Cái tôi trữ tình trong thơ Miên Di

miên di là một cây bút trẻ mới xuất hiện trên văn đàn những trong khoảng dăm năm gần

đây. miên di sinh ra không phải để trở thành nhà thơ nhưng rồi thơ ca đã đến với anh như một

duyên phận. Không gây hấn, gây shock, không tung phá, không đạp đổ, không giải thiêng không

hạ bệ ai, không ồn ào, đánh bóng tên tuổi; giản dị, “như không”, nhưng không kém phần quyết

liệt, sâu sắc, tràn đầy nội lực, thơ miên di có sức hấp dẫn riêng đối với độc giả. Chính thức ra mắt

năm 2013 với tập Thơ miên di (NXB Hội nhà văn), lập tức, miên di đã được đánh giá là một trong

những tác giả trẻ sáng giá của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Tuy vậy, có thể do chưa có một

độ lùi thời gian cần thiết nên cho đến thời điểm này, số lượng các bài viết, các công trình nghiên

cứu về thơ miên di còn khá ít ỏi. Có thể kể đến các bài viết đáng chú ý sau (chủ yếu mang tính chất

phê bình, cảm nhận một cách chủ quan) như:

1. Những mũi khoan ý thức đau đớn trong thơ miên di, Du Tử Lê, dutule.com

2. Một cõi miên di, Trịnh Sơn, thethaovanhoa.vn

3. miên di và những trang viết của mình, Vũ Thu Huế, pleikucafe.com

pdf 8 trang kimcuc 7860
Bạn đang xem tài liệu "Cái tôi trữ tình trong thơ Miên Di", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cái tôi trữ tình trong thơ Miên Di

