduced ovarian reserve or CẬP NHẬT XỬ TRÍ LẠC NỘI MẠC TỬ CUNG TRONG VÔ SINH DỰA TRÊN Y HỌC CHỨNG CỨ Tập 11, số 04 Tháng 12-2013 Tạp chí Phụ Sản 07 Tạp Chí phụ sảN - 11(4), 06-14, 2013 even lost of ovary due to surgery and consider the benefits of repeat surgery in specific case. The other methods of infertility treatment (lipiodol contrast solution, Pentoxifylline, mifepristone, herbs, vitamins C, E) show no clear effect. For medically assisted reproduction, infertile patients with endometriosis level I/II, can be indicated with IUI with controlled ovarian stimulation within 6 months after surgery to increase the live birth rate instead of expectant management or IUI alone. Assisted reproduction techniques (ART) should be indicated for infertility with endometriosis, especially when fallopian tubes are affected or with male factor or failure with other treatments. GnRH agonist or GnRH antagonist protocol show no difference in patients with minimal / mild endometriosis or endometrioma. No evidence of increased recurrence rate after controlled ovarian stimulation for IVF / ICSI. Use of prophylactic antibiotics at the time of ovum retrieval in patients with endometrioma are needed. GnRHagonist can be used 3-6 months before ART for infertile women with endometriosis to improve clinical pregnancy rates. Laparoscopy for 3-6cm endometrioma before ART may not be useful in improving the success rate. With deep nodular endometriosis, effectiveness of the excision before assisted reproduction is not well established with regard to reproductive outcome, but surgery may be indicated to improve pain. I. Giới thiệu Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) được định nghĩa là sự hiện diện của mô tương tự nội mạc tử cung (các tuyến và mô đệm) bên ngoài tử cung, gây ra phản ứng viêm mạn tính, mô sẹo, và dính, có thể làm biến dạng giải phẫu vùng chậu của người phụ nữ (Kennedy S, 2005). LNMTC chủ yếu được tìm thấy ở phụ nữ trẻ, nhưng không liên quan đến chủng tộc hoặc xã hội. LNMTC là một bệnh lý khá phổ biến, xảy ra ở khoảng 10% dân số nữ nói chung (Ozkan S, 2008); với những phụ nữ có triệu chứng đau vùng chậu, vô sinh, hoặc cả hai, tần suất LNMTC là 35 -50% (Giudice LC, 2004). Khoảng 25 đến 50% phụ nữ vô sinh có LNMTC, và 30 - 50% phụ nữ có LNMTC bị vô sinh (Adamson GD, 2010). Lạc nội mạc tử cung là bệnh lý mãn tính với tỉ lệ tái phát cao. Nguyên nhân và sinh bệnh học vẫn còn chưa rõ ràng (Grummer, 2013). Mục đích chính của điều trị bao gồm giảm các triệu chứng, ức chế các mảng ghép lạc nội mạc, dự phòng xuất hiện các ổ mới mô nội mạc tử cung lạc chỗ. Điều trị hiện tại chủ yếu tập trung vào xử trí các triệu chứng lâm sàng của bệnh chứ không phải loại trừ căn bệnh này. Kết hợp cụ thể nội khoa, điều trị phẫu thuật, và tâm lý có thể cải thiện chất lượng cuộc sống của phụ nữ với LNMTC (Mateo Sanez et al., 2012) Mối quan hệ giữa LNMTC và vô sinh được tranh luận trong nhiều năm. Với các cặp vợ chồng bình thường, khả năng sinh sản trong khoảng 15-20% mỗi tháng và giảm dần theo tuổi. Phụ nữ bị LNMTC có xu hướng giảm khả năng sinh sản hàng tháng còn khoảng 2-10% (Hughes EG, 1993) và liên quan đến tỷ lệ sinh sống thấp hơn (Collins JA, 1995). Mặc dù có nhiều tiến bộ đáng kể trong lĩnh vực chẩn đoán lâm sàng và cận lâm sàng, hiểu hiết về mối liên hệ giữa LNMTC và vô sinh vẫn còn nhiều hạn chế (Grummer, 2013). Cho đến nay, chưa có chỉ định điều trị cụ thể đối với mô nội mạc tử cung lạc chỗ, bằng phương pháp nội khoa hoặc phẫu thuật, được chứng minh sẽ cải thiện khả năng sinh sản cho các trường hợp vô sinh do LNMTC. Các phương pháp trị liệu thường được chọn lựa hiện nay xoay quanh điều trị nội tiết, phẫu thuật hay chỉ định sinh sản hỗ trợ như kích thích buồng trứng, thụ tinh trong ống nghiệm. Tuy nhiên, chọn lựa phương pháp cụ thể cho từng trường hợp vô sinh do LNMTC vẫn là một thách thức cho các nhà lâm sàng (Mateo Sanez et al., 2012) (Yang, 2013). Bài tổng quan này nhằm đánh giá hiệu quả của các phương pháp điều trị khác nhau ở bệnh nhân vô sinh do LNMTC. Các nghiên cứu y văn được tìm kiếm dựa trên các chỉ số tỷ lệ sinh sống, tỷ lệ đa thai, tỷ lệ sẩy thai, thai ngoài tử cung và tác dụng không mong muốn của điều trị. Trong đó tỷ lệ trẻ sinh sống được xem như là thông số có giá trị nhất. II. Điều trị vô sinh do lạc nội mạc tử cung 2.1. Điều trị nội khoa vô sinh do LNMTC Các thuốc nội tiết ức chế phóng noãn về lý thuyết có thể ức chế sự phát triển mô lạc nội mạc tử cung – là mô phụ thuốc estrogen. Một số loại thuốc như danazol, progestins, thuốc viên tránh thai và GnRH đồng vận vì thế được nghiên cứu cho các trường hợp vô sinh do LNMTC với mong muốn cải thiện tỷ lệ có thai và tỷ lệ sinh sống. Bài nghiên cứu trên thư viện Cochrane của Hughes và cộng sự (Hughes E, 2010) đã phân tích 25 thử nghiệm ngẫu nhiên, so sánh các thuốc ức chế phóng noãn với giả dược hoặc không điều trị gì. Kết quả chung ghi nhận tỷ số chênh (OR) có thai sau ức chế phóng noãn so với giả dược là 0,97 (CI 0.68 - 1.34, p = 0.8) với mọi phụ nữ và 1.02 (95% CI 0.70 - 1.52, p = Cao NgọC ThàNh, Lê MiNh TâMtổng quan Tập 11, số 04 Tháng 12-2013 Tạp chí Phụ Sản 08 0.82) ở phụ nữ vô sinh. Không có bằng chứng có lợi của việc điều trị. Trong 191 đối tượng nghiên cứu, tỷ số chênh có thai sau tất cả các loại thuốc so với danazol là 1.38 (95% CI 1.05- 1.82, p = 0.02) với mọi phụ nữ và 1.37 (95% CI 0.94 - 1.99, p = 0.10) ở phụ nữ vô sinh. Khi so sánh trực tiếp GnRHa và danazol, OR là 1.45 (95% CI 1.08 - 1.95, p = 0.01) cho mọi phụ nữ và 1.63 (95% CI 1.12 - 2.37, p = 0.01) ở người vô sinh với ưu thế thuộc về GnRHa. Không thấy hiệu quả rõ ràng, khi so sánh GnRHa với thuốc tránh thai uống (n=86; OR 0.93, 95% CI 0.41 - 2.12, p = 0.86) với mọi phụ nữ và OR 0.83, 95% CI 0.34 - 2.05, p = 0.69 ở phụ nữ vô sinh. Kết luận của tác giả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ có thai giữa các loại thuốc được chỉ định. Tuy nhiên, sự so sánh như thế không đánh giá trực tiếp liệu việc ức chế buồng trứng tự nó là một can thiệp hiệu quả mà chỉ thể hiện sự không khác biệt có ý nghĩa giữa các thuốc đối với tỷ lệ sinh sống (Hughes E, 2010). Như vậy rõ ràng việc điều trị nội khoa ức chế chức năng buồng trứng (bằng Danazol, progestins, GnRH đồng vận hay viên tránh thai uống) đối với những trường hợp vô sinh do lạc nội mạc tử cung không phải là một giải pháp hiệu quả và không nên chỉ định đơn thuần. 