Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ và di chuyển lao động hướng đến cộng đồng kinh tế Asean (AEC) và một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam

Hiện nay, ASEAN được đánh giá là một khu vực năng động với tiến trình hội nhập kinh tế sâu

rộng. Từng quốc gia đang tích cực triển khai cụ thể các thỏa thuận nhằm hướng đến hình thành

AEC vào cuối năm 2015. Dịch vụ chính là một nội dung trọng tâm và các nước thành viên tập trung

nỗ lực đổi mới trong thời gian qua. Trong phạm vi bài viết này1, tác giả sẽ phân tích những cam kết

cụ thể trong một số lĩnh vực dịch vụ điển hình gắn với những cơ hội nghề nghiệp cho lao động có tay

nghề tại ASEAN, từ đó gợi mở một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong giai đoạn hội nhập sắp tới.

pdf 12 trang kimcuc 2860
Bạn đang xem tài liệu "Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ và di chuyển lao động hướng đến cộng đồng kinh tế Asean (AEC) và một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ và di chuyển lao động hướng đến cộng đồng kinh tế Asean (AEC) và một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam

Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ và di chuyển lao động hướng đến cộng đồng kinh tế Asean (AEC) và một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
65Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015)
1. Một số cam kết liên quan đến tự do 
hóa trong ngành dịch vụ và di chuyển lao 
động có tay nghề tại ASEAN
Hiện nay, các thành viên ASEAN đang đẩy 
nhanh những nỗ lực trong tiến trình hội nhập 
kinh tế sâu rộng tại khu vực. Trong hơn 10 
năm gần đây, tự do hóa lĩnh vực dịch vụ là 
một xu hướng nổi bật và chính phủ các quốc 
gia này đang tích cực triển khai theo từng cấp 
bậc cụ thể 2. 
Tóm tắt 
Hiện nay, ASEAN được đánh giá là một khu vực năng động với tiến trình hội nhập kinh tế sâu 
rộng. Từng quốc gia đang tích cực triển khai cụ thể các thỏa thuận nhằm hướng đến hình thành 
AEC vào cuối năm 2015. Dịch vụ chính là một nội dung trọng tâm và các nước thành viên tập trung 
nỗ lực đổi mới trong thời gian qua. Trong phạm vi bài viết này1, tác giả sẽ phân tích những cam kết 
cụ thể trong một số lĩnh vực dịch vụ điển hình gắn với những cơ hội nghề nghiệp cho lao động có tay 
nghề tại ASEAN, từ đó gợi mở một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong giai đoạn hội nhập sắp tới.
Từ khóa: AEC, lao động có trình độ cao, lĩnh vực dịch vụ, Việt Nam, tự do hóa.
Mã số: 193.161015. Ngày nhận bài: 16/10/2015. Ngày hoàn thành biên tập: 30/10/2015. Ngày duyệt đăng: 30/10/2015.
Summary 
Nowadays, Association of the South East Asian Nations (ASEAN) is really considering as the 
dynamic region in the process of the deaper economic intergration. Each member in this region is 
actively carrying out the specific commitments towards ASEAN Economic Community (AEC) by the 
end of 2015. Service sector is actually the key issue, and all the members have planned to focus in for a 
long time. In this paper, the author analyses the specific commitments in some significant service sectors 
related to the job opportunities for the skilled labor in ASEAN, and emphasizes some implications for 
Vietnam’s economy related to policies, standardising and trainning skilled labor next period.
Key words: AEC, liberalization, service sector, skilled labor, Vietnam. 
Paper No. 193.161015. Date of receipt: 16/10/2015. Date of revision:30/10/2015. Date of approval: 30/10/2015 .
CAM KẾT TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ VÀ DI CHUYỂN LAO ĐỘNG 
HƯỚNG ĐẾN CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC) 
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO VIỆT NAM
Trần Thị Ngọc Quyên*
* TS, Trường Đại học Ngoại thương,, Email: quyenvinh78@yahoo.com
1 Tác giả thực hiện bài viết này trong khuôn khổ đề tài “Hài hòa hóa khung chính sách đầu tư hướng tới phát triển 
bền vững tại ASEAN và gợi ý chính sách cho Việt Nam” (2015-2016), mã số B2015-08-21 được Bộ Giáo dục – 
Đào tạo tài trợ do TS. Trần Thị Ngọc Quyên là chủ nhiệm.