Cái tôi trữ tình trong thơ Miên Di
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0060
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 5, pp. 59-66
This paper is available online at 
CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ MIÊN DI
Đặng Thu Thủy
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. miên di là một cây bút trẻ mới xuất hiện trên văn đàn những trong khoảng dăm
năm gần đây những đã được đánh giá là một trong những tác giả trẻ sáng giá của khu vực
miền Trung - Tây Nguyên. Cái tôi trữ tình trong thơ miên di là cái tôi luôn thường trực
nỗi buồn và sự cô đơn; nỗi đau, nỗi bẽ bàng nhân thế và ý thức sâu sắc về bản ngã. Thơ
anh có sức mạnh mãnh liệt của sự trải nghiệm đời sống. Những hình ảnh so sánh độc đáo,
giọng điệu tưng tửng, hài hước, những kết hợp từ ấn tượng. . . góp phần làm nên một cá
tính không trộn lẫn.
Từ khóa: Cái tôi trữ tình, miên di.
1. Mở đầu
miên di là một cây bút trẻ mới xuất hiện trên văn đàn những trong khoảng dăm năm gần
đây. miên di sinh ra không phải để trở thành nhà thơ nhưng rồi thơ ca đã đến với anh như một
duyên phận. Không gây hấn, gây shock, không tung phá, không đạp đổ, không giải thiêng không
hạ bệ ai, không ồn ào, đánh bóng tên tuổi; giản dị, “như không”, nhưng không kém phần quyết
liệt, sâu sắc, tràn đầy nội lực, thơ miên di có sức hấp dẫn riêng đối với độc giả. Chính thức ra mắt
năm 2013 với tập Thơ miên di (NXB Hội nhà văn), lập tức, miên di đã được đánh giá là một trong
những tác giả trẻ sáng giá của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Tuy vậy, có thể do chưa có một
độ lùi thời gian cần thiết nên cho đến thời điểm này, số lượng các bài viết, các công trình nghiên
cứu về thơ miên di còn khá ít ỏi. Có thể kể đến các bài viết đáng chú ý sau (chủ yếu mang tính chất
phê bình, cảm nhận một cách chủ quan) như:
1. Những mũi khoan ý thức đau đớn trong thơ miên di, Du Tử Lê, dutule.com
2.Một cõi miên di, Trịnh Sơn, thethaovanhoa.vn
3. miên di và những trang viết của mình, Vũ Thu Huế, pleikucafe.com
Ngoài ra, còn có một vài khóa luận, luận văn quan tâm đến Trường liên tưởng, Thế giới
nghệ thuật thơ miên di và Đặc điểm thơ lục bát miên di. Nhìn chung, các bài viết và các công trình
này đều đánh giá cao thơ miên di, khẳng định những nét đặc sắc trên các phương diện: thể thơ (thơ
lục bát), hình ảnh, giọng điệu. Tác giả Trịnh Sơn còn tìm thấy sự đồng điệu giữa miên di và Bùi
Giáng: “Thơ miên di có cái gì đó hao hao Bùi Giáng, nhưng lại không phải Bùi Giáng, một tâm
lí bất an đến thương tổn. Thương tổn đến nỗi không còn thấy sự tổn thương. Thiền động” [1]. Vũ
Thu Huế thấy ở anh một “nội lực tiềm tàng và một tài năng phóng khoáng” [2], Văn Công Hùng
Ngày nhận bài: 5/1/2016. Ngày nhận đăng: 25/5/2016
Liên hệ: Đặng Thu Thủy, e-mail: dangthuy118@yahoo.com
59
Đặng Thu Thủy
lại thấy: “Thơ miên di mới đọc tưởng như hậu hiện đại, té ra lại rất bình dị. . . Chữ của anh tươi và
đầy cảm giác với một biên độ cảm xúc khá rộng nhưng không loãng. Với thơ, anh vừa là xe cộ vừa
là tuấn mã” [3]. Cho đến nay, vẫn chưa có một bài viết nào nghiên cứu trực diện về cái tôi trữ tình
trong thơ miên di. Trên đây là những lí do khiến chúng tôi triển khai bài viết này.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Đặc điểm cái tôi trữ tình trong thơ miên di
“Cái tôi trữ tình là thế giới chủ quan, thế giới tinh thần của con người được thể hiện trong