2.2. Điều trị phẫu thuật trong vô sinh do LNMTC Phẫu thuật nội soi thường chỉ định trong trường hợp LNMTC nhằm mục đích lấy bỏ tổn thương LNMTC và phục hồi giải phẫu vùng chậu. Nghiên cứu tổng quan hệ thống của Jacobson TZ (Jacobson TZ, 2010) so sánh hiệu quả phẫu thuật nội soi nhằm cải thiện khả năng sinh sản ở người có LNMTC. Những bệnh nhân có LNMTC mức độ tối thiểu và nhẹ, được đánh giá sau phẫu thuật về tỷ lệ sinh sống và thai diễn tiến sau 20 tuần. Kết quả ghi nhận nội soi phẫu thuật có ưu thế hơn so với nội soi chẩn đoán về tỷ lệ thai lâm sàng với OR = 1.66 (95% Cl 1.09 - 2.51). Như vậy, những bệnh nhân LNMTC mức độ tối thiểu và nhẹ theo phân loại rAFS, nội soi phẫu thuật và gỡ dính có hiệu quả làm tăng tỷ lệ sinh sống khi so với nội soi chẩn đoán (Jacobson TZ, 2010). Nghiên cứu tiến cứu theo dõi dọc trên 173 bệnh nhân đã nhận thấy tỷ lệ có thai chung sau phẫu thuật LNMTC là 48%, trong đó 47% có thai tự nhiên sau 6 tháng. Trong số 63 trường hợp thực hiện hỗ trợ sinh sản, 25 trường hợp thành công (tỷ lệ 39.7% trong vòng 10 tháng). Nghiên cứu khẳng định lợi ích của phẫu thuật LNMTC đối với khả năng sinh sản và nên chỉ định hỗ trợ sinh sản nếu không có thai tự nhiên trong vòng từ 6-12 tháng sau phẫu thuật (Bourdel et al., 2012). Với những phụ nữ bị LNMTC tối thiểu hoặc nhẹ mong muốn có thai, hiệu quả của những phương pháp phẫu thuật khác nhau không rõ ràng. Có bằng chứng ít ỏi rằng phụ nữ LNMTC có thai cộng dồn sau 36 tháng cao hơn khi điều trị hóa hơi laser CO2 (87%) so với điều trị đốt điện đơn cực (71%), bằng nội soi chẩn đoán (65%), hoặc nội soi chẩn đoán có kèm 3 tháng danazol 800mg/ngày sau mổ (63%) (Chang FH, 1997) Những bệnh nhân có khối u LNMTC ở buồng trứng được chỉ định phẫu thuật vì lý do vô sinh hay do đau, việc cắt bỏ khối u làm tăng khả năng có thai tự nhiên sau phẫu thuật khi so sánh với xẻ dẫn lưu hay đốt điện thành khối u (Hart RJ, 2008). Mặc dù nghiên cứu thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên chưa chứng minh được lợi ích của việc cắt bỏ so với đốt khối u, khuyến cáo cho đến nay vẫn nên cắt bỏ tổn thương đặc biệt là các tổn thương sâu (Hart RJ, 2008Koninckx PR, 2012) Những phụ nữ LNMTC ở trực tràng-âm đạo đã được phẫu thuật, tỷ lệ có thai tự nhiên cộng dồn trong 24 tháng là 44,9% không khác biệt so với nhóm không phẫu thuật (46,8%)(Vercellini P, 2006). Tuy nhiên, những trường hợp LNMTC mức độ trung bình và nặng đã được phẫu thuật nội soi cắt bỏ và gỡ dính, tỷ lệ có thai tự nhiên cộng dồn trong vòng 3 năm sau phẫu thuật được báo cáo từ 46-77% với LNMTC trung bình và từ 44-74% với LNMTC nặng (Vercellini P, 2006) (Barri PN, 2010). Tóm lại, những dữ kiện này cho thấy phẫu thuật nội soi là một giải pháp hiệu quả trong điều trị vô sinh do LNMTC mức độ trung bình và nặng. Những phụ nữ bị vô sinh và đau vùng chậu nặng, không đáp ứng với điều trị nội tiết hay có tổn thương chít hẹp ruột, việc cắt bỏ triệt để tổn thương lạc nội mạc kèm cắt bỏ một phần ruột và nối giúp tăng tỷ lệ có thai sau mổ (35%) so với chỉ cắt đơn thuần các tổn thương lạc nội mạc (21%) nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (Stepniewska A, 2010) Điều đặc biệt cần lưu tâm là