Cảm thức từ bi mang sắc thái Phật giáo trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại viết về động vật

Trong bối cảnh môi trường suy thoái như hiện nay, việc trở về với triết lí “kính uý

sinh mệnh” của Phật giáo đã và đang là một xu hướng để tìm giải pháp tư tưởng cho việc bảo vệ

vạn vật trong tự nhiên và duy trì sự cân bằng của hệ sinh thái. Từ tình thương trầm tư Phật giáo,

văn xuôi sinh thái đương đại Việt Nam đã đưa ra thông điệp quan trọng để kiến lập nên chủ

nghĩa nhân văn sinh thái. Thông qua thể nghiệm nhân sinh Phật giáo trên cơ sở tâm bi (chia sẻ

cảm giác thương đau cùng muôn loài) và tâm từ (kiểu cốt truyện hướng thiện), bài viết liên hệ

tới những thông điệp xanh và xác định đặc điểm của chủ nghĩa nhân văn sinh thái trong phạm

vi tác phẩm văn xuôi đương đại viết về động vật. Bài viết cũng nhấn mạnh khả năng góp phần

kết nối văn học với những vấn đề thiết cốt của nhân loại về trách nhiệm con người trong việc

phát triển bền vững.

pdf 11 trang kimcuc 5240
Bạn đang xem tài liệu "Cảm thức từ bi mang sắc thái Phật giáo trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại viết về động vật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cảm thức từ bi mang sắc thái Phật giáo trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại viết về động vật

Cảm thức từ bi mang sắc thái Phật giáo trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại viết về động vật
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 03 (65) - 2020 23
Tóm tắt: Trong bối cảnh môi trường suy thoái như hiện nay, việc trở về với triết lí “kính uý 
sinh mệnh” của Phật giáo đã và đang là một xu hướng để tìm giải pháp tư tưởng cho việc bảo vệ 
vạn vật trong tự nhiên và duy trì sự cân bằng của hệ sinh thái. Từ tình thương trầm tư Phật giáo, 
văn xuôi sinh thái đương đại Việt Nam đã đưa ra thông điệp quan trọng để kiến lập nên chủ 
nghĩa nhân văn sinh thái. Thông qua thể nghiệm nhân sinh Phật giáo trên cơ sở tâm bi (chia sẻ 
cảm giác thương đau cùng muôn loài) và tâm từ (kiểu cốt truyện hướng thiện), bài viết liên hệ 
tới những thông điệp xanh và xác định đặc điểm của chủ nghĩa nhân văn sinh thái trong phạm 
vi tác phẩm văn xuôi đương đại viết về động vật. Bài viết cũng nhấn mạnh khả năng góp phần 
kết nối văn học với những vấn đề thiết cốt của nhân loại về trách nhiệm con người trong việc 
phát triển bền vững. 
Từ khóa: Chủ nghĩa nhân văn sinh thái, Động vật, Phật giáo, Từ bi, Văn học sinh thái
The compassionate feeling of Buddhist nuance in contemporary Vietnamese prose 
writing about animals
Abstract: In the current context of environmental degradation, returning to Buddhism’s 
“life-loving” philosophy has become a trendy solution to protect all things in the universe 
and to maintain the balance of the ecosystem. From the loving-kindness of the Buddhism, 
contemporary ecological Vietnamese prose writings have loaded an important message to 
establish the ecological humanism. Through the experience of Buddhist human life on the 
basis of compassion (sharing feelings of pain and suffering with all living beings) and kindness 
(a kind of story directed towards goodness), this article focuses on green messages and the 
characteristics of ecological humanism within the context of contemporary prose writing 
about animals. The article also emphasizes on the ability to connect the literature with the 
essential issues of mankind regarding human responsibility in sustainable development.
Keywords: Ecological humanism, Ecological crisis, Buddhism, Compassion, Ecoliterature
Ngày nhận bài: 10/02/2020 Ngày duyệt đăng: 10/05/2020
1. Đặt vấn đề
Từ bi là một khái niệm của Phật giáo, gồm Tứ vô lượng tâm: từ vô lượng, bi vô lượng, hỉ 
vô lượng, xả vô lượng mà chúng ta thường nói vắn tắt là từ bi hỉ xả. Xây dựng được bốn tâm lý 
từ, bi, hỉ, xả sẽ thuần dưỡng được nhân cách, lối sống tốt đẹp, chân thiện mỹ. Tâm từ bi được 
coi là tâm Phật. Từ bi là một trong những nền tảng cốt lõi của Phật giáo để xây dựng một tôn 
Cảm thức từ bi mang sắc thái Phật giáo
trong văn xuôi sinh thái Việt Nam đương đại viết về động vật
Trần Thị Ánh Nguyệt
Trần Lê Hồng Phúc
Trường Đại học Duy Tân
Email liên hệ: trananhnguyet5@yahoo.com
24 Trần Thị Ánh Nguyệt, Trần Lê Hồng Phúc
giáo tràn đầy tình yêu thương, không thù hận và dung hòa được tất cả các mối quan hệ xung 
quanh. Tâm từ là trạng thái đầu tiên trong bốn trạng thái tâm thức vô lượng, là lòng nhân từ, 
tình yêu thương vô điều kiện, không đòi hỏi được đáp trả, là khả năng hiến tặng niềm vui cho 
tha nhân. Tâm bi là khả năng làm vơi đi nỗi khổ, là lòng thương xót cứu khổ, dứt trừ đau khổ 
cho hết thảy chúng sinh. 