tác phẩm trữ tình bằng các phương tiện của thơ trữ tình”. Theo Hê-ghen, “Nguồn gốc và điểm tựa
của trữ tình là ở chủ thể và chủ thể là người duy nhất mang nội dung có thể quan niệm rằng, cái tôi
trữ tình là nội dung, đối tượng cũng như bản chất của tác phẩm trữ tình” [4;18,19]. Cái tôi trữ tình
vừa thể hiện cách cảm cách nghĩ của chủ thể vừa đóng vai trò sáng tạo tổ chức các phương diện
nghệ thuật.
2.1.1. Cái tôi với nỗi bẽ bàng nhân thế
Làm thơ khi đã ngoài 30 tuổi (tập Thơ miên di – tập thơ đầu tay xuất bản khi tác giả đã ngấp
nghé 40) - cái tuổi không còn trẻ nhưng cũng chưa phải đã già, đủ cho anh có rất nhiều nghiệm
sinh sâu sắc. Có một tuổi thơ không bằng phẳng, nhọc nhằn và nhiều bất hạnh, sống lang bạt kì
hồ, trải qua nhiều thân phận khác nhau, từng sống trong tận cùng đói khổ, lăn lộn với những bậc
cùng đinh, miên di nhìn đời bằng cái nhìn của sự trải nghiệm.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự sa sút về đời sống tâm hồn, thiếu vắng
tinh thần nhân bản: lối sống thực dụng, vị kỉ, nghèo cảm xúc, thậm chí vô cảm, vị kỉ, lãng quên
quá khứ, cội nguồn. . . ngày càng hiện hữu rõ nét trong đời sống cộng đồng. Thơ anh không thiên
về phơi bày, phê phán, lột trần hiện thực - điều mà không ít nhà thơ trẻ trước đó đã làm. Có những
nỗi sầu, nỗi bẽ bàng nhân thế trong thơ anh. Đọc miên di, thấy đau, xót, nhiều khi đến gai người,
đến ê chề nhiều hơn là hờn giận, bất bình. Trước đây, phần người và con trong mỗi người thường
ở trong thế đối địch, người ta thường xem trọng phần “người”, coi thường cái phần “con”; đến khi
cả một nền văn học tự vấn, tự nhận thức lại, mối xung đột đó được hòa giải, phần “con” hài hòa
với phần “người”, con người là cả “thiên thần” và “ác quỷ”, sáng và tối, trắng và đen; đến miên di,
táo tợn hơn, trước thực trạng nhân sinh hiện hữu, không ít lần anh muốn “sống phần muông thú”
(người và con), “thử làm thú giữa hoang khê” (thử) bởi với anh, kiếp người này là một cơn mê, một
cơn ác mộng, anh “sợ người làm bẩn tiếng chó tru”. Nỗi đau đớn có thật đó chắc hẳn khiến nhiều
người đọc phải rùng mình lo lắng. Không tôn vinh, không ru vỗ con người, miên di nhìn thẳng vào
hiện thực, cái nhìn kiểu “tỉnh táo, tỉnh khô, tỉnh bơ, tỉnh như sáo”, vì anh biết “cái tỉnh đó chỉ là
phía nhìn thấy được của đam mê” (Thanh Thảo). Những nhọc nhằn lo toan của kiếp người, những
tác động trái chiều của nền văn minh vật chất đang khiến phần “Người” có nguy cơ bị suy thoái,
anh muốn sống với phần “Con” - cái phần tự nhiên mà trong trẻo, nguyên sơ, đẹp đẽ. Thơ anh
nhức nhối những tra vấn thân phận:
thử vào bệnh viện ngày đông
để nhìn vào cuộc chưa xong giật mình
một vài mầm khóc sơ sinh
dăm ba tiếng cú tâm linh gọi về
(thử)
Lăn lóc ở chốn nhân gian, 40 năm sống trên cõi đời chắc đủ để cho miên di thấm thía sự
60
Cái tôi trữ tình trong thơ miên di
đời. Anh lo sợ trước căn bệnh vô tình, vô cảm, sống mà như đã chết, chẳng khác những thi hài vô
tri của con người. Con người tự nhốt mình vào “những văn phòng huyệt mộ/ chôn cất ngày qua”,
nơi ấy, con người trở thành xấp giấy than/ những tờ giấy không cần suy nghĩ/ sao chép giáo điều/
về sọt rác là xong. Những tưởng được hiện diện trên cõi đời này là điều đáng giá nhất, nhưng với
anh thì đâu hẳn. Quan trọng là sống thế nào, sống ra sao:
đi qua một cuộc hoài thai
sợ người như những thi hài vô tri
con tinh trùng được nghĩ suy
hẳn rằng cân nhắc trước khi làm người
(đi qua)
Những câu thơ cứ như không, chẳng ra vẻ đạo mạo, triết lí, châm ngôn, nói cứ như chơi mà