đánh giá khả năng dự trữ buồng trứng trước khi thực hiện nội soi ở những người vô sinh do có nhiều bằng chứng rằng việc phẫu thuật LNMTC góp phần giảm dự trữ buồng trứng do mất phần mô buồng trứng lành (Pellicano M, 2008) (Somigliana E, 2012) (Streuli I, 2012). Việc đánh giá hình thái và chức năng vòi tử cung và buồng trứng khi kết thúc phẫu thuật nội soi có thể góp phần tiên lượng khả năng sinh sản sau mổ cho những bệnh nhân này (Adamson GD, 2010). Nhận định những trường hợp LNMTC nào cần được phẫu thuật nên dựa vào một số yếu tố lâm sàng như vô sinh nguyên phát, thống kinh, có nốt ở tử cung- cùng/túi cùng sau (Whitehill et al., 2012). Việc chỉ định lặp lại phẫu thuật thường không cải thiện tỷ lệ có thai, thường chỉ đạt đến một nửa so với tỷ lệ sau lần mổ đầu tiên, thay vào đó chỉ định lặp lại IVF có ... với 24%, p = 0,004) so với nhóm không phẫu thuật. Tuy nhiên, số trường hợp sinh sống không khác biệt giữa hai nhóm (Bianchi PH, 2009). Nghiên cứu thuần tập hồi cứu của Papaleo và cộng sự nghiên cứu về ảnh hưởng của LNMTC sâu với khả năng đáp ứng buồng trứng trong kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Tổng số 51 trường hợp LNMTC độ III-IV chia thành hai nhóm qua phẫu thuật là LNMTC tại buồng trứng (n=27) và có xâm lấn sâu (n=24). Kết quả ghi nhận đáp ứng buồng trứng của nhóm xâm lấn sâu kém hơn đáng kể so với nhóm chỉ bị LNMTC ở buồng trứng. Hiệu quả phẫu thuật không cải thiện đáng kể khả năng đáp ứng buồng trứng trong IVF (Papaleo E, 2011). Tóm lại, y văn hiện nay không có bằng chứng ủng hộ việc phẫu thuật cắt các nốt LNMTC sâu trước khi thực hiện hỗ trợ sinh sản ở những người vô sinh do LNMTC, tuy nhiên có thể chỉ định phẫu thuật để cải thiện triệu chứng đau. Iv. Kết luận Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là một bệnh lý phụ khoa mãn tính khá phổ biến ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Mặc dù có đến 50% phụ nữ LNMTC bị vô sinh, thái độ xử trí các trường hợp này vẫn chưa có sự thống nhất hoàn toàn. Y học chứng cứ cho đến nay nhận thấy việc điều trị nội khoa ức chế chức năng buồng trứng (bằng Danazol, progestins, GnRH đồng vận hay viên tránh thai uống) đối với những trường hợp vô sinh do lạc nội mạc tử cung không phải là một giải pháp hiệu quả và không nên chỉ định đơn thuần hay phối hợp trước/sau mổ. Những phụ nữ bị LNMTC tối thiểu đến nhẹ, nội soi phẫu thuật có hiệu quả hơn so với nội soi chẩn đoán trong việc cải thiện tỷ lệ sinh sống. Các phương pháp điều trị khác trong vô sinh do LNMTC chưa thấy hiệu quả rõ ràng. Đối với sinh sản hỗ trợ, bệnh nhân vô sinh do LNMTC độ I/II, có thể được chỉ định kích thích buồng trứng kèm IUI trong vòng Tập 11, số 04 Tháng 12-2013 Tạp chí Phụ Sản 13 Tạp Chí phụ sảN - 11(4), 06-14, 2013 6 tháng sau phẫu thuật để tăng tỷ lệ thai sinh sống. Nên chỉ định kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) cho những trường hợp vô sinh do LNMTC, đặc biệt là khi có ảnh hưởng đến vòi tử cung hay có kèm theo yếu tố nam hay thất bại với các phương pháp điều trị khác. Phẫu thuật nội soi bóc u LNMTC buồng trứng từ 3-6cm trước khi thực hiện hỗ trợ sinh sản có thể không hữu ích Tài liệu tham khảo 1. Adamson GD, K. S., Hummelshoj L. (2010). “Creating solutions in endometriosis: global collaboration through the World Endometriosis Research Foundation. .” J Endometriosis 2: 3–6. 