Cạnh tranh trung lập: Những thách thức đặt ra trong việc áp dụng tại Việt Nam

Toàn cầu hóa dẫn đến sự tham gia của doanh nghiệp vào mọi ngóc ngách

của nền kinh tế thế giới, theo đó, thiết lập một sân chơi cho chung mọi doanh

nghiệp (doanh nghiệp nhà nước – DNNN và doanh nghiệp khu vực tư nhân) cạnh

tranh bình đẳng với nhau trên thị trường là một nhu cầu thực tế khách quan. Sân

chơi chung, bình đẳng (A Level Playing Field) là cần thiết tất yếu cho nền kinh tế

thị trường hiện đại, tuy nhiên nó cũng có ý nghĩa quan trọng đối với các nước

đang phát triển – nơi có hệ thống pháp luật cho nền kinh tế thị trường chưa thật

sự hoàn chỉnh và việc tuân thủ các quy tắc của thị trường cũng chưa triệt để. Ở

những quốc gia có thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì cạnh

tranh trung lập (CTTL) sẽ là cơ sở và động lực cho đổi mới và sáng tạo cho

những doanh nghiệp khu vực công. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia

cần thiết lập một sân chơi chung không chỉ giữa các doanh nghiệp trong nước

mà còn cả đối với doanh nghiệp nước ngoài.

pdf 15 trang kimcuc 17560
Bạn đang xem tài liệu "Cạnh tranh trung lập: Những thách thức đặt ra trong việc áp dụng tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cạnh tranh trung lập: Những thách thức đặt ra trong việc áp dụng tại Việt Nam