2 Trong 20 năm qua, ASEAN đã có nhiều Hiệp định liên quan đến phát triển dịch vụ và các nội dung đều hướng 
tới thuận lợi hóa lĩnh vực này. Cụ thể, Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) 2009; Hiệp định khung 
về thương mại dịch vụ (AFAS) năm 1995 hướng tới dịch vụ di chuyển tự do; Hiệp định đầu tư toàn diên (ACIA) 
năm 2009 hướng đến vốn di chuyển và đầu tư tự do và Hiệp định di chuyển thể nhân (MNP) năm 2012 hướng 
đến tự do di chuyển đối với các nhà đầu tư và các lao động có tay nghề. Các cam kết hướng đến AEC sẽ tập trung 
vào 4 trụ cột, đó là một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, một khu vực kinh tế cạnh tranh, phát triển kinh 
tế công bằng và hội nhập kinh tế toàn cầu. (ASEAN Secretariat)
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
66 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015)
1.1. Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ tại 
ASEAN
Với cam kết tự do hóa một số lĩnh vực 
theo Hiệp định khung về thương mại dịch vụ 
trong ASEAN (AFAS), cho thấy các quốc gia 
đã đánh giá vai trò quan trọng của lĩnh vực 
dịch vụ và thể hiện bằng những nỗ lực thực 
tế. Cùng với đó, AEC được thành lập nhằm 
mục đích tạo dựng một thị trường và cơ sở 
sản xuất thống nhất, thúc đẩy luân chuyển tự 
do hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động có tay 
nghề tại ASEAN. Đồng thời, các nước thành 
viên nhất trí đề ra Cơ chế thực hiện và Lộ 
trình chiến lược thực hiện Kế hoạch tổng thể 
ASEAN và xác định 12 lĩnh vực ưu tiên đẩy 
nhanh liên kết với lộ trình hoàn thành đến năm 
2010, đó là hàng nông sản, ôtô; điện tử; nghề 
cá; các sản phẩm từ cao su; dệt may; các sản 
phẩm từ gỗ; vận tải hàng không; thương mại 
điện tử ASEAN; chăm sóc sức khỏe; du lịch 
và logistics. Hướng đến AEC vào đầu 2016, 
các cam kết tự do hóa về dịch vụ bao gồm 
nhiều lĩnh vực như dịch vụ kinh doanh, dịch 
vụ chuyên nghiệp, xây dựng, phân phối, giáo 
dục, môi trường, vận tải biển, viễn thông và 
du lịch. Đây cũng là cơ sở để mỗi nước cụ thể 
hóa chính sách phát triển trong từng lĩnh vực.
1.2. Cam kết liên quan đến di chuyển tự 
do lao động có kỹ năng 
Thực tế, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) 
đã có hướng dẫn cụ thể về quy định chung liên 
quan đến lao động có trình độ, trong đó có 3 
nhóm cơ bản3. Di chuyển lao động có tay nghề 
được hiểu là những lao động có hiểu biết sâu 
rộng về lĩnh vực nghề nghiệp của họ và có khả 
năng di chuyển làm việc ở một địa điểm khác 
tại ASEAN (Wolfgang Form, 2014). Điều đó 
có nghĩa là khi thực hiện cam kết di chuyển lao 
động có trình độ tay nghề giữa các thành viên 
ASEAN, thì chính phủ các quốc gia này cần 
đảm bảo những quy định pháp lý nhằm thuận 
lợi hóa liên quan đến nhiều nội dung như thủ 
tục về visa, chứng nhận nghề nghiệp, tuyển 
dụng, đảm bảo quyền lợi lao động của các đối 
tượng này khi làm việc tại các nước thành viên. 
Về di chuyển lao động và cạnh tranh tại AEC 
sẽ có cam kết công nhận chứng chỉ đối với lao 
động cấp cao giữa các nước thành viên, đặc biệt 
là trong 8 lĩnh vực: kế toán, kiến trúc sư, nha 
khoa, bác sĩ, điều dưỡng, kỹ sư, giao nhận và 
du lịch. Ngoài ra, nhân lực chất lượng cao (các 
chuyên gia, thợ lành nghề), trong đó nhân lực 
phải được đào tạo chuyên môn hoặc có trình độ 
từ đại học trở lên. Yêu cầu về chất lượng nguồn 
nhân lực cao đòi hỏi lao động cần có chuyên 
môn, kỹ năng nghề nghiệp, thông thạo ngoại 
ngữ, đặc biệt tiếng Anh. Đối với trình độ chuyên 
môn, lao động cần phải có chứng chỉ nghề, 
hoặc bằng cấp được công nhận trong phạm giữa 
các quốc gia này. Vì vậy, lao động có trình độ 
cao hơn tại các doanh nghiệp nội địa của từng 
nước ASEAN sẽ có cơ hội để di chuyển sang 
các thành viên khác để làm việc và ngược lại. 
Mức lương sẽ cao hơn và kỹ năng cũng như thái 
độ nghề nghiệp cũng được cải thiện. Nói cách 
khác, cùng với những những cam kết trong lĩnh 
vực dịch vụ, nhu cầu người tiêu dùng trong khu 
vực gia tăng, chênh lệch về thu nhập lớn, trình 
độ nguồn nhân lực giữa các quốc gia ASEAN sẽ 
là nguyên nhân quan trọng di chuyển giữa các 
nước thành viên.
Thực tế, do có những quy định tự do hóa 
đối với di chuyển lao động có kỹ năng trong 
3 Một là, nhóm lao động có chuyên môn nghề nghiệp, công nghệ và các vị trí liên quan. Hai là, nhóm lao động có 
chuyên môn quản trị và quản lý. Ba là, nhóm chuyên môn văn phòng và các công việc liên quan (ILO).