2. Adamson GD, P. D. (2010). “Endometriosis fertility index: the new, validated endometriosis staging system. .” Fertil Steril 94: 1609–1615. 3. Barnhart K, D.-S. R., Coutifaris C.. (2002). “ Effect of endometriosis on in vitro fertilization.” Fertil Steril 77: 1148-1155. 4. Barri PN, C. B., Tur R, Barri-Soldevila PN, Rodríguez I. (2010). “Endometriosis-associated infertility: surgery and IVF, a comprehensive therapeutic approach.” Reprod Biomed Online 21: 179-185. 5. Barri, P. N., B. Coroleu, et al. (2010). “Endometriosis-associated infertility: surgery and IVF, a comprehensive therapeutic approach.” Reprod Biomed Online 21(2): 179-185. 6. Benaglia L, S. E., Iemmello R, Colpi E, Nicolosi AE, Ragni G. (2008). “Endometrioma and oocyte retrieval- induced pelvic abscess: a clinical concern or an exceptional complication?” Fertil Steril. 89(5): 1263-1266. doi: 1210.1016/j. fertnstert.2007.1205.1038. Epub 2008 Mar 1212. 7. Benaglia L, S. E., Santi G, Scarduelli C, Ragni G, Fedele L. (2011). “IVF and endometriosis-related symptom progression: insights from a prospective study.” Hum Reprod. 26(9): 2368-2372. doi: 2310.1093/humrep/der2208. Epub 2011 Jun 2329. 8. Benschop L, F. C., Van der Poel N, Heineman MJ. (2010). “Interventions for women with endometrioma prior to assisted reproductive technology. .” Cochrane Database Syst Rev 11:CD008571. 9. Bianchi PH, P. R., Zanatta A, Alegretti JR, Motta EL, Serafini PC. (2009). “Extensive excision of deep infiltrative endometriosis before in vitro fertilization significantly improves pregnancy rates.” J Minim Invasive Gynecol. 16(2): 174-180. doi: 110.1016/j. jmig.2008.1012.1009. 10. Bourdel, N., L. Dejou-Bouillet, et al. (2012). “[Endometriosis and postoperative infertility. A prospective study (Auvergne cohort of endometriosis)].” Gynecol Obstet Fertil 40(6): 337-343. 11. Chang FH, C. H., Soong YK, Chang MY, Lee CL, Lai YM. (1997). “Efficacy of isotopic 13CO2 laser laparoscopic evaporation in the treatment of infertile patients with minimal and mild endometriosis: a life table cumulative pregnancy rates study.” J Am Assoc Gynecol Laparosc. 4(2): 219-223. 12. Chatterjee, S., S. Dey, et al. (2012). “Pregnancy outcome in pre-operative danazol treatment followed by laparoscopic correction in infertility associated with endometriosis.” J Indian Med Assoc 110(10): 694-699. 13. Coccia ME, R. F., Gianfranco S. (2010). “Does controlled ovarian hyperstimulation in women with a history of endometriosis influence recurrence rate?” J Womens Health (Larchmt) 19(11):(11): 2063-2069. doi: 2010.1089/jwh.2009.1914. Epub 2010 Sep 2011. 14. Collins JA, B. E., Wilan AR. (1995). “The prognosis for live birth among untreated infertile couples.” Fertil Steril. 64(1): 22-28. 15. CostelloM.F. (2004). “Systematic review of the treatment of ovulatory infertility with clomiphene citrate and intrauterine insemination.” Aust N Z J Obstet Gynaecol 44: 93-102. 16. D’Hooghe TM, D. B., Spiessens C, Meuleman C, Debrock S. (2006). “Is the endometriosis recurrence rate increased after ovarian hyperstimulation?” Fertil Steril. 