Cạnh tranh trung lập: Những thách thức đặt ra trong việc áp dụng tại Việt Nam
Mã số: 349 
Ngày nhận: 17/1/2017 
Ngày gửi phản biện lần 1: 20/1/2017 
Ngày gửi phản biện lần 2: 
Ngày hoàn thành biên tập: 24/3/2017 
Ngày duyệt đăng: 25/3/2017 
Cạnh tranh trung lập: những thách thức đặt ra trong việc áp dụng tại Việt 
Nam 
 Tăng Văn Nghĩa1 
Bùi Tuấn Thành2 
Tóm tắt 
Toàn cầu hóa dẫn đến sự tham gia của doanh nghiệp vào mọi ngóc ngách 
của nền kinh tế thế giới, theo đó, thiết lập một sân chơi cho chung mọi doanh 
nghiệp (doanh nghiệp nhà nước – DNNN và doanh nghiệp khu vực tư nhân) cạnh 
tranh bình đẳng với nhau trên thị trường là một nhu cầu thực tế khách quan. Sân 
chơi chung, bình đẳng (A Level Playing Field) là cần thiết tất yếu cho nền kinh tế 
thị trường hiện đại, tuy nhiên nó cũng có ý nghĩa quan trọng đối với các nước 
đang phát triển – nơi có hệ thống pháp luật cho nền kinh tế thị trường chưa thật 
sự hoàn chỉnh và việc tuân thủ các quy tắc của thị trường cũng chưa triệt để. Ở 
những quốc gia có thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì cạnh 
tranh trung lập (CTTL) sẽ là cơ sở và động lực cho đổi mới và sáng tạo cho 
những doanh nghiệp khu vực công. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia 
cần thiết lập một sân chơi chung không chỉ giữa các doanh nghiệp trong nước 
mà còn cả đối với doanh nghiệp nước ngoài. 
Từ khóa: Cạnh tranh trung lập, sân chơi chung, chính sách và pháp luật 
cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước 
Abstract 
The globalization trend has led to dramatic penetration of enterprises to 
every corner of the world economy demanding for a level playing field so that all 
economic entities are in equal positions to compete with the others. Establishing 
1 Trường Đại học Ngoại thương, Email: 
2 Bộ Khoa học và Công nghệ 
2 
a level playing field is needed in developed market economies, but it is even more 
demanding in the developing part of the world where the legal system is still be-
ing completed and not strictly complied by market participants. Also, a level 
playing field is greatly concerned in the economies where government-owned 
sector is relatively large and inefficient compared with the private sector. Vi-
etnam is one of such countries as the need for a level playing field is not only 
acknowledged by national policymakers but is also reflected in international 
voices. 
Keywords: competitive neutrality, a level playing field, competition law and 
policy, state-owned enterprises 
Cạnh tranh trung lập (Competitive Neutrality) là chủ đề được bắt đầu nghiên 
cứu, phát triển từ những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21. Khi nền kinh tế thị 
trường phát triển ở bậc cao và tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, Nhà nước 
cần phải xây dựng một cơ chế vận hành thị trường hoàn chỉnh, theo đó các nguồn 
lực phải được phân bổ sử dụng một cách hiệu quả theo các quy luật của thị 
trường và đảm bảo cạnh tranh công bằng giữa các chủ thể kinh doanh từ khu vực 
công cũng như khu vực tư. 
Khi DNNN và doanh nghiệp khu vực tư nhân cùng tham gia vào thị trường, 
cạnh tranh trung lập (CTTL) được xem là nguyên tắc cốt lõi đảm bảo cho thị 
trường vận hành hiệu quả và công bằng. Với chính sách kinh tế truyền thống tại 
nhiều quốc gia, DNNN được hưởng nhiều ưu đãi thông qua việc trao nắm giữ 
những nguồn lực quan trọng và kinh doanh ở những lĩnh vực then chốt của nền 
kinh tế. Trên thực tế, khu vực DNNN bộc lộ nhiều yếu kém trong kinh doanh, 
đầu tư dàn trải, không hiệu quả gây thất thoát và lãng phí nguồn ngân sách nhà 
nước. Việc thiết lập và đảm bảo duy trì nguyên tắc CTTL trên thị trường phải 
được xem là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách quốc gia. 
Cho đến nay, ý tưởng khoa học về CTTL đã trải qua một quá trình phát triển 
đáng kể trong nghiên cứu và thực tiễn pháp luật ở nhiều quốc gia. Sự hiện đại 
hóa, hài hòa hóa chính sách kinh tế và chính sách cạnh tranh quốc gia đã không 
thể thiếu vắng luận điểm về cạnh tranh trung lập hiện nay. 
1. Khái niệm cạnh tranh trung lập 
Cạnh tranh trung lập được đề cập lần đầu tiên trong chính sách và pháp luật 
cạnh tranh của một số quốc gia vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ 20 
cho đến hiện nay. 
Với cách tiếp cận truyền thống trước đây, các khái niệm thường được biết 
đến như cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh lành mạnh, hạn chế cạnh tranh, trong 