Căn bản của từ bi phải là không cướp đoạt, gây hại mạng sống của vật khác. Kinh Phạm 
võng ghi: “Hết thảy sanh mạng đều không được cố giết. Là Bồ-tát thì phải thường xuyên phát 
khởi và nuôi dưỡng tâm từ bi, tâm hiếu thuận; dùng mọi phương tiện để cứu hộ tất cả chúng 
sanh” (Nguyên Hùng, 2016).Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng đã từng phát biểu: “Tôi sát quyết 
rằng: sẽ không bao giờ sát hại sự sống, sẽ không bao giờ để ai được quyền sát hại sự sống và 
tôi sẽ không bao giờ tán đồng bất kỳ một hành động sát hại nào trên thế giới này, ngay cả 
trong tư duy chúng tôi hay là trong cách mà tôi đang sống” (Thích Nhất Hạnh, 2013). Từ bi là 
một trong những tư tưởng của Phật giáo xây dựng nên nền tảng vị tha, bảo vệ động vật, xây 
dựng một mối quan hệ cân bằng giữa con người và muôn loài trong hệ sinh thái. Từ bi không 
có nghĩa chỉ là thương yêu, san sẻ, đồng cảm giữa người với người mà còn là giữa người với 
động vật, thực vật. Từ bi là suối nguồn khơi mở sự yêu thương, vị tha, tháo tung biên giới của 
trái tim xưa nay vốn chỉ đập những nhịp nhỏ bé để mở rộng biên độ đến loài khác. 
Văn học và tôn giáo giống nhau ở điểm tác động vào tâm hồn khiến con người thay đổi 
tâm thức sinh sinh thái. Khơi dậy bản chất từ bi là chất liệu chuyển hóa thái độ và hành động 
của mỗi cá nhân, đi từ những quan niệm ích kỷ, tư lợi hẹp hòi của quan niệm “con người là 
trung tâm” (Anthropocentrism) đến cách sống bao dung, rộng mở với muôn loài “trái đất là 
trung tâm” (Earth-Centered). Trong đó, văn học sinh thái (Ecoliterature) nổi lên khi vấn đề biến 
đổi khí hậu, sự xuống cấp về môi trường ảnh hưởng đến toàn bộ sự sống trên trái đất. Dòng 
văn học này chú trọng đến trách nhiệm của con người đối với môi sinh, khẩn thiết kêu gọi bảo 
vệ vạn vật và duy trì cân bằng sinh thái. Văn học sinh thái Việt Nam có lẽ có bước phát triển nhất 
định là vào khoảng giữa những năm 1980 đến đầu những năm 1990, giai đoạn bắt đầu công cuộc 
Đổi mới, sự khởi động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đôi khi đã tàn phá tự nhiên, 
hi sinh tự nhiên vì mục tiêu phát triển kinh tế. Đến nay, tuy chưa thật sự có những thành tựu nổi 
bật, nhưng văn học đã có những động hướng mang ý thức sinh thái. Một trong những hướng đi 
ấy là văn xuôi đương đại chuyển tải tinh thần từ bi nhuốm màu Phật giáo nhằm sẻ chia động 
thái tích cực cho vấn đề bảo vệ sinh thái bằng phong cách sáng tác riêng thông qua những 
tác phẩm viết về động vật.
2. Tổng quan nghiên cứu 
Trong Phật giáo xuất hiện rất nhiều những tác phẩm liên quan đến vấn đề bảo vệ muôn 
loài. Jataka (còn gọi là kinh Bổn Sinh hoặc Chuyện tiền thân của Đức Phật) là những câu chuyện 
thuật lại toàn bộ đời sống của Ngài qua các kiếp đời, mang tính giáo huấn, răn dạy với nhiều 
ý nghĩa khác nhau: khi Đức Phật là một con bò, bà cụ đem lòng từ bi săn sóc như con ruột 
(Tiền thân Kanha (JAT.193); triệu phú thành Ba la nại vì khởi lòng từ, đốt lửa sưởi ấm, cung cấp 
thức ăn, cử người bảo vệ bầy diều hâu (Tiền thân Gijha (JAT.2,50) Ngoài ra, một số tập sách 
Truyện cổ sự tích cứu vật phóng sanh (Tịnh Không biên soạn, 2000); Khuyên người từ bỏ sự giết 
hại (Vạn Thiện Tiên Tư, 2015) tổng hợp rất nhiều câu chuyện về tình thương, niềm đồng cảm 
sâu sắc, sự san sẻ yêu thương, cứu giúp muôn loài khi gặp nạn; giúp vật, không những được 
trả ơn mà còn là tự mình thoát khỏi tai ách như Tử Sản nuôi cá, Tiết chế ăn uống được tăng tuổi 
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 03 (65) - 2020 25
thọ, Bầy lươn xin cứu mạng Kiểu cốt truyện cứu vật vật trả ơn xuất hiện với mật độ khá dày 
đặc trong truyện Phật giáo cho thấy tư tưởng “bất tổn sinh”, khuyên mọi người không nên giết 
hại loài vật. Giết hại hay làm tổn thương chúng sanh được xem là bất thiện và về bản chất là 
thiếu đạo đức; vì, một mặt, giết hại hay làm tổn thương chúng là hành động tàn bạo mà nó 
đưa đến những kết quả xấu cho kẻ gây ra. Phật giáo quan niệm mọi vật cũng như con người: 
“Hết thảy loài vật đều ham sống sợ chết, tìm chỗ an ổn, tránh chỗ nguy hại, so với tâm lí con 
người không khác” (Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải, 2015). Ngay cả việc an cư của chư tăng 
vào mùa mưa, ngoài ý nghĩa dành một thời gian nhất định để tu tập, phát triển đời sống tâm 
linh, còn gồm cả mục đích không gây hại cho loài sinh vật khác trong thời kì nảy mầm, sinh sôi 
phát triển: “Chúng sanh quanh ta rất nhiều, từ loài côn trùng nhỏ nhít cho đến các loài thảo 
mộc yếu mềm, ta đừng đứng lên chúng vì đứng trên chúng, chúng sẽ đau khổ, và chết chóc, 
héo úa” (Ghi chép lời trưởng lão Thích Thông Lạc, 2016). Giới cấm sát sinh là giới đầu tiên trong 
Phật giáo. Trong thế gian thân mạng là quý trọng nhất nên không được giết hại sinh mạng, 
huống chi động vật với ta cùng một thể, có thể là ta trong kiếp trước hoặc kiếp sau trong vòng 
luân hồi bất tận: “Hết thảy muôn loài mang máu huyết thần khí đều có tri giác cảm nhận, hết 
thảy những sinh vật động đậy bay nhảy đều chung một thể tánh với ta” (Nguyễn Minh Tiến 
dịch và chú giải, 2015).