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
67Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015)
phạm vi ASEAN, cho nên, các doanh nghiệp 
nội địa tại các nước này có nhiều cơ hội để thu 
hút các chuyên gia, ví dụ như trong lĩnh vực 
quản trị kinh doanh tại các siêu thị, lao động 
có trình độ cao trong quản trị bán lẻ, quản trị 
cao cấp. Điều đó sẽ hạn chế điểm yếu về thiếu 
nguồn nhân lực tại nhóm nước kém phát triển 
hơn. Khu vực này đã có những quy định rõ 
ràng liên quan đến cơ chế và chương trình cụ 
thể cho quá trình hội nhập. Từng nước thành 
viên đều đang dần mở cửa, hoặc nới lỏng các 
rào cản đối với các nhà đầu tư ASEAN. Tuy 
nhiên, đứng trước bối cảnh tự do hóa lĩnh vực 
dịch vụ và di chuyển lao động, từng thành 
viên ASEAN vẫn triển khai các chính sách 
cụ thể quốc gia để đảm bảo an ninh, cũng 
như phúc lợi xã hội. Bởi vì, các nước chỉ tạo 
thuận lợi cho các lao động có trình độ cao tự 
do di chuyển giữa các thành viên, còn vẫn có 
những rào cản hay quy định chặt chẽ đối với 
di chuyển lao động giản đơn hay trình độ thấp 
giữa các nước trong khu vực.4
2. Thực tiễn triển khai quy định liên 
quan đến lĩnh vực dịch vụ và di chuyển lao 
động có kỹ năng tại ASEAN thời gian qua
Về lao động, Việt Nam được đánh giá là thị 
trường tiềm năng với nguồn lao động trẻ và dồi 
dào. Mặc dù, trong tương quan toàn cầu, giáo 
dục tiểu học và y tế Việt Nam có xếp hạng khá 
cao, đứng thứ 61, xếp thứ 3 trong các nước 
ASEAN, cao hơn Thái Lan (66), Inđônêxia 
(74), Lào (90) chỉ thấp hơn Singapore và 
Malayxia. Tuy nhiên, tại ASEAN, lao động 
Việt Nam được đánh giá là thấp so với các 
nước thành viên. Chất lượng của nguồn lực 
này thấp đi cùng với kém đa dạng của các kỹ 
năng, khả năng sáng tạo, cũng như hiệu quả tổ 
chức. Lực lượng lao động lại chưa quen với 
tác phong công nghiệp, lao động có kỹ năng, 
có tay nghề đạt tỷ lệ thấp, không có điều kiện 
tiếp cận công nghệ mới. Do đó, chất lượng 
lao động không cao, năng suất lao động bình 
quân của người Việt Nam so với các nước 
tiên tiến tại ASEAN là thấp hơn nhiều. So 
với các thành viên ASEAN có mức thu nhập 
trung bình, năng suất lao động của Việt Nam 
cũng chỉ bằng 1/5 Malayxia và 2/5 Thái Lan 
(ILO 2014). Thực tế, nếu như thời gian trước 
đây, lao động Việt Nam thường có xu hướng 
quan tâm và làm việc ở nước ngoài tập trung 
tại một số quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, 
Đài Loan thì trong 5 năm gần đây, tỷ lệ lao 
động Việt Nam làm việc tại các nước ASEAN 
gia tăng nhanh chóng. 
Ở cấp doanh nghiệp, tại ASEAN, nhiều 
công ty đã nỗ lực hội nhập sâu rộng trong khu 
vực liên quan đến nguồn nhân lực. Ngôn ngữ 
chủ yếu mà lao động trong các doanh nghiệp 
tại các nước này sử dụng là tiếng Anh.Ví dụ, 
tại Philippin, hầu hết doanh nghiệp nội địa đều 
biết và ít nhiều đã có sự chuẩn bị cho AEC. 
Chính phủ cũng ngồi lại với các doanh nghiệp 
dẫn đầu các ngành để thực hiện 24 bản kế 
hoạch phát triển dài hạn nhằm xác định các 
khoảng trống trong quản trị, nhân lực và chất 
lượng sản phẩm để nâng cao năng lực cạnh 
tranh. Tại Thái Lan, lao động nước ngoài 
cũng phải tuân thủ yêu cầu cụ thể về ngoại 
4 Ví dụ, để ứng phó với tình hình lao động Việt Nam và Lào sang Thái Lan dưới danh nghĩa khách du lịch, từ tháng 
8/2014, chính phủ nước này đã đưa ra những quy định bắt buộc lao động di cư từ Việt Nam nếu không chứng 
minh được mục đích du lịch thì phải xin thị thực nhập cảnh. Có thể thấy, đây là một phản ứng về chính sách mang 
tính đón đầu của Thái Lan nhằm giảm thiểu dòng lao động di chuyển từ Việt Nam và Lào sang Thái Lan khi 
AEC thành lập. Chính sách quản lý chặt chẽ di chuyển lao động này cũng được chính phủ Singapore triển khai 
chặt chẽ, đặc biệt đối với lao động của Việt Nam, Thái Lan khi nhập cư vào quốc gia này trong hai năm gần đây..