các nghiên cứu. Tuy nhiên, trước yêu cầu của thời đại mới gắn với kinh tế thị 
3 
trường hiện đại, xác lập sân chơi chung, cải tổ và nâng cao năng lực cạnh tranh, 
nâng cao hiệu quả của DNNN diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới đã dẫn đến sự 
ra đời của cạnh tranh trung lập. 
Khởi xướng ý tưởng CTTL là Australia – nơi mà việc hoạch định và thực thi 
chính sách và pháp luật cạnh tranh đã đạt được những thành tựu to lớn. Tầm quan 
trọng và tính hữu ích của việc xác lập sân chơi chung và bình đẳng cho mọi 
doanh nghiệp nhằm khắc phục những méo mó ảnh hưởng đến cạnh tranh giữa các 
doanh nghiệp có yếu tố nhà nước và doanh nghiệp tư nhân (Hilmer, 1993, tr. 
294). Mặc dù cạnh tranh bình đẳng là nguyên tắc được xác lập đối với nền kinh tế 
thị trường, nhưng do định hướng chính sách và vai trò riêng biệt, DNNN đã có 
những lợi thế cạnh tranh vượt trội so với các doanh nghiệp khu vực tư nhân. Bên 
cạnh đó, do thuộc quyền sở hữu nhà nước cộng với ưu đãi từ chính sách, DNNN 
là yếu tố tiềm tàng dẫn đến lợi thế cạnh tranh quá mức và sự mất cân bằng của 
những thị trường có sự tham gia của nhóm chủ thể này. Cho nên, khái niệm 
CTTL là một cách tiếp cận mới trong chính sách cạnh tranh, nhằm giải quyết vấn 
đề cân bằng lợi thế cạnh tranh giữa DNNN và doanh nghiệp thuộc khu vực tư 
nhân (OECD, 2015a, tr. 4). 
 Kể từ đó, CTTL đã dần dần trở thành một khái niệm chính thống trong 
khoa học và thực tiễn pháp lý. CTTL là một trạng thái cạnh tranh mà ở đó tất cả 
mọi doanh nghiệp bao gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp từ khu vực tư 
nhân trong nước cũng như nước ngoài cùng tham gia trên thị trường và bình đẳng 
về điều kiện cạnh tranh, không bên nào có những lợi thế cạnh tranh quá mức bắt 
nguồn từ phía nhà nước so với các chủ thể tham gia thị trường thực tế hay tiềm 
năng. Được xem như là một trong những mục tiêu của chính sách cạnh tranh, 
CTTL tồn tại không tách rời việc hoạch định thực thi các chính sách kinh tế khác 
cũng như đảm bảo quá trình thực thi pháp luật cạnh tranh hiệu quả. Mặc dù đã có 
nhiều cải cách, nhưng về cơ bản, sự hoạch định và thực thi các chính sách kinh tế 
theo hướng có lợi cho DNNN vẫn xảy ra tại nhiều quốc gia thuộc OECD. Điều 
này làm giảm áp lực, động cơ đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh 
của DNNN. 
2. Vai trò của cạnh tranh trung lập 
 Khác với cạnh tranh hoàn hảo – một mô hình lý tưởng về cạnh tranh, 
CTTL chỉ hướng tới đảm bảo sự bình đẳng trong cạnh tranh và triệt tiêu lợi thế 
bất hợp lý của DNNN so với doanh nghiệp khu vực tư nhân và qua đó tăng 
cường hiệu quả của thị trường. Vai trò của CTTL thể hiện thông qua những khía 
cạnh sau: 
4 
 - Đảm bảo sự công bằng và bình đẳng của môi trường cạnh tranh: Xét về 
bản chất, khi xác lập nguyên tắc CTTL, không doanh nghiệp nào có những lợi thế 
bất hợp lý do ưu đãi về nguồn lực (từ khu vực công) để thực hiện cạnh tranh với 
các chủ thể khác. Khi cạnh tranh trên một sân chơi bình đẳng, các chủ thể sẽ chịu 
sức ép cạnh tranh giống nhau và đều phải nỗ lực đổi mới để nâng cao hiệu quả 
kinh doanh. Thiếu sự đổi mới cần thiết, DNNN có nguy cơ tụt hậu và thậm chỉ bị 
loại ra khỏi thị trường. 
 - Nâng cao tính hiệu quả của việc phân bổ nguồn lực: sử dụng hiệu quả 
nguồn lực là thước đo hiệu quả kinh doanh. Việc tiếp cận và phân bổ nguồn lực 
hợp lý sẽ làm cho mọi chủ thể có cơ hội ngang nhau trong cạnh tranh, hàng 
hóa/dịch vụ sẽ được sản xuất và cung cấp bởi những chủ thể kinh doanh đạt hiệu 
quả nhất. Chẳng hạn, khi tham gia cung ứng dịch vụ giao thông công cộng, nếu 
được tiếp cận nguồn lực như nhau, chỉ doanh nghiệp nào sử dụng nguồn lực hiệu 
quả, có dịch vụ tốt mới được sự lựa chọn của khách hàng và mới có cơ hội tồn 
tại. Các doanh nghiệp khu vực tư nhân có điều kiện cạnh tranh bình đẳng và phát 
triển sẽ làm cho có sự đa dạng của cơ cấu thị trường, tăng áp lực đổi mới đối với 
DNNN qua đó có thể nâng cao chất lượng, hiệu quả quá trình sản xuất. 
 - Tăng cường sự hài hòa hóa về môi trường kinh doanh: khi áp dụng chính 
sách CTTL, môi trường kinh doanh sẽ được cải thiện dưới giác độ của việc tạo 
lập sự bình đẳng cho mọi chủ thể. Mọi doanh nghiệp đều có cơ hội tham gia thị 
trường và bình đẳng về cạnh tranh như nhau. Đây là tiền đề cho việc thúc đẩy tự 
do hóa thương mại và đầu tư trên phạm vi quốc tế, bởi vì các nước có nền kinh tế 
thị trường phát triển ở trình độ cao thường có môi trường kinh doanh và cạnh 