Jacques Vernier trong công trình Sinh thái học nhân văn thống kê xác định: “Vào thế kỉ 
XVI, người ta ước tính rằng cứ 100 năm chúng ta mất đi một loại động vật; năm 1900, mỗi 
năm ta mất đi một loài, và đến ngày nay người ta cho rằng ít ra mỗi ngày chúng ta mất một 
loài” (Jacques Vernier, 2002). Tuy nhiên, những con số đáng báo động ấy vẫn không tỉnh thức 
được nhân loại. Ngày nay, rõ ràng các loài thú đã dần vắng bóng trong rừng, mùa xuân vắng 
lặng dần tiếng chim, con sâu róm đã chẳng bò trước cửa sổ phía trước khu vườn rậm rạp và 
thậm chí, khi con ong cuối cùng chết, loài người cũng trở nên tuyệt diệt. Yuval Noah Harari 
gọi “70.000 năm trở lại đây là thế Nhân Tân (Anthropocene): thế của loài người. Vì suốt những 
thiên niên kỉ này, Homo Sapiens đã trở thành tác nhân lớn nhất làm thay đổi hệ sinh thái toàn 
cầu” (Yuval Noah Harari, 2018). Sự kiêu ngạo của chủ nghĩa cá nhân đã xuất hiện những rạn 
nứt bên trong khiến con người trở nên cô đơn: “Trong cuộc Cách mạng nông nghiệp, loài 
người đã bắt cây cỏ và động vật phải im lặng, biến vở kịch lớn vật linh thành một cuộc đối 
thoại giữa người và Chúa. Trong cuộc Cánh mạng khoa học, loài người đã buộc cả Chúa cũng 
phải im lặng” (Yuval Noah Harari, 2018). Sự tác động và đảo lộn toàn bộ hệ sinh thái trên trái 
đất đã khiến con người đang đi đến Đợt tuyệt chủng thứ 6 – là đợt tuyệt chúng do chính loài 
người gây ra (Elizabeth Kolbert, 2014). Con người đã tạo ra nhiều thành tựu khoa học nhưng 
đôi khi những thành tựu đó đã hủy diệt muôn loài như trường hợp thuốc trừ sâu DDT (Rachel 
Louise Carson, 2018. Vì thế, những nghiên cứu như Vì sao phải nhìn những con vật của Berger 
(Berger, J., 2017) và Khi con vật nhìn ta của Fontenay, E. (Fontenay, E., 2013) ra đời nhằm mục 
đích kêu gọi sự nỗ lực nhìn lại mối tương quan, hòa thuận giữa con người với động vật. 
Trong bối cảnh con người đang đẩy vô vàn loài động vật đến bờ vực của sự tuyệt chủng, 
phê bình sinh thái (ecocriticism) đưa ra những cảnh báo về sự khủng hoảng môi trường sinh 
thái. Trong đó, phải kể đến là cuốn sách Con người và tự nhiên trong văn học Việt nam sau năm 
1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái (Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh, 2016), Rừng khô, suối 
cạn, biển độc và văn chương – Phê bình sinh thái (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017) đã trình bày 
một cái nhìn bao quát về dòng văn học sinh thái, cụ thể là về văn học Việt Nam sau 1975 từ cái 
nhìn phê bình sinh thái, một khuynh hướng mới trong phê bình văn học thế giới. Năm 2017, 
26 Trần Thị Ánh Nguyệt, Trần Lê Hồng Phúc
cuốn sách Phê bình sinh thái là gì? do Hoàng Tố Mai chủ biên đã tập hợp những bản dịch và 
tổng thuật của các nhà nghiên cứu như Phạm Phương Chi, Đặng Thị Thái Hà, Lê Quốc Hiếu, 
Trần Ngọc Hiếu, Hoàng Tố Mai, Nguyễn Trường Sinh để đem đến cho độc giả một cái nhìn 
rõ ràng hơn về phê bình sinh thái. 