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
68 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015)
ngữ. Ví dụ, muốn hành nghề bác sĩ, thì ngoài 
có bằng cấp chuyên môn, lao động cũng được 
yêu cầu cần thông thạo tiếng Thái.5 Chính phủ 
Campuchia đã có những động thái tích cực để 
hướng đến AEC, cụ thể như tập trung chính 
sách thương mại mở cửa để thu hút đầu tư, 
tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có chất 
lượng cao. Còn chính phủ Lào cải thiện các 
quy chế, phát triển nguồn nhân lực cùng hệ 
thống quản lý tài chính, nâng cao tiêu chuẩn 
và chất lượng sản xuất hàng hóa. Còn tại Việt 
Nam, các doanh nghiệp nội địa chưa thực sự 
chủ động trong quá trình hội nhập AEC và khả 
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt 
Nam còn thấp hơn so với các doanh nghiệp 
tại ASEAN.6 
Hiện nay, ở cấp chính phủ, các nước thuộc 
nhóm ASEAN 6 tương đối chủ động trong 
quy định và chính sách liên quan phát triển 
nguồn nhân lực. Singapore là nước phát triển 
nhất trong khu vực với nguồn nhất lực chất 
lượng cao nhất tại ASEAN, đặc biệt trong 
lĩnh vực dịch vụ. Vì vậy, quốc gia này chủ 
động trong thực hiện cam kết liên quan đến 
di chuyển lao động chất lượng cao đến các 
nước thành viên. Philippin là nước cũng có 
lợi thế trong sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh. 
Cũng giống như Singapore, người dân nước 
này cũng thành thạo Anh ngữ. Còn Thái Lan 
lại là nước chủ động trong chính sách, cụ thể 
quy định liên quan đến ngoại ngữ. Ví dụ, nhân 
viên chính phủ của Thái Lan được yêu cầu là 
cần thông thạo một thứ tiếng trong được các 
nước thành viên ASEAN sử dụng.7 Chính phủ 
nước này yêu cầu cán bộ các cơ quan công 
quyền phải học hai thứ tiếng là tiếng Anh và 
một thứ tiếng trong ASEAN. Có thể việc học 
ngoại ngữ trong vài tháng không làm các cán 
bộ nhà nước sử dụng thành thạo ngôn ngữ đó 
ngay, nhưng đây là cơ hội giúp họ hiểu hơn 
về văn hóa, tập quán của các nước thành viên 
thông qua khả năng giao tiếp của người lao 
động. Đồng thời, họ còn yêu cầu lao động 
ASEAN đến làm việc tại nước ngày phải biết 
tiếng Thái và hiểu biết luật pháp trong nước. 
Còn nhóm các nước kém phát triển hơn gồm 
4 nước CLMV8 lại có những hạn chế nhất 
định, cụ thể là vẫn chưa có khung nghề chuẩn 
quốc gia. Cụ thể, Việt Nam gặp rất nhiều cản 
trở liên quan đến quy định trong lĩnh vực 
này, như bằng cấp thuộc loại phức tạp trên 
thế giới, không được các nước trong khu vực 
công nhận trừ Lào và Campuchia.9 Về ngoại 
ngữ, lao động Việt Nam phải cạnh tranh 
với người dân tại Mianma, Phillippin và cả 
Campuchia về tiếng Anh. Ở Campuchia, do 
5 Kia Thiasak- huấn luyện viên trưởng đội tuyển Thái Lan có thể trả lời báo giới bằng tiếng Việt và hàng ngày vẫn 
đọc báo bằng tiếng Việt.
6 Tỷ lệ các doanh nghiệp chưa biết về các tác động của AEC liên quan đến di chuyển lao động và di chuyển vốn 
trong ASEAN còn khá cao, khoảng từ 32% đến 34%.Bên cạnh đó, sự quan tâm của các doanh nghiệp nội địa với 
AEC còn thấp và doanh nghiệp chưa biết nhiều đến AEC. (Nguyễn Hồng Sơn, 2014).
7 Kiatisuk- huấn luyện viên trưởng đội tuyển bóng đá quốc gia Thái Lan có thể trả lời báo giới bằng tiếng Việt và 
hàng ngày vẫn đọc báo tiếng Việt.
8 CLMV bao gồm 4 nước Campuchia, Lào, Mianma và Việt Nam
9 Hiện nay, tại một số nước phát triển như Singapore có nhiều lao động Việt Nam hiện đang làm việc chính thức 
trong các doanh nghiệp nước này, tuy nhiên hầu hết đều là những lao động đã được đào tạo cử nhân hoặc thạc 
sỹ và do chính phủ nước này cấp bằng, ví dụ kiến trúc sư, công nghệ thông tin,Còn ngay cả công việc giản 
đơn như giúp việc nhà, thì lao động tại Philippin hoặc Inđônêxia cũng có lợi thế hơn lao động Việt Nam, mặc 
dù chi phí phải chi trả cho người giúp việc cao hơn, do lao động của những nước này thành thạo tiếng Anh và 
ý thức nghề nghiệp tốt hơn. Hay đối với vị trí nhân viên bảo vệ thì lao động Malayxia thường được các công ty 
Singapore tuyển dụng do vị trí địa lý gần với nước này, tiếng Anh tốt hơn, ý thức nghề nghiệp.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
69Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015)
đặc thù về địa lý và lịch sử hai nước, tiếng 
Việt vẫn được dùng khá phổ biến ở nước này. 