tranh chuẩn mực được thiết lập. Trên thị trường sẽ không có những rào cản bất 
hợp lý về việc gia nhập thị trường; không có sự bảo hộ hay trợ cấp bất hợp lý cho 
DNNN. Không có trợ cấp bất hợp lý sẽ giảm thiểu nguy cơ xảy ra tranh chấp 
trong quan hệ thương mại giữa các quốc gia. Điều này cũng có ý nghĩa lớn trong 
điều kiện Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới 
(FTAs) – liên quan đến những cam kết về doanh nghiệp và chính sách cạnh tranh 
trong các hiệp định này. 
- Góp phần hoàn thiện chính sách cạnh tranh: CTTL là một trong những 
chính sách nhằm hoàn thiện môi trường cạnh tranh theo hướng thị trường hiện 
đại. Khi chính sách về CTTL được xây dựng và áp dụng, chính sách cạnh tranh 
nói chung sẽ được hoàn thiện hơn. Mục tiêu của chính sách cạnh tranh luôn là 
bảo vệ quá trình cạnh tranh. CTTL sẽ làm cho quá trình đó được diễn ra một cách 
công bằng và bình đẳng giữa các chủ thể, sẽ trở thành động lực của sự phát triển 
và tăng trưởng của nền kinh tế. 
3. Các nguyên tắc của cạnh tranh trung lập 
5 
Cạnh tranh trung lập được thiết lập trên thị trường dựa trên những nguyên 
tắc cơ bản của quá trình cạnh tranh. Trên cơ sở khuyến nghị của OECD (OECD 
2012a), CTTL có những nguyên tắc chính như sau: 
- Hợp lý hóa hình thức tổ chức kinh doanh của DNNN (Streamlining the op-
erational form of government business) 
Các hoạt động kinh doanh (gồm DNNN và các doanh nghiệp thương mại 
khác thuộc sự chi phối của Nhà nước) phải được đảm trách và thực hiện bởi một 
thực thể có hình thức tổ chức kinh doanh phù hợp với các quy định của pháp luật. 
Như vậy, các DNNN cũng phải được thành lập, có cấu trúc và tổ chức hoạt động 
theo pháp luật chung về doanh nghiệp. Hệ thống quản trị của DNNN được vận 
hành dựa trên các nguyên tắc như các doanh nghiệp khu vực tư nhân. Việc kiêm 
nhiệm của công chức nhà nước làm vị trí quản trị hoặc điều hành tại các DNNN 
phải được loại bỏ. Nguyên tắc này nhằm thực hiện mục tiêu đổi mới quản trị đối 
với hình thức tổ chức kinh doanh của DNNN để thực hiện các hoạt động thương 
mại phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, nâng cao hiệu quả kinh doanh tạo thuận 
lợi cho quá trình cổ phần hóa DNNN. Nguyên tắc này cũng đảm bảo cho các thực 
thể thuộc khu vực công tự chịu trách nhiệm về các quyết định kinh doanh, trách 
nhiệm tài sản cũng như hiệu quả kinh doanh. 
- Xác định đầy đủ các chi phí thực hiện chức năng được giao (Identifying the 
costs of any given function) 
Khi áp dụng CTTL, cấu trúc chi phí sẽ phải được xác định thông qua việc 
tiến hành hạch toán riêng biệt đối với các hoạt động thương mại và hoạt động phi 
thương mại của một DNNN. Chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cho 
biết doanh nghiệp đó hoạt động có hiệu quả hay không. Điều này có nghĩa, nếu 
chi phí sản xuất, kinh doanh của DNNN cao hơn thì DNNN sẽ bất lợi trong cạnh 
tranh với doanh nghiệp khác và kinh doanh không hiệu quả. 
Những DNNN đã khi đảm nhận các dịch vụ công (Public Service Obligation 
PSO), nhà nước có chính sách bù đắp (compensation) chi phí cho các dịch vụ đó. 
Việc bù đắp có thể được lấy từ nguồn ngân sách Nhà nước. DNNN cũng có thể 
nhận được trợ cấp chéo (cross-subsidization) bằng cách ấn định mức giá cao 
trong các hoạt động được phép độc quyền cho phép nhằm tăng khả năng bù đắp 
cho việc thực hiện PSO. Nguyên tắc CTTL không cho phép bù đắp quá mức 
(overcompensation), không được duy trì lợi thế cạnh tranh quá mức của DNNN 
so với doanh nghiệp khu vực tư nhân khi thực hiện các PSO. 
6 
- Đạt được tỷ suất lợi nhuận thương mại nhất định (Commercial rate of re-
turn) 
Tỷ suất lợi nhuận thương mại (Commercial Rate of Return – CROR) phải 
đạt được từ các hoạt động thương mại đối với doanh nghiệp công. Sự tồn tại và 
vận hành của một tổ chức kinh doanh phải dựa trên lợi nhuận mà thực thể đó thu 
được. Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động thương mại của các doanh nghiệp khu 
vực công phải đạt được một tỷ suất lợi nhận thương mại, tỷ suất lợi nhuận thương 
mại kỳ vọng nhất định. Khi năng lực cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh thấp (chẳng 
hạn so với doanh nghiệp khu vực tư nhân) doanh nghiệp khu vực công không có 
sự trợ cấp của nhà nước có thể bị đẩy ra khỏi thị trường. Trong trường hợp căn cứ 
vào đặc điểm của ngành hàng hóa và dịch vụ, tỷ suất lợi nhận thương mại có thể 
yêu cầu đạt được mức kỳ vọng, hoặc ngưỡng tối thiểu được tính toán ban đầu. 
- Về kế toán dịch vụ công (Accounting for public service obligations) 