ngẫm ra lại đau đớn, chua chát, bẽ bàng đến tái tê. Đời sống của chúng ta, chẳng lẽ lại thế sao?
Những câu thơ vừa như lời cảnh tỉnh vừa như lời cảnh báo để mỗi chúng ta có ý thức hơn về sự
sống của chính mình.
Sống trong xã hội hiện đại, chứng kiến những gì đang diễn ra từng ngày, suy nghĩ về nó,
nhận thức được giới hạn của nó, thái độ của phần đông những người nghệ sĩ là phê phán, tâm lí
nói chung là hoang mang và lo âu. Đó là nỗi lo lắng không thừa, lo gần, lo xa để con người ngày
càng tiệm cận đến cái tốt đẹp, hoàn mĩ. Con người thừa hưởng những thành quả của xã hội hiện
đại thì tất yếu cũng phải biết chấp nhận những giới hạn của nó. Các nhà thơ chưa thể và không thể
cải tạo được xã hội song tiếng nói của họ ít nhiều cũng lay tỉnh được phần ý thức ở mỗi người.
2.1.2. Cái tôi cô đơn
Nỗi buồn, sự cô đơn ám ảnh thường trực trong thơ miên di. Nỗi buồn luôn hiện diện như
một thành phần tất yếu của cuộc sống, một thói quen, một nhu cầu tự thân:
có hôm bận quá không buồn được
muốn hẹn nỗi niềm qua hôm sau
hôm sau bận quá không buồn được
tôi thấy nỗi buồn lên cơn đau
(bài này không biết đặt tên)
Khó có thể điểm danh hết những từ đích chỉ hay những biến thể của nỗi buồn bởi nó tràn
ngập trong thơ anh: quạnh hiu, tôi buồn sang tôi vui không?, buồn thiên thai, mảnh buồn thổ cẩm,
bao nhiêu buồn một dung nhan, khúc jazz buồn, nhát blues buồn, vũng buồn, buồn cỏ, cỏ buồn,
buồn trinh, nỗi buồn thặng dư, cánh buồn bay, nỗi buồn bụ sữa, buồn xinh, buồn câm, tín điều
buồn, buồn thóc. . . (nhan đề các bài thơ của miên di). Nỗi buồn như một định mệnh ám ảnh, không
thể tách rời cứ vận vào người thơ ngay cả những khi đáng mừng vui nhất:
đám cưới nhà ai sao vui thế
mà chữ vu quy cứ buồn buồn
(không biết vì sao)
Với miên di, nỗi buồn dường như là một chất phụ gia không thể thiếu của cuộc sống. Nó
không khi nào vắng bóng, trong niềm vui đã ẩn chứa nỗi buồn: “em cười sao vẫn hở hang nỗi
buồn”. Đây là nỗi buồn thời công nghệ:
61
Đặng Thu Thủy
đêm mất ngủ đổ bóng mình lên status
facebook buồn như một sân ga
. . .
đêm mất ngủ đổ buồn lên facebook
cô đơn tôi lang chạ với không người
(buồn trinh)
Phải chăng những người có tâm hồn đa cảm, nghệ sĩ, có tâm hồn thi sĩ, có “nòi tình” như
anh đều dễ buồn, dễ cô đơn hơn người.
Nỗi buồn, sự cô đơn còn do thế thái nhân tình mang lại: những mảnh đời cơ cực, sự thiếu
thốn của tình người trong thời đại kĩ trị, khi con người luôn có nguy cơ bị máy móc hóa, khi vô
cảm trở thành một căn bệnh trầm kha:
những cái tên vẫn còn trên điện thoại
mà tấm lòng không cài được báo rung
(báo rung)
lòng như ví cộm toàn danh thiếp
đếm hoài không đủ một thân quen
(cộm)
Đọc thơ anh thấy rõ dấu ấn của thời đại anh sống, thời mà đức tin cũng có giá tiền, thời của
những “tâm hồn mã vạch”, “thời cảm xúc kim loại/ tổ ấm hợp kim/ thiên nhiên đóng hộp”, “từng
vỏ người mang khuôn mặt iphone” (Tâm hồn mã vạch). miên di cảm nhận sâu sắc sự leo lét của
đời người trong một xã hội không thiếu vật chất nhưng nghèo khó nhân tình: “đời nhen ta như đốm
lửa/ tàn trong cái lạnh tay người” (lạnh tay người). Những người thân yêu nhất, sống cùng nhau
mà nhiều khi trở nên xa lạ, cô đơn như những ốc đảo: anh và em bên nhau “như hai hộp cơm nằm
cạnh nhau/ nguội lạnh” (khúc mộ), “mỗi thao thức không cùng một nỗi/ lăn bên nào cũng chẳng
thấy được nhau” (vỡ), “anh vắng trong nỗi buồn em/ em vắng trong cơn vui anh/ trong chăn chiếu