Còn tại Việt Nam, tiếng Anh chưa được coi 
là ngôn ngữ chính thức thứ 2 trong hệ thống 
giáo dục. Chính phủ, cụ thể là Bộ Lao động, 
Thương binh và Xã hội và Bộ Giáo dục và 
Đào tạo chưa có chính sách cụ thể hỗ trợ 
thông tin cần thiết đến người lao động như 
tiêu chuẩn cụ thể đối với lao động trong 8 
ngành nghề cam kết giữa các thành viên.
3. Quy định pháp lý liên quan đến phát 
tri ... ghề được mở cửa cho lao 
động tự do di chuyển trong AEC. Lao động 
được trang bị những kiến thức và kỹ năng 
nghề nghiệp đạt chuẩn quốc tế từ Singapore, 
Malayxia, Philippin sẽ chiếm ưu thế trong 
cuộc cạnh tranh dành cơ hội nghề nghiệp. Tại 
Việt Nam, kế toán là lĩnh vực đang phát triển 
22 Đối với gia nhập WTO, liên quan đến dịch vụ logistics, Việt Nam đã cam kết mở cửa các phân ngành như dịch vụ 
xếp dỡ container; dịch vụ thông quan; dịch vụ kho bãi; dịch vụ đại lý cận tải hàng hóa; các dịch vụ thực hiện thay 
mặt cho chủ hàng (bao gồm các hoạt động kiểm tra vận đơn; dịch vụ môi giới vận tải hàng hóa; giám định hàng 
hóa, dịch vụ lấy mẫu và xác định trọng lượng; giám định hàng hóa; dịch vụ nhận hàng; dịch vụ chuẩn bị chứng 
từ vận tải). Theo các cam kết gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết cho doanh nghiệp nước ngoài được thành lập 
liên doanh, với tỷ lệ góp vốn 49-51% trong các dịch vụ vận tải, giao nhận, kho bãi,v.v Từ ngày 7/01/2014, tỷ 
lệ góp vốn của chủ đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này đã tăng lên 100%. Chính quy định pháp lý đã tác động 
đến phát triển thị trường dịch vụ logistics.
23 Bằng do FIATA cấp có giá trị quốc tế, với chí phí là 2.500 USD với 12 Modules về Giao nhận kho vận, Logis-
tics, Vận tải hàng hải, vận tải hàng không, Vận tải đường bộ, Vận tải đường sắt, Vận tải thủy nội địa, vận tải đa 
phương thức, Bảo hiểm vận tải, An toàn, an ninh và hàng hóa nguy hiểm, Công nghệ thông tin và truyền thông 
trong giao nhận và Hải quan, với các giảng viên giảng dạy song ngữ Anh – Việt.
24 Đó là dự án “Learning Network for Trade Logistics development: Finland - Southeast Asia”, với sự tham gia của 
các trường đại học đến từ 4 nước là Phần Lan, Thái Lan, Malayxia và Việt Nam. Tại Việt Nam, bộ môn Vận tải 
và Bảo hiểm thuộc Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế - Trường đại học Ngoại thương (FTU) đã và đang tham 
gia tích cực vào các hoạt động chuyên sâu của dự án trong giai đoạn 2011 – 2015 như trao đổi giáo viên, sinh 
viên, nghiên cứu sinh của FTU và các trường đại học tại 3 quốc gia nói trên. Trong khuôn khổ của dự án, còn 
có các khóa học chung nhằm tăng cường mạng lưới trao đổi chuyên sâu trong lĩnh vực logistics và tạo thuận lợi 
thương mại, nhằm giúp nâng cao kiến thức và năng lực nghiên cứu chuyên môn trong lĩnh vực này.
25 Thỏa thuận được ký kết giữa các thành viên tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 14 tại Phetchaburi, 
Thái Lan ngày 26/2/2009.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
73Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015)
nhanh chóng, đặc biệt là về kỹ năng chuyên 
môn. Vị trí của nghề kế toán Việt Nam ngày 
càng được đề cao khi MRA trong lĩnh vực kế 
toán đã được ký kết giữa 10 nước ASEAN.25 
Như vậy, các chứng chỉ của các nhà cung cấp 
dịch vụ kế toán do các cơ quan chức năng 
tương ứng tại Việt Nam sẽ được các thành 
viên tại ASEAN khác thừa nhận và ngược lại. 