Kế toán các dịch vụ công là một trong những yếu cơ bản của việc áp dụng 
cạnh tranh trung lập. Thực tiễn vận hành các dịch vụ công (PSO) tùy theo mỗi 
quốc gia dựa trên cách thức bù trừ chi phí cho doanh nghiệp khi cung cấp các 
dịch vụ công. Các phương pháp bù trừ cho các chi phí thường được lấy từ nguồn 
ngân sách, quỹ phúc lợi công khi doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu đặt ra. 
Khi được bù trừ chi phí, một vấn đề đặt ra là sự bù có thể bị lạm dụng theo hướng 
có lợi cho DNNN cung cấp dịch vụ, nhất là ở những dịch vụ độc quyền. Khi kế 
toán dịch vụ công không theo các chuẩn mực quốc tế được thừa nhận có thể làm 
xuất hiện nguy cơ bảo hộ, dịch vụ công có thể được bù đáp quá mức bằng ngân 
sách Nhà nước dẫn đến tình trạng các DNNN tạo nguồn cho các chiến lược giá 
trên thị trường nhằm thôn tính các đối thủ cạnh tranh. 
Khi CTTL được áp dụng, việc đền bù cho các dịch vụ công bằng ngân sách 
nhà nước phải đảm bảo tính hợp lý và minh bạch của các khoản bù đắp nhằm 
tránh tình trạng bù đắp vượt quá (overcompensation) và đảm bảo công bằng giữa 
các doanh nghiệp. Đồng thời việc hạch toán chi phí liên quan đến các hoạt động 
thương mại và phi thương mại của DNNN phải được tách biệt rõ ràng nhằm đảm 
tính hợp lý của việc đền bù. Nguyên tắc CTTL đòi hỏi phải ngăn chặn tình trạng 
trợ cấp không rõ ràng giữa các hoạt động thương mại mang tính cạnh tranh và 
các hoạt động phi thương mại thông qua việc kế toán chi phí cho việc cung cấp 
dịch vụ. 
- Tính trung lập về thuế (Tax Neutrality) 
Tính trung lập về thuế thể hiện ở chỗ hoạt động kinh doanh của mọi doanh 
nghiệp (DNNN cũng như doanh nghiệp khu vực tư nhân) phải được tính thuế 
trong cùng một môi trường thuế. Các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 
7 
không phân biệt nguồn gốc sở hữu phải cùng chịu một mức về thuế tương ứng 
đối với mỗi loại hình kinh doanh và mỗi loại thế do nhà nước đặt ra (OECD, 
2012b, tr. 24). Do chính sách hỗ trợ của nhà nước, DNNN hay doanh nghiệp có 
vốn đầu tư nước ngoài có thể được đặt ở mức thuế ưu đãi, giảm thuế, miễn thuế 
cho những hoạt động kinh doanh được quy định. Đi ...  thể cung ứng dịch 
vụ xăng dầu hàng không. Tuy nhiên, đây là những vẫn đề còn chưa được quy 
định mang tính hệ thống và đảm bảo rằng DNNN sẽ hoạt động theo đúng quy tắc 
của thị trường. Sự triệt tiêu những lợi thế cạnh tranh bất hợp lý của DNNN so với 
doanh nghiệp khu vực tư nhân còn chưa được đặt ra do khối doanh nghiệp này 
còn phải thực hiện nhiều định hướng chiến lược của nhà nước. 
5. Những thách thức đặt ra đối với Việt Nam trong việc áp dụng 
Việt Nam trải qua một quá trình dài phát triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập 
trung. Như các quốc gia đang phát triển khác, những thách thức lớn đặt ra trong 
việc phát triển cơ sở, nền tảng của kinh tế thị trường hiện đại, chẳng hạn, việc xây 
dựng kết cấu hạ tầng, phát triển công nghệ, vốn, nguồn nhân lực, tạo lập môi 
trường cạnh tranh và đặc biệt là đổi mới cạnh tranh của DNNN. Từ giác độ 
cạnh tranh, những thách thức đặt ra trong việc áp dụng CTTL có thể thấy: 
- Do sự phát triển của cơ cấu thị trường Việt Nam khá chậm, tương tự như 
vậy là tốc độ đa da dạng hóa của hàng hóa và dịch vụ trên thị trường. Sự tồn tại 
10 
của lĩnh vực kinh doanh độc quyền và DNNN độc quyền còn khá phổ biến trên 
nhiều lĩnh vực. Việc mở cửa thị trường cho sự tham gia của doanh nghiệp khu 
vực tư nhân (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) vẫn còn nhiều hạn chế, bất 
cập. Các DNNN là những doanh nghiệp lớn, tập trung nhiều nguồn lực dễ dẫn 
đến tình trạng trì trệ, không được đổi mới do ỷ vào thế được ưu đãi. 
Chính vì lẽ đó, cạnh tranh của các chủ thể tiềm năng khó có cơ sở tồn tại. 
Các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền (nhà nước) với sức mạnh 
thị trường luôn tiềm năng gây ra những hạn chế cạnh tranh trên thị trường, ảnh 
hưởng tiêu cực đến lợi ích của khách hàng/người tiêu dùng. Đây là những tình 
huống khá phổ biến ở các nước đang phát triển. Sự hưởng lợi về mặt chính sách 
cũng nguồn lực của nhà nước luôn là nguyên nhân dẫn nguyên tắc CTTL bị bỏ 
qua khi nhóm chủ thể là DNNN tham gia thị trường. Bên cạnh đó, các công cụ 
điều chỉnh nền kinh tế phản ứng khá chậm trễ trước những hiện tượng bất cập của 
thị trường có nguyên nhân việc lạm dụng sức mạnh thị trường. 
- Về rào cản gia nhập thị trường, trong các nền kinh tế đang phát triển, rào cả 