86.(2): 283-290. Epub 2006 Jun 2006. 17. Donnez, J., J. Squifflet, et al. (2002). “The efficacy of medical and surgical treatment of endometriosis-associated infertility and pelvic pain.” Gynecol Obstet Invest 54 Suppl 1: 2-7; discussion 7-10. 18. Flower A, L. J., Lewith G, Little P, Li Q. (2012). “Chinese herbal medicine for endometriosis. .” Cochrane Database Syst Rev 2012(5:CD006568). 19. Furness S, Y. C., Farquhar C, Cheong YC. (2011). “Pre and post-operative medical therapy for endometriosis surgery. .” Cochrane Database of Systematic Reviews 2004, Updated 2011(Issue 3): Art. No.: CD003678. DOI: 003610.001002/14651858. CD14003678.pub14651852. 20. Giudice LC, K. L. (2004). “Endometriosis.” Lancet. 364(9447): 789–799. 21. Grummer, R. (2013). “Translational animal models to study endometriosis-associated infertility.” Semin Reprod Med 31(2): 125-132. 22. Guo SW, L. M., Shen F, Liu X. (2011). “Use of mifepristone to treat endometriosis: a review of clinical trials and trial-like studies conducted in China.” Womens Health (7:51-70.). 23. Hart RJ, H. M., Maouris P, BuckettW. , (2008). “Excisional surgery versus ablative surgery for ovarian endometriomata. .” Cochrane Database of Systematic Reviews 2008( Issue 2. ): Art. No.: CD004992. DOI: 004910.001002/14651858.CD14004992. pub14651853. 24. Hughes E, B. J., Collins JJ, Farquhar C, Fedorkow DM, Vanderkerchove P (2010). “Ovulation suppression for endometriosis for women with subfertility.” Cochrane Database of Systematic Reviews(3): Art. No.: CD000155. DOI: 000110.001002/14651858. CD14000155.pub14651852. 25. Hughes EG, F. D., Cllins JA. (1993). “A quantitative overview of controlled trials in endometriosis-associated infertility.” Fertil Steril. 59:: 963-970. 26. Jacobson TZ, D. J., Barlow D, Farquhar C, Koninckx PR, Olive D. ,. (2010). “Laparoscopic surgery for subfertility associated with endometriosis. Cochrane Database of Systematic Reviews 2010.” ( Issue 1): Art. No.: CD001398. DOI: 001310.001002/14651858. CD14001398.pub14651852. 27. Johnson NP, F. C., Hadden WE, Suckling J, Yu Y, Sadler L. . (2004). “The FLUSH trial-flushing with lipiodol for unexplained (and endometriosis-related) subfertility by hysterosalpingography: a randomized trial.” Hum Reprod(19): 2043-2051. 28. Kennedy S, B. A., Chapron C, D’Hooghe T, Dunselman G, trong việc cải thiện tỷ lệ thành công. Với những trường hợp LNMTC sâu, không có bằng chứng ủng hộ việc phẫu thuật cắt các nốt LNMTC sâu trước khi thực hiện hỗ trợ sinh sản ở những người vô sinh do LNMTC. Vẫn còn nhiều vấn đề liên quan đến hiệu quả điều trị khả năng sinh sản ở phụ nữ có LNMTC cần được nghiên cứu với các thiết kế chất lượng cao hơn để khẳng định. Cao NgọC ThàNh, Lê MiNh TâMtổng quan Tập 11, số 04 Tháng 12-2013 Tạp chí Phụ Sản 14 Saridogan E, et al. (2005). “ESHRE guideline on the diagnosis and management of endometriosis.” Hum Reprod. 20(10): 2698-2704. 29. Kim CH, C. Y., Mok JE. (1996). “Simplified ultralong protocol of gonadotrophin-releasing hormone agonist for ovulation induction with intrauterine insemination in patients with endometriosis.” Hum Reprod. 