Như vậy, từ các nhà nghiên cứu tôn giáo đến các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu văn 
học, các nhà văn Việt Nam đều có những quan tâm về động vật. Nghiên cứu về văn học đương 
đại Việt Nam mang cảm thức từ bi góp phần nhắc nhở rằng đạo đức môi trường cần mở rộng 
từ quyền con người sang quyền của thiên nhiên. 
3. Tâm bi - Chia sẻ cảm giác bị đau với muôn loài
Đặc tính của “tâm bi” là ý muốn giúp người khác thoát khỏi cảnh khổ, là động lực làm 
cho tâm rung động trước sự đau khổ của kẻ khác. Lòng của người có tâm bi thật là hiền hòa, 
nhu nhuyến và êm ái. Thậm chí người có tâm bi không ngần ngại hy sinh đến cả tính mạng, 
giúp mà không bao giờ mong đền ơn, đáp nghĩa. Trong những truyện văn xuôi sinh thái Việt 
Nam đương đại, kiểu nhân vật đi săn, nhân vật làm nghề đồ tể xuất hiện nhiều nhưng cảm 
hứng không phải là chinh phục tự nhiên, mà tâm bi nghiêng về cảm giác chia sẻ nỗi đau thể 
chất với những con vật. Các nhân vật khi chứng kiến con vật bị bị giết thịt, bị đánh, bị bắt, bị 
chôn đều cảm nhận nỗi đau về thể xác. Châu nhận thấy sự tinh khôn của con heo “ai nói 
ngu như lợn là sai, có vào nghề này mới biết nó cũng khôn và biết trước cái chết của mình”; 
nỗi đau đớn của con trâu: “Đau lắm. Chắc là đau đớn lắm nên tiếng kêu bi thương ngoài sức 
tưởng tượng” (Đồ tể, Nguyễn Trí, 2013) nên anh cảm thấy ghê rợn, ám ảnh khi phải làm nghề 
đồ tể. Nương và Ðiền chứng kiến cảnh những con vịt của mình bị chôn sống, cảm thấy đau 
đớn đến nghẹt thở “tôi nghe vịt - của - tôi vẫn còn thoi thóp, chúng đau đớn vì những cái cổ 
gãy, rồi quặt quẹo cảm nhận được cái thở hướt ngắn dần, ngắn dần của con vật sau cùng” 
(Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư, 2010). Con người cảm nhận nỗi đau của con vật như 
nhận ra nỗi đau của đồng loại: “Họ phởn phơ nói bằng thứ ngôn ngữ buồn cười (bọn chăn 
vịt chúng tôi chẳng khi nào dùng những chữ “chỉ thị”, “loại trừ tận gốc” hay “giải quyết dứt 
điểm”). Thật đơn giản, khi nói “các người phải tiêu hủy bầy vịt”. Cha tôi cáu kỉnh gật đầu. Tôi 
và Điền kêu lên một tiếng buốt, ôi, những bạn – bè của chúng tôi sắp bị chôn sống nữa rồi” 
Ông Khúng cảm thấy đau đớn, ám ảnh trước những phản thịt bò bày bán ở chợ, không nỡ bán 
con bò Khoang cho người ta giết thịt mà tha bổng cho nó về rừng (Phiên chợ Giát, Nguyễn 
Minh Châu, 2001) Ông Diểu đi săn nhưng chủ yếu cảm nhận “sự tĩnh lặng bình thản của 
rừng xuyên suốt qua ông” (Muối của rừng, Nguyễn Huy Thiệp, 1995), nên mỗi lần gây tai họa 
cho khỉ, ông đều ân hận, thảng thốt. Khi dương súng bắn, “sự hỗn loạn của đàn khỉ khiến ông 
Diểu sợ hãi run lên Ông đã lộ mặt là tên ám sát”; khi dồn khỉ con đến miệng vực khiến nó 
lăn xuống, “ông Diểu tái mặt, mồ hôi toát ra như tắm. Từ vực sâu hun hút vang lên tiếng rú thê 
thảm của con khỉ nhỏ. Ông Diểu lùi lại kinh hoàng” Phải chăng, đó là bước đầu của sự thức 
tỉnh nhân tính, sự bừng ngộ tình yêu đối với muôn loài, bằng chứng là ông đã rên khe khẽ, nói 
“chạy đi” khi con khỉ cái lại gần con khỉ đực lúc này đang bị thương. Và từ cảm giác thức ngộ 
“Ông vừa làm điều ác”, trong lòng dâng lên một nỗi cảm phục và thương hại sâu sắc với con 
khỉ cái, ông quyết định leo xuống núi để cứu con khỉ đực. Đó là hành trình nhận thức trước 
cảm giác đau đớn của con khỉ. Khi ông băng bó vết thương, tiếng rên của con vật đánh thức 
lòng trắc ẩn trong ông, ông thấu cảm nỗi đau thể chất với nó. Khi vác con khỉ đực bị thương 
xuống núi, ông chăm sóc cho nó “thấy thương hại”, “tránh nhìn vào mắt nó” vì “dễ mủi lòng”. 