những giả vờ xa xôi”. . . (lục bát li thân). Với anh, ngay cả lửa cũng lạnh. Chẳng lẽ, con người hôm
nay đang sống với nhau như thế ư? Sự mất tín hiệu giao cảm nhiều khi còn nguy hiểm hơn nhiều
lần những mối hiểm nguy, thiếu thốn khác. Có những khi, người thơ đợi chờ đến khắc khoải:
đợi chờ một tiếng gõ
cửa buồn tôi không then
đợi một người không hẹn
nỗi buồn già hom hem
(mười bốn ngày còn lại)
Nỗi buồn bao giờ chẳng kết đôi cùng nỗi cô đơn, cô đơn vì một thân một mình cô lẻ đã
đành, nhiều khi cô đơn ngay giữa chốn đông người: “một mình đứng giữa lòng không/ lòng không
đứng giữa phố đông không mình” (trắng ngày), “hình như thành phố ngủ mê/ con đường nào cũng
dẫn về không nhau” (lang thang). Có lúc, nỗi cô đơn bỏng rát thiêu đốt anh - một tâm hồn có lửa
nhưng lại không đủ sức sưởi ấm chính mình, anh lo sợ mình sẽ “cháy cô đơn và vô nghĩa/ giữa
cuộc đời” (lửa lạnh). Không phải không có những khi anh muốn trốn đời:
tôi mơ làm con sóc trốn trong góc trăm năm
nhìn đời qua kẽ lá
sợ hãi và lặng câm
. . . tôi mơ làm cây nấm trong góc tối xa xăm
62
Cái tôi trữ tình trong thơ miên di
đợi bàn chân không đến
quên lãng vào trăm năm
. . . tôi mơ làm con dốc
tôi mơ làm phiến đá. . .
(mảnh buồn thổ cẩm)
Thơ của ta trong những năm qua không xa lạ gì với những trạng thái tinh thần như thế. Chưa
bao giờ, thân phận, bi kịch cá nhân, tâm trạng bất an, hoang mang lạc lõng, nỗi cô đơn, khắc khoải,
sự dằng xé, bế tắc. . . (những khoảng tối mà thơ giai đoạn trước kiêng kị) lại được phơi bày một
cách thành thực đến thế. Chính những trạng thái tâm hồn này sẽ dẫn đến những suy tư triết học.
Cái tôi trong thơ những năm gần đây không đơn thuần là cái tôi cảm xúc mà còn là cái tôi chiêm
nghiệm, triết lí.
2.1.3. Cái tôi suy tư về bản thể
Nhiều người trách thơ trẻ hôm nay thờ ơ và nông nổi, thờ ơ trước nhân sinh, nông nổi với
chính mình, chỉ loanh quanh với vài ba tình cảm vụn vặt riêng tư, nhưng đâu hẳn thế. Với những
người cầm bút hôm nay, cái tôi như một điểm tựa để nhìn nhận về nhân sinh trong cái “cõi nhân
gian bé tí” mà đầy rẫy những sự phức tạp và nhiêu khê khó lường này. Bằng sự nhạy cảm và trải
nghiệm cá nhân, con người thời nay đang loay hoay đi tìm mình và tìm kiếm các giá trị. Trong
những năm gần đây, ngày càng xuất hiện nhiều cá thể biệt lập, có bản sắc riêng khó trộn lẫn. Cái
tôi có thiên hướng đào sâu vào mình, cái tôi nội cảm. Một trong những suy tư thường trực của cái
tôi trữ tình trong thơ miên di là nỗi băn khoăn về bản thể, khát vọng kiếm tìm bản ngã.
Cũng lạ cho miên di - một người cuộc đời lắm bão táp phong ba, thân thì động mà tâm lại
tĩnh như thế. “muốn đi thật chậm để nhanh đến mình” (tôi nôn ra một chính mình), phải chăng là
cách của anh? Trong vòng quay hối hả của cuộc sống ồn ã, xô bồ, miên di vẫn để cho lòng mình
lắng lại, để sống chậm, để suy tư. Đời sống của anh có cái sôi nổi, mãnh liệt, náo nhiệt ở bên trong.
đọc miên di, có cảm tưởng, không khi nào anh yên tâm về chính mình, anh luôn băn khoăn, mải
miết kiếm tìm ý nghĩa của bản thể, ý nghĩa của sự sống, Trong anh luôn là một cuộc chạy đua, một
cuộc đuổi bắt để tìm hiểu cho ra cái bản lai diện mục của mình:
mệt không đuổi kịp chính mình
hai con mắt mở vô minh ra nhìn
(thử)
một hôm đóng thế vai mình
cái tôi rảnh rỗi vô hình rong chơi
(một hôm đóng thế vai mình)
gọt tôi vừa với chỗ nằm
những thừa tôi đổ tận thăm thẳm buồn
(những thừa tôi)
miên di vừa sống vừa suy xét về sự sống của mình, luôn muốn giải phẫu mình, tự tách mình