11(2): 398-402. 30. Koninckx PR, U. A., Adamyan L, Wattiez A, Donnez J. (2012). “Deep endometriosis: definition, diagnosis, and treatment. .” Fertil Steril 98: 564-571. 31. Lin, X. N., M. L. Wei, et al. (2012). “Outcome of in vitro fertilization in endometriosis-associated infertility: a 5-year database cohort study.” Chin Med J (Engl) 125(15): 2688-2693. 32. Liu X, G. S. (2008). “A pilot study on the off-label use of valproic acid to treat adenomyosis.” Fertil Steril (89): 246-250. 33. Lu D, S. H., Li Y, Clarke J, Shi G. (2012). “Pentoxifylline for endometriosis.” Cochrane Database Syst Rev 2012(1:CD007677.). 34. Mateo Sanez, H. A., E. Mateo Sanez, et al. (2012). “[Treatment of patients with endometriosis and infertility].” Ginecol Obstet Mex 80(11): 705-711. 35. Mier-Cabrera J, G.-G. M., De la Jara-Diaz J, Perichart- Perera O, Vadillo-Ortega F, Hernandez-Guerrero C. (2008). “Effect of vitamins C and E supplementation on peripheral oxidative stress markers and pregnancy rate in women with endometriosis. .” Int J Gynaecol Obstet (100:252-256.). 36. Moravek MB, W. E., Lebovic DI. (2009). “Thiazolidinediones as therapy for endometriosis: a case series. .” Gynecol Obstet Invest 68: 167-170. 37. Nulsen JC, W. S., Dumez S, Metzger DA. (1993). “A randomized and longitudinal-study of human menopausal gonadotropin with intrauterine insemination in the treatment of infertility. .” Obstet Gynecol 82: 780-786. 38. Omland AK, T. T., Dale PO, Abyholm T. (1998). “Artificial insemination by husband in unexplained infertility compared with infertility associated with peritoneal endometriosis.” Hum Reprod. 13(9): 2602-2605. 39. Opøien HK, F. P., Byholm T, Tanbo T. (2011). “Complete surgical removal of minimal and mild endometriosis improves outcome of subsequent IVF/ICSI treatment.” Reprod Biomed Online. 23(3): 389-395. doi: 310.1016/j.rbmo.2011.1006.1002. Epub 2011 Jun 1015. 40. Ozkan S, M. W., Arici A. (2008). “Endometriosis and infertility: epidemiology and evidence-based treatments. .” Annals of New York Academy of Science(1127): 92-100. 41. Pabuccu R, O. G., Kaya C. (2007). “GnRH agonist and antagonist protocols for stage I-II endometriosis and endometrioma in in vitro fertilization/intracytoplasmic sperm injection cycles.” Fertil Steril. 88(4): :832-839. 42. Papaleo E, O. J., Viganò P, Brigante C, Marsiglio E, De Michele F, Candiani M. (2011). “Deep pelvic endometriosis negatively affects ovarian reserve and the number of oocytes retrieved for in vitro fertilization.” Acta Obstet Gynecol Scand. 90(8): 878-884. doi: 810.1111/j.1600-0412.2011.01161.x. Epub 02011 Jun 01114. 43. Pellicano M, B. S., Guida M, Bifulco G, Di Spiezio Sardo A, Cirillo D, Nappi C. (2008). “Ovarian endometrioma: postoperative adhesions following bipolar coagulation and suture.” Fertil Steril(89:): 796–799. 44. Reilly SJ, S. A., Prentice LR, Johnson NP. (2011). “The IVF-LUBE trial: lipiodol uterine bathing effect for enhancing the results of in vitro fertilisation, a pilot randomised trial.” 11th World Congress on Endometriosis. 45. Sallam HN, G.