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 03 (65) - 2020 27
Muối của rừng đã khơi dậy trong lòng bạn đọc ý nghĩa nhân văn thâm sâu và lòng trắc ẩn từ 
con người. Học cách yêu quý muôn loài là cách chúng ta nuôi dưỡng nhân tính. Hầu hết, trong 
các cốt truyện đi săn trong văn xuôi sinh thái đương đại, các tác giả đều tập trung khắc họa 
cảnh những loài vật đang sống yên tâm, vui vầy thì gặp tai họa do người thợ săn gây ra: con 
khỉ mẹ đang phơi nắng bắt chấy cho con (Lão Sìn và con khỉ, Phạm Xuân Hiếu, 2009), đàn chim 
sẻ đang mổ những hạt thóc của bà cụ Cần nhân hậu thì tai vạ chợt đến (Bà cụ Cần và đàn chim 
sẻ, Ma Văn Kháng, 2013). Tình cảnh này cũng được Anh Bằng mô tả trong bài hát Người thợ 
săn v ...  ổn về mặt tâm lí, không thể giao tiếp với đồng loại – đó là 
căn nguyên của việc tìm sự đồng cảm trong tự nhiên. Đoan (Con chó và vụ li hôn, Dạ Ngân) 
nhẫn nhịn, chịu đựng mọi bất công, thói gia trưởng, tính ích kỉ của người chồng và cả khi đứng 
trước tòa án dưới con mắt dò xét của vị thẩm phán và thái độ nanh nọc của người chồng cũng 
không thể cất lời. Sự thức tỉnh nhân tính và sửa chữa khiếm khuyết của việc thiếu hụt nhân 
tính bằng việc yêu thương loài vật để cảm thấy được an ủi được phản ảnh qua nhân vật Đoan. 
Đoan cũng là một người phụ nữ có tâm hồn hướng thiện, yêu thương loài vật. Nhưng chính 
tình yêu không toan tính đó lại làm cho Nhiêu cảm thấy thừa thãi trong chính căn nhà của 
mình, và lúc đó bản tính độc đoán, tàn nhẫn của anh ta có dịp trỗi dậy, một chuỗi các hành 
động độc ác của Nhiêu (đập con Mực và con Vàng, thả chó con xuống sông, giết con Mực khi 
nó mang chửa), sự tục tằn trong tư tưởng khi gần gũi vợ khiến Đoan cảm thấy ghê tởm, 
nhàm chán và không muốn gần chồng. Lâu dần, chính những thứ cảm xúc mơ hồ phát sinh 
từ cuộc sống hằng ngày, cái mảng tối khi Nhiêu đối xử với con Mực khiến Đoan quyết định ly 
30 Trần Thị Ánh Nguyệt, Trần Lê Hồng Phúc
hôn. Cả hai ly hôn chỉ vì một con chó, mới nghe qua có lẽ hơi vô lý, tuy nhiên đối với tâm hồn 
của một người thương yêu con vật, đó là diễn tiến tâm lý hợp logic. Khi người ta đã coi con 
vật là bạn thì tất cả những hành động ngược đãi loài vật trở thành mũi dao giết chết tình cảm 
vốn đã mong manh giữa hai bên. Chuyến đi cuối năm (Sương Nguyệt Minh) cũng là một thức 
nhận của con người khi đối diện với tình yêu của loài vật. Tình cảm và hành động của con khỉ 
cái bảo vệ cho khỉ đực và khỉ con đã khiến nhân vật thức tỉnh về suy nghĩ giống cái bội bạc mà 
lâu nay cha anh đã gieo rắc vào đầu. Chính tình cảm gia đình khỉ đã làm anh nhận ra bài học 
sơ giản về tình yêu thương, “anh cảm thấy mọi sự bon chen, toan tính, bạc tình, mưu lợi đều vô 
nghĩa hết. Bỗng dưng anh học được một bài học vô giá ở núi rừng Tam Điệp”. Thật vậy, động 
vật cũng như con người, cũng biết yêu thương đồng loại, cũng biết vợ chồng keo sơn, cũng có 
gia đình, con cái Trong cuộc rượt đuổi, truy lùng, săn bắt, con người bắt gặp lại chính hình 
ảnh về đời sống sinh hoạt cộng đồng của mình. Chỉ những ai có niềm đồng cảm mới thấu rõ 
được đời sống với logic ngàn đời của vạn vật như thế. 
Nhiều nhà văn quan niệm chính ngôn ngữ loài người với những đặc quyền văn hóa, với 
những bất công được mặc định trong hệ thống ngôn ngữ loài người đã đẩy con người vào bi 
kịch. Con người đem lí trí vào mọi loại tình cảm, lấy cái giả dối làm khuất lấp sự trong sáng của 
ngôn ngữ. “Em” (Gió lẻ) phát hiện ra rằng “không biết trên thế gian này có con chim nào tìm tới 
cái chết vì tiếng nói của con chim khác? Có con chó nào bỗng dưng đâm đầu vào đá vì tiếng 
sủa của con chó khác? Có con bò nào nhảy xuống sông tự tử vì tiếng kêu của con bò khác?”. 