ra để soi ngắm, phán xét: “khi ta nhắc nhở chính mình/ có thằng ta khác đứng rình đúng sai”; tâm
hồn có tật ngủ ngày/ đến đêm không ngủ cứ bày bừa ra/ sáng ra ta dọn chính ta/ thiếu vài mảnh
vỡ, đủ là tôi chưa” (tình khùng). Mỗi con người nhiều khi không trùng khít với chính nó. Chính sự
phong phú, bí ẩn, phức tạp của nó sẽ làm nên hương sắc của đời.
thân mình ướm bóng của mình
tôi không vừa với cái hình dung tôi
(ướm bóng)
63
Đặng Thu Thủy
Đã có một thời, cái tôi bị cho là nhỏ bé trước cái ta, nhưng rồi ngẫm lại thì đó là cái nhỏ bé
bao la. Hành trình đi tìm và khẳng định mình của cái tôi cá nhân mấy chục năm qua đâu dễ dàng
kết thúc. Đánh mất mình luôn là một nguy cơ hiện hữu:
có khi lạc mất chính mình
vườn lòng lại ngỡ cõi tình mượn vay
cành cụt con kiến loay hoay
nương theo đời lá gió bay lìa cành
chiếc lá về cội đã đành
còn con kiến nhót nọc lành về đâu
(lạc)
Trên hành trình đi tìm mình ấy, không phải không có những lúc quẩn quanh, bế tắc: “này
con kiến nhỏ loay hoay/ đừng tưởng chỉ mỗi mình mày quẩn quanh” (quẩn quanh), “con sông hỏi
chuyện con đường/ quanh co với những vết thương ổ gà/ cuối đường có biển không ta?/ biển của
bọn tớ chính là bùng binh” (chuyện biển và đường). Nhưng anh luôn có một khát vọng: sống cho
ra sống, sống dù vất vả gian truân cũng phải có ích cho đời:
thôi thì làm miếng giẻ lau
có bẩn cũng sạch được đâu đó rồi
(giẻ lau)
Là người thông minh, không ít khi anh phát hiện ra những nghịch lí:
lửa có biết tự mình không là ấm
nếu vắng cái hơ tay của kẻ rét âm thầm
(lửa lạnh)
ngón tay ta cũng trần truồng
sao không xấu hổ cùng phường xác thân
(vì sao nhỉ?)
Anh thường đặt ra nhiều giả định để mà hình dung về sự đời:
hôm nay tôi đổi sự đời ngược chỗ, đem hoang vu chuyển đến đông người, vàng và ngọc chỉ đáng
làm nhà xí, chuyển niết bàn xuống chỗ lầm than
. . . ngày mai tôi quay về vú mẹ, lớn ngược về nơi giao tử hoài thai, đi mãi đến nơi không còn khổ
đau được nữa
. . . nơi tôi gặp linh hồn mình đi lạc, mãi kiếm tìm thân xác bỏ hoang
(tôi buồn sang tôi vui không?)
nếu một ngày
. . . là ngày anh không là anh
sống ví thử làm người đàn ông khác
người em nghĩ ra đi từ bài nhạc
anh sơ sinh khi tóc đã bạc nhiều
(tiếng vĩ cầm trắng)
miên di nghĩ nhiều về lẽ sống chết. Với anh, đây “là cái thời sống và chết như nhau”, “có
cái chết trước khi tắt thở” nhưng anh có sự lựa chọn của riêng mình: anh sống như thể ngày mai sẽ
chết: “ngày qua là mỗi qua đời/ hôm nay ta sống như lời trối trăn”, đủ thấy lòng nhiệt tình với sự
sống của nhà thơ.
64
Cái tôi trữ tình trong thơ miên di
2.2. Cái tôi trữ tình với một vài phương diện nghệ thuật đặc sắc
Thơ miên di có những hình ảnh so sánh độc đáo, mang bản hiệu của riêng anh: đường đê
như tiếng thở dài; mây trắng như khăn ai chít ngang chiều; lặng câm trong góc đời như cây đàn
vỡ; thấy mình như nhà đổ, thấy mình như lịch rụng; anh hiền như giấc ngủ quên; hạnh phúc buồn
như cái vấp chân; con tim im lìm như ổ khóa; ngày ngổn ngang như những que củi ướt; đêm như
axit gặm mòn/ thân đau sau một trận đòn nhớ nhung; mẹ gầy như hạt lúa lép/ níu vào quê thân
lúa xác qua mùa; đầu năm như gái dậy thì; câu thơ như gã bụi đời không tên; thấy đời như phố
chợ/ thèm mình là cộ xe; cần một chút cay/ người vợ là ớt/ cần chút mặn/ người vợ đậm đà/ cần
một mụn con/ người đàn bà toác mầm như hạt thóc; Anh, Tôi trời lỡ sinh rồi/ buồn như so đũa một
đôi ngậm ngùi; lòng như một gánh chợ chiều/ nói thật thì ế nói điêu chả đành... Những hình ảnh