Những người có chứng chỉ hành nghề kế toán 
đạt tiêu chuẩn ASEAN và tiêu chuẩn quốc tế 
có thể dễ dàng làm việc tại các nước trong khu 
vực. Đồng thời, thị trường dịch vụ kế toán 
Việt Nam sẽ ngày càng cạnh tranh gay gắt, đòi 
hỏi các kế toán viên phải nâng cao tính chuyên 
nghiệp như đạo đức nghề nghiệp nếu không 
sẽ bị các đồng nghiệp trong khu vực và quốc 
tế thay thế. Thiếu trang bị về kiến thức, kỹ 
năng mềm về quản trị, khả năng làm việc, giao 
tiếp trong môi trường đa văn hóa, kiến thức tin 
học, chuẩn mực kế toán,26 Hơn nữa, so với 
Việt Nam, kế toán viên của các nước cùng khu 
vực như Singapore, Malayxia, Philippin,sử 
dụng ngoại ngữ tốt hơn nhiều. Yêu cầu này đặt 
ra những thách thức không nhỏ cho các trường 
đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân 
lực kế toán chất lượng cao, tương đồng với 
ASEAN. Trong bối cảnh đó, những chuyển 
động của một số trường đại học tại Việt Nam 
cùng với Hiệp hội kế toán công chứng Anh 
quốc (ACCA) nhằm xây dựng chương trình 
cử nhân chất lượng cao hướng đến trang bị 
những kiến thức, kỹ năng theo chuẩn quốc 
tế cho sinh viên Việt Nam được coi là nỗ lực 
đáng ghi nhận.27 Như vậy, trên cơ sở đó, các 
trường đại học sẽ xây dựng chương trình đào 
tạo tài chính kế toán chất lượng cao đáp ứng 
nhu cầu đối với những chuyên gia tài chính – 
kế toán có bằng cấp chuyên nghiệp đang ngày 
càng gia tăng tại ASEAN.
4. Một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam 
trong quá trình hội nhập AEC thời gian tới
Để chuẩn bị tốt hơn cho quá trình thực hiện 
MRAs trong khuôn khổ AEC, cũng như đẩy 
mạnh tự do hóa trong lĩnh vực dịch vụ theo 
hướng hội nhập khu vực, Việt Nam cần triển 
khai đồng bộ và cụ thể các chính sách liên 
quan đến tự do hóa lĩnh vực dịch vụ và di 
chuyển lao động lành nghề trong ASEAN bắt 
đầu 01/01/2016. 
Một là, chính phủ và các bộ, ngành liên quan 
cần cụ thể hóa chương trình hành động của 
Việt Nam phù hợp với cam kết của ASEAN và 
thực tiễn tại Việt Nam. Cụ thể, một số lĩnh vực 
dịch vụ cần tập trung và được đầu tư có trọng 
điểm như giáo dục, y tế, du lịch, logistics, kế 
toán,Thực tế cần hài hòa về quy định trong 
nước và khu vực liên quan để tạo thuận lợi 
hơn đối với hoạt động di chuyển lao động có 
tay nghề của Việt Nam sang các thành viên và 
ngược lại.
Hai là, chính phủ cần hoàn thiện các quy 
định, tiêu chuẩn để công nhận “lao động lành 
nghề ASEAN” trong các lĩnh vực mà đã ký 
liên quan đến MRAs và phổ biến rộng rãi 
26 Trong khung chương trình đào tạo chuyên ngành kế toán (Bộ Giáo dục và Đào tạo) ban hành chủ yếu nhấn mạnh 
đến phần giáo dục đại cương, yêu càu chuyên ngành còn rất thấp so với IFAC (Liên đoàn Kế toán thế giới), thời 
lượng học kế toán chủ yếu là lý thuyết, sinh viên ít có cơ hội thực hành.
27 Ngày 11/9/2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đại sứ quán Việt Nam và Hội đồng Anh tổ chức diễn đàn Việt Nam 
- Anh Quốc với chủ đề “Cơ hội kết nối tiến đến quan hệ đối tác giáo dục bền vững”. Các trường đã kết nối tìm 
kiếm các cơ hội hợp tác để phát triển, mang đến cho sinh viên những cơ hội học tập và nhận bằng cử nhân quốc 
tế với mức chi phí hợp lý. Điểm nhấn là việc ký kết thỏa thuận của ACCA với 3 trường là Đại học Ngoại thương, 
Học viện Tài chính và Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
74 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015)
cho các cơ quan liên quan, đến người lao 
động, đặc biệt là sinh viên và lao động trẻ. 
Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với Bộ Lao 
động, Thương binh và xã hội cần có sự thống 
nhất trong chuẩn mực nghề nghiệp, quá trình 
đào tạo, quy trình công nhận lao động có kỹ 
năng của Việt Nam và cấp thẻ nghề nghiệp. 
Bên cạnh đó, chính phủ cần có đầu tư trọng 
điểm phát triển các chương trình đào tạo 
chuẩn mực cho lao động kỹ năng Việt Nam 
theo tiêu chuẩn chung tại ASEAN. Đặc biệt, 
các cơ quan này cần phối hợp chặt chẽ và 
thường xuyên với Bộ Giáo dục và Đào tạo 
nhằm hướng dẫn, tuyên truyền phổ biến đến 
các lĩnh vực nghề nghiệp có trình độ tay nghề 
mà lao động Việt Nam đang có ưu thế để lựa 
chọn. Theo tác giả, tại một số trường đại 
học có nguồn đầu vào tốt, đã và đang cung 
cấp nguồn lao động có trình độ cao tại Việt 
Nam, mà có những chuyên ngành phù hợp 
với những ưu tiên của các nước thành viên, 
thì cần được sự hỗ trợ từ Chính phủ, Bộ Giáo 
dục đào tạo và Bộ Lao động Thương binh và 
Xã hội, cũng như một số ngành liên quan để 
triển khai các dự án hỗ trợ phát triển nguồn 
nhân lực chất lượng cao. 