Điền và Nương (Cánh đồng bất tận) chán chường, cô đơn, mất niềm tin vào thế giới người, tìm 
đến tự nhiên thanh sạch, an lành, bao dung: “Chị em tôi học cách yêu thương đàn vịt (hi vọng 
là sẽ không bị đau như yêu thương một con người nào đó) chơi với người thấy buồn nên 
chuyển qua chơi cùng vịt”. Đặt con người trong thế đối lập với loài vật, tác phẩm Nguyễn Ngọc 
Tư chạm vào nỗi đau sâu thẳm của nhân loại thời hiện đại: rời bỏ tự nhiên nghĩa là con người 
đã rời bỏ bản tính thiên nguyên tốt đẹp của mình. Lắng nghe tiếng nói của loài vật, ta nhận 
ra rằng thế giới tự nhiên cũng có tâm hồn, tính cách và tràn đầy yêu thương, trái ngược lại với 
thế giới loài người đầy bất trắc, xảo trá, lọc lừa: “Thế giới của loài vịt mở ra - không ghen tuông, 
hờn giận, chắc tại cái đầu vịt nhỏ quá nên chỉ đủ cho yêu thương”. Ông lão trong truyện Người 
nói tiếng bồ câu (Mạc Can) cũng cảm nhận: “Lạ kì là bồ câu ít khi mâu thuẫn, nói tiếng gì đúng 
nghĩa đó, nghĩ sao nói đúng như vậy chứ không phải như con người”. Sự chân thật của muôn 
loài thể hiện ngay trong ngôn ngữ. So sánh với loài vật, các tác giả cho thấy nỗi hoài nghi về 
sự chân thật trong ngôn ngữ của loài người, có thể che đậy trong đó rất nhiều hư ngụy. Quan 
điểm này cũng được nhiều nghệ sĩ ưu tư với đời sống chia sẻ. Bài hát Bác làm vườn và con 
chim sâu (Đức Hùng) dù lấy cảm hứng từ bộ phim hoạt hình dành cho trẻ nhỏ: con người có 
thể nói chuyện với chim chóc và muông thú, đã đặt ra những suy nghĩ hết sức nghiêm túc 
về hiện sinh, những câu hỏi về thời gian và sự hữu hạn, về tình yêu và cái chân thật, về niềm 
hạnh phúc và tự do mà so với cái bao la của bầu trời và cái an nhiên của con chim sâu, con 
người không thể có được. Soi vào thế giới loài vật, lắng nghe tiếng nói và tâm hồn của chúng, 
con người trong văn học sau năm 1975 đã từ bỏ tư thế kiêu hãnh “kiểu mẫu của muôn loài” để 
nhận ra sự bất toàn của mình. Tạo hóa sinh ra con người và muôn loài là tốt đẹp và hoàn hảo, 
chỉ vì con người với những lí trí, dục vọng đã làm khuất lấp đi vẻ đẹp tự nhiên ấy. Vì đánh 
mất bản tính tự nhiên tốt đẹp, con người trở nên bất toàn. 
Christopher Manes chỉ trích “Địa vị chủ thể phát ngôn được khư khư ôm giữ như là đặc 
quyền chỉ dành riêng cho con người” (Manes C, 1996). Cái nhìn này theo ông, đã giới hạn 
ngôn ngữ trong phạm vi loài người. Thực ra, không phải như vậy, loài vật có ngôn ngữ riêng 
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 03 (65) - 2020 31
của nó. Con người không nghe thấy tiếng nói đó chứ không phải không tồn tại. Các nhà phê 
bình sinh thái khẳng định rằng “quan điểm coi tự nhiên là câm lặng, không có tiếng nói cũng 
chủ yếu cho thấy về sự khước từ lắng nghe của chính chúng ta chứ không phải là về năng lực 
giao tiếp của tự nhiên”, “không đồng nghĩa với việc cho rằng thế giới tự nhiên chỉ là một cái gì 
hoàn toàn câm lặng” (Rigby K, 2014). Soi chiếu với muông thú, các nhà văn đã “đảo lộn” những 
quan điểm mặc định về những điều vẫn được xem là độc nhất. Một số nhân vật trong văn xuôi 
sinh thái có thể nghe thấy tiếng nói của loài vật. Tiếng con dế hát trong đêm một cách vô tư 
lự: “Con dế mèn ở ngoài vườn kia ri rỉ ca hát, nó sung sướng với sự sống bé nhỏ mà Thượng 
đế ban cho nó. Chẳng hề ghen tị với ai” (Thổ cẩm, Nguyễn Huy Thiệp, 1995) nhắc nhở về cái 
tự tại của tự nhiên mà con người không nghe thấy, chẳng qua là vì không có khả năng lắng 
nghe mà thôi. Như vậy, qua văn xuôi sau 975, độc giả đã bắt gặp motif “người hiểu tiếng loài 
vật”. Ông Su Da từ bé đã trèo lên cây trứng cá chơi, nghe và nói chuyện với chim bồ câu: “Thật 
tình tiếng bồ câu không khó nói lắm, dễ hơn tiếng Anh nhiều... một tiếng “gù” âm giống nhau 
nhưng khi nghĩa này lúc lại nghĩa khác, rất ít tiếng nhưng đa nghĩa” (Người nói tiếng bồ câu, 
Mạc Can, 2010).