gia nhập thị trường có thể thường xuất hiện và từ các giác độ tài chính, pháp lý và 
sự tồn tại của đối thủ cạnh tranh thực tế (Allen/Ben, 2007), đặc biệt là sự tồn tại 
của DNNN với sức mạnh thị trường lớn. Doanh nghiệp khu vực tư nhân đặc biệt 
là doanh nghiệp vừa và nhỏ không có đủ nguồn lực tài chính gặp khó khăn khi 
gia nhập thị trường do nhà nước quy định nhiều điều kiện kinh doanh. Các quy 
định của pháp luật cũng có thể tạo nhưng bất lợi cho doanh nghiệp khu vực tư. 
Không có đủ cơ cấu thị trường, DNNN dễ lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền 
của mình tạo ra rào cản gia nhập thị trường. Nếu rào cản gia nhập thị trường lớn, 
việc đảm bảo sân chơi chung cho mọi doanh nghiệp sẽ không có ý nghĩa. 
Ngoài ra, tại các nước đang phát triển việc hiểu và nắm được nguyên lý của 
CTTL còn là một hạn chế trong việc nghiên cứu và hoạch định chính sách này. 
Tại Việt Nam, thách thức trực tiếp đặt ra là thiếu khuôn khổ pháp lý cho 
CTTL. CTTL chưa trở thành một khái niệm chính thức các văn bản pháp lý, hay 
những tuyên bố chính sách có liên quan ở Việt Nam, mặc dù những ý tưởng về 
“sân chơi chung” cho mọi loại hình và nguồn gốc sở hữu doanh nghiệp đã tồn tại. 
Mặc dù một số lĩnh vực pháp luật đã có những văn bản pháp luật tương ứng tạo 
ra sân chơi chung, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp năm 2005 khi thống nhất điều 
chỉnh về tổ chức và hoạt động của tất cả các loại hình doanh nghiệp và Luật Cạnh 
tranh năm 2004, tuy nhiên cạnh tranh của DNNN không được gắn kết với nguyên 
tắc CTTL. Thiếu nhận thức từ phía cơ quan hoạch định chính sách, soạn thảo và 
ban hành văn bản pháp quy, vấn đề CTTL khó chuyển tải vào sự vận hành của 
nền kinh tế. 
11 
Trong khuôn khổ pháp lý của cạnh tranh, còn thiếu vắng sự tồn tại các quy 
định hiện hữu của nguyên tắc cạnh tranh trung lập. Nhiều hành vi cạnh tranh của 
DNNN sử dụng ưu đãi tạo lợi thế cạnh tranh vượt trội hoặc không phù hợp với 
các quy định của Luật Cạnh tranh. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng 
nhận được nhiều ưu đãi do chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Những hành vi 
lạm dụng vị trí thống lĩnh, triển khai đề án đổi mới sáp nhập không không dựa 
trên pháp luật cạnh tranh (mà dựa vào ý kiến của cơ quan chủ quản). 
Trong quy định của Luật Cạnh tranh, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm 
và được miễn trừ nếu nó làm tăng phúc lợi cho người tiêu dùng (Điều 10). Việc 
xác định trong Luật Cạnh tranh đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh 
vực độc quyền nhà nước và những doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ 
công (Điều 15), như vậy, nhà nước vẫn khẳng định sự tồn tại và đảm bảo những 
ưu tiên cho DNNN hoạt động trên một số thị trường. 
Về nguyên tắc, các doanh nghiệp độc quyền nhà nước phải hoạt động trong 
khuôn khổ của pháp luật, trong đó có Luật Cạnh tranh. Tuy nhiên, khi trên thị 
trường còn có doanh nghiệp độc quyền mang tính hành chính dựa trên định 
hướng phát triển chủ đạo của kinh tế nhà nước. Những doanh nghiệp này thường 
có những ưu thế cạnh tranh vượt trội về nguồn lực cộng với những ưu đãi khác sẽ 
luôn luôn tiềm ẩn của sự lạm dụng sức mạnh thị trường và hạn chế cạnh tranh4. 
Hậu quả đặt ra là trên thị trường vẫn còn rào cản gia nhập (cả từ phía hành chính 
lẫn phía doanh nghiệp), sự tham gia thị trường của doanh nghiệp khác là khó đảm 
bảo được sự bình đẳng. Nhiều tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước chiếm vị 
trí thống lĩnh hoặc độc quyền trên thị trường trong nước gây ảnh hưởng xấu tới 
môi trường cạnh tranh và gây thiệt hại cho khách hàng. Vụ tranh chấp giữa Công 
ty xăng dầu Hàng không (Vinapco) và Pacific Airlines (nay là Jetstar Pacific 
Airlines) xảy ra từ 1/4/2008 là một minh chứng cho sự lạm dụng vị trí độc quyền 
kinh doanh
5
. 
- Sự tồn tại của doanh nghiệp độc quyền nhà nước trong một thời gian dài 
trong một số lĩnh vực của nền kinh tế đã làm cho tình hình cạnh tranh trên thị 
trường tại những thị trường này trở nên hạn chế, kinh doanh kém hiệu quả. Khi 
đã dựa vào những nguồn lực và ưu đãi từ phía chính sách, doanh nghiệp khó có 
thể tiếp tục tồn tại nếu thiếu những sự ưu đãi, hỗ trợ đó. Doanh nghiệp độc quyền 
4 Xem thêm: Doanh nghiệp nhà nước làm méo mó thị trường, (CIEM công bố báo cáo khảo sát về những điều bất 
hợp lý trong chính sách đối với doanh nghiệp... VNeconomy) tại địa chỉ 
nghiep-nha-nuoc-lam-meo-mo-thi-truong-20150528084948373.htm (truy cập ngày 19/12/2016). 