-V. J., Dias S, Arici A, Abou-Setta AM. (2006). “Long-term pituitary down-regulation before in vitro fertilization (IVF) for women with endometriosis.” Cochrane Database of Systematic Reviews (Issue 1. ): Art. No.: CD004635. DOI:004610.001002/14651858.CD14004635.pub14651852. 46. Soliman S, D. S., Collins J, Jarrell J. . (1993). “A randomized trial of in vitro fertilization versus conventional treatment for infertility.” Fertil Steril 59: 1239-1244. 47. Somigliana E, B. N., Benaglia L, Viganò P, Vercellini P, Fedele L. (2012). “Surgical excision of endometriomas and ovarian reserve: a systematic review on serum antimüllerian hormone level modifications.” Fertil Steril(98): 1531-1538. 48. Stepniewska A, P. P., Guerriero M, Scioscia M, Ruffo G, Minelli L. (2010). “Colorectal endometriosis: benefits of long-term follow-up in patients who underwent laparoscopic surgery.” Fertil Steril. 93((7)): :2444-2446. doi: 2410.1016/j. fertnstert.2009.2408.2029. 49. Streuli I, d. Z. D., Gayet V, Santulli P, Bijaoui G, de Mouzon J, Chapron C. (2012). “ In women with endometriosis anti- Mullerian hormone levels are decreased only in those with previous endometrioma surgery. .” Hum Reprod(27): 3294–3303. 50. Subit M, G. P., Broce M, Seybold D, Randall D. (2011). “Endometriosis associated infertility: double intrauterine insemination improves fecundity in patients positive for antiendometrial antibodies. .” Am J Reprod Immunol 66: 100-107. 51. Tummon I, A. L., Martin J, Tulandi T. (1997). “Randomized controlled trial of superovulation and insemination for infertility associated with minimal or mild endometriosis. .” Fertil Steril 68: 8-12. 52. Vercellini P, P. G., De Giorgi O, Daguati R, Pasin R, Crosignani PG. (2006). “Reproductive performance in infertile women with rectovaginal endometriosis: is surgery worthwhile?” Am J Obstet Gynecol. 2006 195:((5)): 1303-1310. Epub 2006 May 1316. 53. Vercellini P, S. E., Viganò P, De Matteis S, Barbara G, Fedele L. (2009). “The effect of second-line surgery on reproductive performance of women with recurrent endometriosis: a systematic review.” Acta Obstet Gynecol Scand (88): 1074-1082. 54. Werbrouck, E., C. Spiessens, et al. (2006). “No difference in cycle pregnancy rate and in cumulative live-birth rate between women with surgically treated minimal to mild endometriosis and women with unexplained infertility after controlled ovarian hyperstimulation and intrauterine insemination.” Fertil Steril 86(3): 566-571. 55. Whitehill, K., P. J. Yong, et al. (2012). “Clinical predictors of endometriosis in the infertility population: is there a better way to determine who needs a laparoscopy?” J Obstet Gynaecol Can 34(6): 552-557. 56. Yang, D. Z. (2013). “[Controversies in the management of endometriosis and infertility].” Zhonghua Fu Chan Ke Za Zhi 48(1): 3-5. 57. Zegers-Hochschild F, A. G., de Mouzon J, Ishihara O, Mansour R, Nygren K, Sullivan E, Vanderpoel S (2009). “International Committee for Monitoring Assisted Reproductive Technology (ICMART) and the World Health Organization (WHO) revised glossary of ART terminology, 2009.” Fertil Steril. 92((5)): 1520-1524. doi: 1510.1016/j.fertnstert.2009.1509.1009.
File đính kèm:
- cap_nhat_xu_tri_lac_noi_mac_tu_cung_trong_vo_sinh_dua_tren_y.pdf