 Những vị kỉ, độc đoán, sân hận khiến khả năng giao tiếp của con người bị mất, trở nên 
xa cách, cô độc, đánh mất tình yêu, chỉ còn lại giận dữ và thù hận. Lắng nghe bằng tâm từ sẽ 
giúp con người nhận ra tiếng nói của tự nhiên, làm bạn với loài vật sẽ giúp con người nhận 
ra lòng yêu không vị kỉ, trở nên rộng mở và khoan hòa. Lão Sìn sống cô độc, không giao tiếp, 
không ngôn ngữ. Nhưng từ khi nói chuyện với khỉ con, con vật đã đánh thức trở lại ngôn ngữ, 
niềm vui giao tiếp mà bấy lâu nay đánh mất: “Hôm nay lão thay đổi tính, lẩm bẩm nói nhều 
không biết với mình hay với khỉ con niềm vui sướng? Vì lâu quá lão không được nói. Không ai 
nói với lão” (Lão Sìn và con khỉ, Phạm Xuân Hiếu, 2009). Với loài người, lão là một ông già lẩm 
cẩm, cô độc, còn đối với loài vật là bạn bầu thân thiết, sẻ chia: “Những người lão gặp không ai 
để ý đến lão, hỏi lão một câu. Lão thích được nói nhưng không ai nghe thì nói với ai? Đành thui 
thủi một mình Từ ngày có khỉ con, lão Sìn thay đổi lối sống, thường sai khiến khỉ con bằng 
những ngôn ngữ chỉ có lão biết”. Chú khỉ con, sau khi được lão Sìn cứu, đã gắn bó thân thiết 
với lão không rời “nó không đi, cứ bám chặt cổ lão”. Dường như cảm nhận được tình thương 
lan tỏa, con khỉ quấn quýt bên lão, làm vui cho lão, khiến cuộc đời cô quạnh của lão trở nên 
hoạt náo hơn, sinh khí hơn. Lão thương khỉ như con. Khi phát hiện ra con khỉ con nằm ẹp dưới 
đáy lồng, kêu en ét, lão đã “vội bẻ lồng tre đưa bàn tay nhẹ nhàng nâng khỉ con ra khỏi lồng, 
áp vào bụng đi thẳng về nhà”. Rồi lại chăm bẵm như con nít, “mang hộp sữa rỉ vàng hết vỏ để 
dành từ lâu ra đút cho khỉ con”. Lão Sìn chia sẻ cái áo ngoài rách bả vai, trải trên giường, đặt khỉ 
con nằm, thủ thỉ: “Mày phải sống, khỏe tao thả về rừng”. Sự dễ thương rất mực của một ông già 
với một con khỉ non làm nảy nở tình cảm như là tình cha con, quấn quýt và thương mến. Tuy 
nhiên, tai họa ập xuống khi lão Voòng bắt khỉ con về để biểu diễn xiếc. Từ đó, lão Sìn buồn bã 
“không ăn, không uống, nằm liệt giường, thoi thóp nhìn lên xà tre trên trần nhà, chỗ khỉ con 
hàng đêm vẫn nằm ngủ”. Trong một lần biểu diễn, khỉ con đã trốn thoát, tìm cách quay về với 
người yêu thương thật sự với nó: “Lão giật mình mở mắt. Có bàn tay nhỏ bé đang sờ lên trán 
lão, đang truyền cho lão sức mạnh diệu kỳ. Lão thấy mình phải sống, phải làm một cái gì đó. 
Phải sống để che chở cho khỉ con của lão”. Kỳ lạ thay, chính lòng hướng thiện đã đem lại thứ 
hạnh phúc viên mãn cho trái tim thuần lương.
Nghe tiếng loài vật, con người nhận ra loài vật có sinh mệnh, tâm hồn, tình cảm, cảm 
giác, ngôn ngữ, do vậy các nhân vật trong truyện thấu cảm với động vật, chia sẻ cảm giác đau 
32 Trần Thị Ánh Nguyệt, Trần Lê Hồng Phúc
đớn với chúng, yêu thương muôn loài bằng lòng nhân ái. Tiếng nói yêu thương sẽ cứu vớt con 
người. Lắng nghe với lòng từ tâm, tự chiều sâu tâm thức con người sẽ nuôi dưỡng an hòa và 
thương ái.
5. Kết luận 
Trong mối quan hệ với tự nhiên, đạo đức sinh thái của thế kỉ XXI đã có những thay đổi, 
con người không còn là kẻ chinh phục mà là những người biết cúi xuống những số phận tự 
nhiên bị thương tổn, biết chia sẻ cảm giác bị đau với động vật, biết lắng nghe tiếng nói từ vạn 
vật, biết chia sẻ và tôn trọng muôn loài. Do vậy, đạo đức sinh thái trong văn xuôi đương đại 
Việt Nam đưa ra đề xuất chủ nghĩa nhân văn sinh thái (Ecological Humanism) không chỉ ca 
ngợi con người như “chúa tể của muôn loài” mà là thái độ sống tôn trọng vạn vật để hướng tới 
cuộc sống bền vững, yên ổn, hạnh phúc. Kiến lập đạo đức sinh thái phải bắt nguồn từ việc xây 
dựng chủ nghĩa nhân văn sinh thái, thông qua sự thay đổi tư duy, cách nhìn nhận. Từ bi trong 
giáo dục Phật giáo thể hiện được khía cạnh năng động nhập thế của mình, với tinh thần bình 
đẳng đầy giá trị nhân bản, hình thành nên những giá trị đạo đức tích cực. Văn học trong thời 
đại khủng hoảng sinh thái toàn cầu quay trở lại với những tác phẩm mang sắc thái Phật giáo 
để tác động đến tâm hồn con người, ngõ hầu khơi gợi và thức tỉnh lương tri của từng cá nhân. 
Từ “quyền con người” đến “quyền động vậ”t đánh dấu bước tiến lớn trên lộ trình nhân văn hóa 
con người. Do đó, văn học, nơi bắt đầu của những phản biện với những lối mòn tư duy cần 
cất lên tiếng nói của sự phản tỉnh. Có như vậy, văn học Việt Nam mới tiếp cận được với những 
vấn đề khẩn thiết trong thời đại mà sự khủng hoảng sinh thái trở thành vấn đề nghiêm trọng 
toàn cầu.
Tài liệu tham khảo
Berger, J. (2017). Vì sao phải nhìn những con vật. Đặng Thị Thái Hà dịch, Phê bình sinh thái 
là gì?. Hoàng Tố Mai chủ biên. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Carson, R. L. (2018). Mùa xuân vắng lặng. Nhóm Khánh An dịch. Nxb Thế giới, Hà Nội.