5 Từ 2005 đến 2012, Cục QLCT đã điều tra 03 vụ việc trong các lĩnh vực: cung cấp xăng dầu hàng không; bia; 
phân phối và chiếu phim nhựa. Trong năm 2009, Cục QLCT đã tiến hành được 08 vụ điều tra tiền tố tụng liên 
quan đến các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền, trong đó chỉ chuyển được 01 vụ việc thành điều tra 
chính thức theo quy định của pháp luật cạnh tranh, theo Cục QLCT, Báo cáo ra soát các quy định của Luật Cạnh 
tranh Việt Nam, 2012 tr. 65. 
12 
nhà nước không chỉ kém hiệu quả trong kinh doanh, ít sáng tạo đổi mới mà còn 
tạo ra những rào cản gia nhập thị trường, gây hạn chế cạnh tranh và thường ỷ thế 
vào chính sách ưu đãi của nhà nước để kinh doanh. Việc xử lý các hành vi lạm 
dụng độc quyền hay lạm dụng vị trí thống lĩnh của các doanh nghiệp độc quyền 
nhà nước không được triệt để sẽ làm tổn hại đến nguyên tắc CTTL. 
Mặc dù trong thời gian gần đây, các cơ quan chủ quản ngành có xu hướng 
giảm dần những ưu đãi dành cho các doanh nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý của 
mình (như các ưu đãi về thuê đất, về tiếp cận tín dụng hay những thuận lợi trong 
xuất nhập khẩu), thậm chí bán những DNNN hoạt động không hiệu quả6. Tuy 
nhiên những ưu tiên nhất định cho doanh nghiệp thuộc quyền quản lý vẫn còn 
được duy trì. Chừng nào còn tồn tại những ưu tiên này, thì mục tiêu công bằng và 
bình đẳng trên một sân chơi chung sẽ khó đạt tới được. Nhà nước, một mặt, thông 
qua Luật Cạnh tranh tạo lập một môi trường cạnh tranh bình đẳng, mặt khác, gián 
tiếp hỗ trợ hay tạo cơ hội cho các DNNN để cạnh tranh thiếu bình đẳng với các 
doanh nghiệp khu vực tư nhân. 
Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền liên quan chưa thể làm quen ngay 
với phương pháp quản lý kinh tế mới, tăng tính tực chủ và tôn trọng tự do cạnh 
tranh và thúc đẩy cạnh tranh công bằng của DNNN. Đôi khi, các cơ quan này vẫn 
tìm cách can thiệp mạnh mẽ vào hoạt động của DNNN bằng cơ chế mệnh lệnh 
hành chính. Nguyên tắc CTTL chỉ có thể được hiện thực hóa khi các cơ chế điều 
tiết bằng cách can thiệp hành chính của cơ quan chủ quản DNNN được giảm 
thiểu. 
Bởi vậy, nguyên tắc CTTL vẫn còn vấn đề đặt ra là, cơ quan có thẩm quyền 
liên quan có hành vi phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp - môi trường cạnh 
tranh không thể có sự công bằng. Cơ quan thực thi Luật Cạnh tranh cũng sẽ gặp 
khó khăn trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình liên quan đến 
những DNNN/tập đoàn kinh tế lớn. 
Chủ trương thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước là nhằm mục đích tăng 
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường nội địa và quốc 
tế. Dưới giác độ chính sách quốc gia, chủ trương này có sự cần thiết nhất định 
trong một số lĩnh vực đang và sẽ gặp áp lực cạnh tranh quốc tế lớn như viễn 
thông, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, dệt may Hoặc trong điều kiện tham gia 
nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Việt Nam phải mở cửa nhiều lĩnh 
6 Có rất nhiều bài viết liên quan đến chủ đề này, chẳng hạn Bích Diệp, Chính phủ duyệt bán doanh nghiệp nhà 
nước theo lô, Dân trí, tại địa chỉ: 
theo-lo-1434246864.htm (truy cập ngày 20/12/2016); 30 năm đổi mới: Nhìn từ cải cách doanh nghiệp 
Vì sao bán DNNN người ta không mặn mà? trên Tuần Việt Nam, tại địa chỉ: 
 (truy cập ngày 
20/12/2016). 
13 
vực dịch vụ để thực hiện các cam kết quốc tế, đặc biệt là các cam kết về mở cửa 
thị trường dịch vụ. 
Tuy nhiên, bên cạnh mục tiêu đạt được là tăng khả năng cạnh tranh và tiềm 
lực của DNNN, việc hình thành các vị trí thống lĩnh và nguy cơ cao của các hành 
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh là một thực tế. 
Vụ tranh chấp giữa Công ty xăng dầu Hàng không (Vinapco) và Pacific 
Airlines (nay là Jetstar Pacific Airlines) xảy ra từ 01/4/2008 khiến cho Pacific 
Airlines bị thiệt hại nặng nề là một minh chứng cho sự lạm dụng vị trí độc quyền 
kinh doanh. Cho đến 19/9/2011, vụ việc mới được Tòa phúc thẩm, TAND tối cao 
quyết định bác đơn kháng cáo của Vinapco và kết luận Hội đồng Cạnh tranh đã 
xử lý đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền; giữ nguyên quyết định xử phạt 
Vinapco, vụ việc mới được khép lại. Đây là biểu hiện của việc làm dụng vị trí 
độc quyền của DNNN (Rosenau/Tang Van 2014). 
Mới đây, trường hợp của MobiFone – một doanh nghiệp TNHH 100% vốn 
nhà nước sau khi tách ra khỏi VNPT (Vietnam Posts and Telecommunications 