Ba là, các cơ sở đào tạo có những chuyên 
ngành phù hợp với nhóm lĩnh vực có lao động 
chất lượng cao cần được đầu tư có trọng điểm 
và tạo điều kiện chủ động hơn trong quá trình 
đào tạo, đặc biệt là trong các lĩnh vực ưu tiên 
của ASEAN thông qua đẩy mạnh hợp tác, trao 
đổi với các trường đại học trong khu vực. Các 
trường cần chủ động đổi mới về chương trình, 
nâng cao chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực, 
cơ sở vật chất và các hoạt động khác theo 
chuẩn mực khu vực.28 Ví dụ, các trường đại 
học tại Việt Nam đang tăng cường tham gia 
vào mạng lưới các trường đại học khu vực 
(AUN) là một nỗ lực cụ thể. Đồng thời, đối 
với một ngành, lĩnh vực được ưu tiên trong 
cam kết giữa các quốc gia tại ASEAN cần 
được đẩy mạnh tập trung, cụ thể là các trường 
cấp 3, trường dạy nghề kỹ thuật, thực hành 
đặc biệt là trong ngành dệt may, xây dựng, 
vận tải (ADB, ILO, 2014). Bên cạnh đó là các 
trường đại học đang đào tạo các chuyên ngành 
liên quan đến nhóm lao động có tay nghề theo 
cam kết trong khu vực cần có chuyển hướng 
mạnh mẽ trong đào tạo.
Bốn là, các cơ sở đào tạo tại Việt Nam cần 
chủ động thu thập, nắm bắt các quy định cụ 
thể thống nhất giữa các quốc gia trong công 
nhận lẫn nhau về trình độ lao động chất lượng 
cao để có thể triển khai cụ thể các chương 
trình đào tạo, tư vấn hướng nghiệp cho sinh 
viên. Điều quan trọng là các trường cần chủ 
động tìm kiếm các cơ hội hợp tác với các hiệp 
hội nghề nghiệp quốc tế để tạo nhiều cơ hội 
cho sinh viên khi ra trường có được bằng cấp 
công nhận tại khu vực hoặc toàn cầu. Hơn 
nữa, các cơ sở này cần cung cấp thông tin 
cho sinh viên nhằm hỗ trợ các em trong quá 
trình chuẩn bị trình độ chuyên môn, kỹ năng 
28 Phần lớn các trường đại học trong nước không nằm trong top các trường được xếp hạng trong khu vực và trên thế giới. 
Vì vậy, các ứng cử viên có bằng cấp Việt Nam không thể xét tuyển/tuyển dụng làm việc tại Singapore, Malayxia. Bên 
cạnh đó, ngoại ngữ cũng là rào cản đối với lao động khi hội nhập khu vực. Ví dụ thực tế tại EU, người dân đều có thể 
biết hoặc sử dụng 2 hoặc 3 ngoại ngữ như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức và do đó họ có cơ hội làm việc trong các 
công ty đa quốc gia hoặc những địa điểm gần đường biên giới với các nước trong liên minh này. Trong khi đó, thực 
tế, lao động tại Việt Nam chỉ có thể sử dụng tiếng Việt. Các ngôn ngữ khác như tiếng Anh, tiếng Trung, chỉ có những 
nhân viên làm trong các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp khác có giao dịch với đối tác nước ngoài, hoặc các công 
chức, viên chức trong các bộ có chuyên môn liên quan. 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
75Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 77 (11/2015)
nghề nghiệp, kết nối các cơ hội thực tập nghề 
nghiệp,Hiện nay, các trường đại học Việt 
Nam chủ yếu đang triển khai hợp tác đào tạo 
với nhiều nước phát triển như EU, Mỹ, Nhật 
Bản, Trung Quốc, tuy nhiên, nhóm các thành 
viên ASEAN chưa được thực sự chú trọng. 
Thời gian tới, các trường nên thành lập một 
trung tâm tư vấn, hỗ trợ hoặc định hướng nghề 
nghiệp cho sinh viên, hoặc mở trung tâm đào 
tạo ngoại ngữ với kỹ năng cơ bản để giúp sinh 
viên có thể giao tiếp và làm việc trong môi 
trường hội nhập khu vực ASEAN, như tiếng 
Anh, tiếng Trung, tiếng Malayxia, tiếng Thái 
Lan,...Bên cạnh đó, trung tâm này còn có thể 
trở thành đầu mối giới thiệu, quảng bá thông 
tin về kinh tế, văn hóa, xã hội của các nước 
ASEAN để sinh viên có thể được trang bị 
những hiểu biết cơ bản của các nước này, cũng 
như được trang bị các kỹ năng mềm trong hoạt 
động tại môi trường đa văn hóa. Hơn nữa, có 
thể tư vấn cho sinh viên những nhóm ngành 
nghề phù hợp với các tiêu chuẩn nghề nghiệp 
thống nhất tại ASEAN. Đồng thời, đây có thể 
trở thành địa điểm kết nối giữa các bộ ngành, 
cơ sở đào tạo và doanh nghiệp tuyển dụng, 
đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài tại 
các nước thành viên ASEAN trong quá trình 
thực tập, làm thêm, và khi tốt nghiệp.29
Năm là, lao động Việt Nam cần chủ động 
trong nhận thức đúng đắn về cơ hội nghề 
nghiệp, từ đó có khả năng tìm việc làm tốt 
hơn, nâng cao trình độ chuyên môn. Điều đó 
có nghĩa là ngoài việc học tốt chương trình đào 
tạo tại Việt Nam, người lao động Việt Nam 
cần lựa chọn chương trình phù hợp để bổ sung 
các bằng cấp quốc tế được công nhận rộng rãi 
ở ASEAN và trên toàn cầu. Cụ thể, các em 
có thể tham gia các khóa học ngắn hạn để có 
các chứng chỉ nghề, hoặc tham gia học nâng 
cao chuyên môn sâu tại một số cơ sở đào tạo 
tại nhóm các nước phát triển hơn tại ASEAN. 