Thích Minh Châu dịch (1991). Chuyện Tiền thân Đức Phật: Viện Nghiên cứu Phật học Việt 
Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Dậu (1990). Con thú bị ruồng bỏ. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Fontenay, E. (2013). Khi con vật nhìn ta. Hoàng Thanh Thủy dịch. Nxb Tri thức, Hà Nội.
Fukuoka, M. (2017). Cuộc cách mạng một cọng rơm. Xanh Shop dịch. Nxb Tổng hợp, 
Thành phố Hồ Chí Minh.
Thích Nhất Hạnh (2013). Giới thứ nhất: Tôn trọng sự sống. Truy xuất từ https://langmai.
org/tang-kinh-cac/vien-sach/thien-tap/de-co-mot-tuong-lai/gioi-thu-nhat-ton-trong-su-
song/, ngày 01/02/2020.
Ngân Hoa, Quế Hương, Đỗ Bích Thuý (2007). Truyện ngắn ba cây bút nữ. Nxb Phụ nữ, Hà 
Nội.
Nguyên Hùng (2016). Vài suy nghĩ về quyền động vật trong kinh. Truy xuất từ https://
giacngo.vn/nguyetsan/2016/05/04/76C093, ngày 01/02/2020.
Phạm Xuân Hiếu (2009). Lão Sìn và con khỉ, Truy xuất từ 
Lao-Sin-va-khi-con-326589/, ngày 01/03/2020.
Ma Văn Kháng (2006). Chó Bi, đời lưu lạc. Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 
Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, Số 03 (65) - 2020 33
Ma Văn Kháng (2013). Bà cụ Cần và đàn chim sẻ. Truy xuất từ https://thanhnien.
vn/van-hoa-nghe-thuat/van-hoc/ba-cu-can-va-bay-chim-se-truyen-ngan-cua-ma-van-
khang-356468.html, ngày 01/02/2020.
Ma Văn Kháng (2017). 100 truyện ngắn Ma Văn Kháng, tập 2. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Nguyễn Thị Mai Liên (2015). Tư tưởng tôn giáo - triết học trong văn học Ấn Độ thời kỳ Cổ - 
Trung đại. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
Yuval Noah Harari (2018). Homo Deus: Lược sử tương lai, Dương Ngọc Trà dịch. Nxb Thế 
giới, Hà Nội.
Kolbert, E. (2014). Đợt tuyệt chủng thứ sáu: Một lịch sử phi tự nhiên. Trần Trọng Hải Minh 
dịch. Nxb Tri thức, Hà Nội. 
Pháp sư Tịnh Không, Thích Phước Sơn (Việt dịch) (2000). Truyện cổ sự tích cứu vật phóng 
sinh. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Ghi chép lời trưởng lão Thích Thông Lạc (2016). Trau dồi tứ vô lượng tâm. Giáo án tu tập 
đường lối tu hành Đạo Phật, Thành phố Hồ Chí Minh, Truy xuất từ https://thuvienthaythonglac.
net/ thu-muc-goc-tu-sinh/528-trau-doi-tu-vo-luong-tam, ngày 01/02/2020.
Leopold, A. (1966). A sand county almanac. New York: Ballantine Books.
Vạn Thiện Tiên Tư (2015). Khuyên người bỏ sự giết hại. Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải. 
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
Manes, C. (1996), “Nature and Silence”, The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary 
Ecology edited by Cheryll Glotfelty and Harold Fromm. University of Georgia Press.
Sương Nguyệt Minh (2011). Đêm Thánh vô cùng. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
Rigby K. (2014). Chapter 7: “Ecocritisim”, Introducing Criticism at the Twenty -First Century, 
Edinburgh UP, Đặng Thị Thái Hà dịch, Phụ lục luận văn Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh 
thái (Qua tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư), Luận văn thạc 
sĩ. Đại học Sư phạm Hà Nội.
Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh (2016). Con người và tự nhiên trong văn xuôi sinh thái 
Việt Nam đương đại. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Trí (2013). Đồ tể. Nxb Văn học, Hà Nội.
Quý Thể (2009). Tuyển tập truyện ngắn (Tác giả tự chọn). Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ 
Chí Minh. 
Nguyễn Huy Thiệp (1995). Như những ngọn gió. Anh Trúc tuyển chọn. Nxb Văn học, Hà Nội.
Nguyễn Huy Thiệp (1995). Truyện ngắn chọn lọc. Nxb Văn học, Hà Nội.
Nguyễn Thị Tịnh Thy (2017). Rừng khô, suối cạn, biển độc và Phê bình sinh thái. Nxb Khoa học 
Xã hội, Hà Nội.
Vernier J. (2002). Môi trường sinh thái. Trương Thị Chí, Trần Chí Đạo dịch. Nxb Thế giới, 
Hà Nội.
Trần Hải Yến (2014). “Nghiên cứu phê bình sinh thái hiện đại và di sản văn hóa: nhìn từ 
cách Sinh thái học tìm về Tam giáo” (Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo). Hội thảo khoa học Phát 
triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế. Viện Văn học, Hà Nội.
Wall, D. (1994). Green history: A reader in environmental literature, philosophy, and politics. 
Taylor & Francis US.

File đính kèm:

  • pdfcam_thuc_tu_bi_mang_sac_thai_phat_giao_trong_van_xuoi_sinh_t.pdf