Group) – trong việc mua lại AVG. Vào cuối năm 2015, đề án MobiFone mua lại 
tập đoàn AVG được bộ Thông tin Truyền thông chấp thuận. MobiFone đã mua 
95% vốn của AVG. Tuy nhiên, thương vụ mua lại này không được minh bạch về 
giá. Việc không công bố giá trị của giao dịch có dấu hiệu vi phạm NĐ 
81/2015/ND-CP của Chính phủ (Linh Trang, 2016). 
Ngoài ra, Cục QLCT khi thực hiện chức năng của mình, còn có một thách 
thưc lớn khi giải quyết các tình huống có DNNN do các doanh nghiệp này có cơ 
chế giám sát, quản lý trực tiếp của các cơ quan chủ quản. Cục QLCT dường như 
có ảnh hưởng rất ít đến đến các doanh nghiệp thuộc khu vực này. Trong lĩnh vực 
kinh doanh mà nhà nước cho phép cạnh tranh một cách hạn chế hoặc phải thoả 
mãn những điều kiện nhất định (như viễn thông, dịch vụ tài chính, ngân hàng, 
bảo hiểm, phân phối), mức độ và quy mô cạnh tranh trên thị trường dường như 
phụ thuộc vào các quyết định hành chính của cơ quan chủ quản hơn là dựa vào 
chính sách và pháp luật cạnh tranh. 
6. Kết luận 
CTTL là một xu hướng mới trong việc phát triển chính sách cạnh tranh ở 
nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay. CTTL là một ý tưởng khá mới, xứng đáng 
được tiếp phát triển và hiện thực hóa trong hệ thống chính sách quốc gia. Các 
nước thành viên của tổ chức OECD đã có nhiều bước đi trong việc nghiên cứu và 
triển khai áp dụng chính sách CTTL. Tại Việt Nam, CTTL cũng cần được nhận 
thức đầy đủ để hướng tới xây dựng chính sách CTTL trong hệ thống chính sách 
quốc gia. 
14 
CTTL đóng vai trò quan trọng cho việc duy trì chế độ cạnh tranh phù hợp 
cho sự vận hành của thị trường với sự tham gia của các loại hình chủ thể kinh 
doanh. Thiếu CTTL, doanh nghiệp khu vực tư nhân hầu như không có cơ hội 
cạnh tranh ngang bằng với DNNN. Mặt khác, trong quá trình cạnh tranh nếu 
thiếu CTTL, doanh nghiệp khu vực tư nhân sẽ không được bảo vệ thực tế. Một 
sân chơi chung là nền tảng cốt lõi của CTTL. Đây cũng là môi trường chung cho 
cạnh tranh giữa DNNN và doanh nghiệp khu vực tư nhân, kể cả doanh nghiệp có 
vốn đầu tư nước ngoài. 
Việc công bố thông tin và minh bạch hóa hoạt động của DNNN là hết sức 
cần thiết nhằm đảm bảo cho sự giám sát hoạt động kinh doanh của DNNN và góp 
phần vào việc triển khai thành công quan điểm và chính sách CTTL. Công chúng 
được tiếp cận các nguồn thông tin chính xác phục vụ cho quá trình ra quyết định 
là yếu tố cần thiết để có những phản biện xã hội kịp thời đối với hoạt động của 
DNNN. 
Tăng cường tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh và đổi mới cạnh tranh 
của DNNN là yêu cầu đặt ra khi áp dụng và thực thi CTTL. Nâng cao hiệu quả 
kinh doanh và cạnh tranh của DNNN sẽ góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy 
tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững, nâng cao phúc lợi cho người tiêu 
dùng. 
Do CTTL là một vấn đề mới mẻ đối với không chỉ đối với các cơ quan có 
thẩm quyền liên quan đến cạnh tranh mà còn cả hầu hết các doanh nghiệp tham 
gia trên thị trường và đặc biệt là DNNN. Điều này có thể cản trở quá trình tiếp 
cận, nghiên cứu và hoạch định chính sách CTTL. Bởi vậy, CTTL cần phải được 
phổ biến, nhấn mạnh như những mục tiêu trọng điểm trong việc hoàn thiện thể 
chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. 
Tài liệu tham khảo 
1. Dennis, Allen/Shepherd, Ben (2007), Trade costs, barriers to entry, and 
export di-versification in developing countries, The World Bank (UK), re-
trieved from:  
2. Hilmer, Frederick C (1993), National Competition Review, Australian 
Government Publishing Service - Canberra, từ địa chỉ: 
w%20report,%20The%20Hilmer%20Report,%20August%201993.pdf. 
3. OECD (2012a), Competitive Neutrality: Maintaining a Level Playing Field 
between Public and Private Business, OECD Publishing. 
15 
4. OECD (2012b), Competitive Neutrality: A compendium of OECD recom-
mendations, guidelines and best practices, OECD Publishing. 
5. Hollander, Robyn (2006), “National Competition Policy, regulatory reform 
and Australian federalism: Research and evaluation”, Australian Journal of 
Public Administration, 65(2): 33–47. 
6. Rosenau, Henning/Tang Van Nghia (2014), Economic Competition Re-
gime: Raising Issues and Lessons from Germany, Nxb Nomos Baden-
Baden 2014 (CHLB Đức). 
7. Linh Trang (2016), “Cú tuýt còi dành cho MobiFone”, Thời báo kinh tế Sài 
Gòn, Số 33, tháng 8/2016. 

File đính kèm:

  • pdfcanh_tranh_trung_lap_nhung_thach_thuc_dat_ra_trong_viec_ap_d.pdf