so sánh mang đậm dấu ấn của xã hội ngày hôm nay: đời như con phố rải đinh/ đang phăng phăng
sướng thình lình thủng săm; mà lòng như phố kẹt xe nhưng không có cái vỉa hè để leo; khui từng
buổi sáng/ bằng cái thức dậy như bật nắp chai bia. . . Không “làm chữ”, không cao đạo, không du
dương, mượt mà; rất thực, rất đời, rất giàu khả năng liên tưởng tưởng tượng... - đấy là miên di.
miên di không có những chữ lạ. Các chữ rời trong thơ anh chả có gì đáng nói. Nhưng anh
có nhiều kết hợp từ lạ, khơi gợi nhiều cảm xúc: nụ cười gầy, thặng dư nỗi buồn, bất hạnh lành
lặn, mặt nước xanh xao, nỗi buồn già hom hem, cơn đau mù, chiều thiu, tiếng rao xanh muốt, đau
êm, buồn ngon, tấm thân thập giá, đôi mắt miếu thờ, nụ hôn bánh thánh, vườn hoang tâm, thánh
đường da thịt, tóc vỡ, xó ngày, nỗi nhớ nuột nà. . . Thơ anh có không ít những hình ảnh tương phản,
những cách nói ngược: lửa lạnh, lửa co ro, đêm chói chang, ngày tối mịt, thênh thang trong tù
túng, phẳng lặng ghập ghềnh, cơn hạnh phúc rất buồn, buồn ấm áp. . .
Trong các kiểu giọng linh hoạt đa dạng của thơ miên di: giọng buồn thương, giọng suy tư,
triết lí, giọng dứt khoát, quyết liệt. . . thì giọng khơi khơi, tưng tửng, có khi hài hước, giễu cợt là
một kiểu giọng đáng chú ý, làm nên cái duyên riêng của anh.
tóc em vẫn ở trên đầu
mà tôi vuốt tóc lạc đâu mất rồi
(đi qua)
tự dưng thèm chút mủi lòng
hồn như thớt ế lâu không được dùng
(thèm được băm)
đôi khi ta rất là bò
đêm nằm nhai lại cho no nỗi buồn
(nhai lại)
ngày ngày ta sống tròn tròn
cái gì vuông vắn phải mòn chẳng đau
(sống tròn)
đời như con phố rải đinh
đang phăng phăng sướng thình lình thủng săm
(tình khùng)
mà lòng như phố kẹt xe nhưng không có cái vỉa hè để leo
(tiếng động màu xanh)
Thoảng qua, tưởng những câu thơ rất nông, rất nhẹ, như nói bông đùa, tầm phào vậy thôi;
hóa ra lại không ít những ý tứ sâu xa. miên di không chuẩn bị cho người đọc một không khí trang
nghiêm để nghe anh triết lí, anh nói theo cái lối riêng của mình, nhiều khi khiến người đọc thảng
65
Đặng Thu Thủy
thốt bởi đang “chơi chơi” cùng thơ anh bỗng lại bừng ngộ ra một điều gì đấy; nếu không cẩn thận,
rất có thể sẽ bỏ qua những tâm tình ở đằng sau tâm tình của anh.
3. Kết luận
Thơ miên di tuy chưa đủ sức để trở thành một hiện tượng nhưng đã bắt đầu ghi được một
dấu ấn rõ nét, góp phần làm phong phú đời sống thơ ca trong mấy năm gần đây. Hy vọng trong
tương lai, với nội lực sẵn có, anh sẽ định hình cho mình một phong cách!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Những mũi khoan ý thức đau đớn trong thơ miên di, Du Tử Lê, dutule.com.
[2] miên di và những trang viết của mình, Vũ Thu Huế, pleikucafe.com.
[3] miên di, vanconghung.com.
[4] Thơ trữ tình Việt Nam 1975 -2000, Lê Lưu Oanh. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998.
ABSTRACT
Lyrical ego in mien di’s poetry
mien di is a new young writers appeared on the literary scene in recent years but he
was considered as one of the brightest young authors of Central Highlands region. Lyrical ego
in mien di’s poetry always includes sadness and loneliness; pain, humiliation and deep sense
of ego. His poetry has intense power of the experience of life. The unique image comparison,
pretty self-absorbed tone, humor, the impressive combination of words. . . contribute to a unique
personality.
Keywords: Lyrical ego, mien di.
66

File đính kèm:

  • pdfcai_toi_tru_tinh_trong_tho_mien_di.pdf