Bên cạnh đó, lao động Việt Nam cũng cần 
sẵn sàng tâm lý đi làm việc xa nhà với phát 
triển cơ hội nghề nghiệp Hiện nay, định hướng 
nghề nghiệp cho sinh viên đã được các trường 
ngày càng quan tâm, nhưng chủ yếu là làm 
việc tại các doanh nghiệp ở Việt Nam. Để có 
thể nắm bắt cơ hội nghề nghiệp tại ASEAN, 
chính mỗi lao động cần chủ động chuẩn bị tốt 
các yêu cầu để đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển 
dụng chuyên nghiệp. 
Kết luận
Có thể thấy rằng, tại ASEAN, thuận lợi 
hóa lĩnh vực dịch vụ và cụ thể là tự do di 
chuyển nguồn nhân lực chất lượng cao đã 
được coi trọng và nó đóng vai trò quan trọng 
trong quá trình phát triển của từng quốc gia, 
cũng như trong hội nhập kinh tế khu vực. Từ 
đó, đòi hỏi mỗi quốc gia sẽ phải xây dựng 
chương trình tổng thể nhằm cụ thể hóa các 
quy định liên quan đến nguồn nhân lực, đặc 
biệt trong một số lĩnh vực ưu tiên. Cơ hội 
phát triển của từng quốc gia, từng ngành dịch 
vụ, cũng như đối với lao động từng nước 
chỉ trở thành hiện thực khi từng chủ thể chủ 
động với các kế hoạch. Đối với Việt Nam, 
trước mắt còn rất nhiều việc cần phải làm 
nhằm nhằm hướng tới hài hòa hóa các quy 
định liên quan đến tự do hóa lĩnh vực dịch 
vụ và di chuyển nguồn nhân lực chất lượng 
cao trong ngành dịch vụ này trong ASEAN. 
Một trong những hướng tập trung chính là 
29 Thái Lan thúc đẩy các phong trào tìm hiểu về các nước thành viên ASEAN trong cộng đồng dân cư và nhất là 
học sinh, sinh viên. Các em học sinh ở các vùng đều được dạy thêm về các nước thành viên ASEAN. Nhà trường 
treo cờ ASEAN và học sinh tiểu học được đọc nhận biết lá cờ các nước ASEAN.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
76 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 77 (11/2015)
phát triển tập trung một số ngành nhằm cung 
cấp lao động có chất lượng cao trong một 
số lĩnh vực dịch vụ và đáp ứng nhu cầu lao 
động có chất lượng cao trong nước và tại các 
quốc gia khác trong khu vực. Điều này đòi 
hỏi từng cơ sở giáo dục phải chủ động và cụ 
thể hóa trong quá trình triển khai các chương 
trình đào tạo có chất lượng cao.q
Tài liệu tham khảo
1. Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN, (ASEAN Comprehensive Investment Agreement-
ACIA)
2. ASEAN Secretariat, ASEAN Comprehensive Investment Agreement (ACIA) - A 
Guidebook for Businesses and Investors, Jakarta, 07/2013.
3. Ban thư ký ASEAN, 2013, ASEAN Investment Report 2012: The changing FDI 
Landscape, Jakarta.
4. Đại học Đà Nẵng, 2015, Hội thảo khoa học Quản trị và Kinh doanh, ISBN: 978-6044-
84-1045-2.
5. International Labor Organization (ILO), 2014, ILO lý giải năng suất lao động Việt Nam 
ở nhóm kém nhất khu vực, 
6. Nguyễn Hồng Sơn, 2014, Hướng tới AEC: sự chuẩn bị của Việt Nam, Hướng tới Cộng 
đồng kinh tế ASEAN và gợi ý chính sách đối với Việt Nam, Hội thảo do Ban Kinh tế Trung 
ương và Trường đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Wolfgang Form, Huynh Luu Duc Toan, Le Dong Thao Vy, 2014, Challenges for Vietnam’s 
participation in AEC when it comes to one of the integration pillars: free flow of skilled labor 
and lessons learned from European Union, Towards ASEAN Economic Community (AEC) 
and policy implications for Vietnam, Conference between Central Economic Commission 
and University of Economic and Business.
8. UNCTAD, World Investment Report 2015: Reforming International Investment Governance.
9. The World Bank (WB), 2014, Efficient Logistics A Key to Vietnam’s competitiveness.

File đính kèm:

  • pdfcam_ket_trong_linh_vuc_dich_vu_va_di_chuyen_lao_dong_huong_d.pdf