Cải cách hành chính ở cấp huyện tại Thành phố Hà Nội
Trong những năm gần đây, cải cách hành chính có thể được coi như một trong những
nhiệm vụ hàng đầu trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta thường xuyên đưa ra đường lối chỉ đạo và ban hành các
chính sách trong lĩnh vực cải cách hành chính. Công tác cải cách hành chính không phải chỉ là
nhiệm vụ của riêng một cấp chính quyền, một lĩnh vực nào mà nó là nhiệm vụ chung và có
thể nói là hàng đầu của toàn thể bộ máy chính trị, các cấp chính quyền và nhân dân. Chúng ta
có thể thấy rõ được sự quyết tâm cải cách hành chính của Việt Nam thông qua các Văn kiện
Đại hội Đảng các kỳ họp của Đảng Cộng sản Việt Nam, các quyết định, chỉ thị, kế hoạch,
chương trình của Chính phủ.
Thành phố Hà Nội, với vai trò là Thủ đô và cũng là trung tâm chính trị- văn hóa, khoa
học- xã hội, kinh tế của cả nước cũng đang nghiêm túc thực hiện công tác cải cách hành
chính. Cải cách hành chính có vị trí quan trọng, luôn là một trong hai khâu đột phá trong
nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của thành phố Hà Nội. Thành ủy và Ủy ban nhân dân
thành phố đã có những chỉ đạo quyết liệt về vấn đề này và công tác cải cách hành chính bước
đầu đã tạo những bước chuyển biến tích cực trong hoạt động của thành phố.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cải cách hành chính ở cấp huyện tại Thành phố Hà Nội
Cải cách hành chính ở cấp huyện tại Thành phố Hà Nội Duy Hoàng Dương Khoa Luật Luận văn Thạc sĩ ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Mã số: 60 38 01 Người hướng dẫn: GS.TS Phạm Hồng Thái Năm bảo vệ: 2011 Abstract: Hệ thống hóa về cải cách hành chính. Đánh giá thực trạng của công tác cải cách hành chính của các quận, huyện và thị xã cho đến nay. Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị chung để từng bước tăng cường, hoàn thiện trong công tác cải cách hành chính cấp huyện thành phố Hà Nội Keywords: Hà Nội; Cải cách hành chính; Pháp luật Việt Nam Content MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, cải cách hành chính có thể được coi như một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta thường xuyên đưa ra đường lối chỉ đạo và ban hành các chính sách trong lĩnh vực cải cách hành chính. Công tác cải cách hành chính không phải chỉ là nhiệm vụ của riêng một cấp chính quyền, một lĩnh vực nào mà nó là nhiệm vụ chung và có thể nói là hàng đầu của toàn thể bộ máy chính trị, các cấp chính quyền và nhân dân. Chúng ta có thể thấy rõ được sự quyết tâm cải cách hành chính của Việt Nam thông qua các Văn kiện Đại hội Đảng các kỳ họp của Đảng Cộng sản Việt Nam, các quyết định, chỉ thị, kế hoạch, chương trình của Chính phủ. Thành phố Hà Nội, với vai trò là Thủ đô và cũng là trung tâm chính trị- văn hóa, khoa học- xã hội, kinh tế của cả nước cũng đang nghiêm túc thực hiện công tác cải cách hành chính. Cải cách hành chính có vị trí quan trọng, luôn là một trong hai khâu đột phá trong nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của thành phố Hà Nội. Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố đã có những chỉ đạo quyết liệt về vấn đề này và công tác cải cách hành chính bước đầu đã tạo những bước chuyển biến tích cực trong hoạt động của thành phố. Thực hiện Nghị quyết 15 của Quốc hội ngày về việc mở rộng địa giới hành chính, Thủ đô Hà Nội mở rộng có một địa bàn rộng lớn và một bộ máy hành chính khổng lồ. Việc mở rộng này bước đầu đã tạo nhiều cơ hội cho sự phát triển của thành phố Hà Nội, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định và tạo nhiều khó khăn cho công tác cải cách hành chính. Hiện nay, thành phố Hà Nội có tất cả 29 đơn vị hành chính cấp huyện với các điều kiện đặc thù khác nhau. Do có sự khác nhau như vậy nên sẽ khó khăn cho thành phố trong công tác quản lý và điều hành công việc. Bên cạnh đó, thực trạng hoạt động của chính quyền cấp huyện tại thành phố Hà Nội đã xuất hiện nhiều bất cập. Có thể kể đến như bộ máy hành chính còn cồng kềnh, chưa có sự thống nhất giữa các quận, huyện, thị xã; thủ tục hành chính tuy đã có việc đơn giản hóa và chuyển biến, nhưng hiện nay vẫn còn quá nhiều thủ tục chồng chéo và quy trình giải quyết còn rườm rà, chưa thực sự tạo được sự mới trong giao dịch giữa công 2 dân, tổ chức, đơn vị doanh nghiệp với cơ quan hành chính nhà nước. Một hạn chế nữa liên quan đến công tác tổ chức cán bộ và công chức, hiện nay trình độ giữa cán bộ công chức giữa các quận huyện, thị xã nói chung cũng như trong chính trong quận huyện, thị xã đó cũng có sự chênh lệch nhất định, trách nhiệm của lãnh đạo đứng đầu các cơ quan cũng tồn tại một số bất cập nhất định. Đã có nhiều đề tài nghiên cứu phục vụ cho công tác cải cách hành chính của thành phố Hà Nội, tuy nhiên, đề tài của luận văn này sẽ đi sâu nghiên cứu hiệu quả công tác cải cách hành chính ở cấp huyện tại thành phố Hà Hội, từ đó phục vụ cho công tác cải cách hành chính của toàn thành phố nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu về hành chính và cải cách hành chính. Tuy nhiên, các đề tài đó lại đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau, nội dung khác nhau trong nhiều nội dung của cải cách hành chính. Và một số đề tài khác nghiên cứu về cải cách hành chính ở các cấp khác nhau với nhiều đối tượng khác nhau. Năm 2010 cũng là năm để tổng kết và đánh giá kết quả 10 việc thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính trên toàn quốc nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng. Do vậy, đề tài được nghiên cứu dựa trên kết quả tổng kết, có phân tích sâu và rõ một số ưu điểm, hạn chế trong công tác cải cách hành chính của cấp huyện để đưa ra một số kiến nghị và giải pháp thực hiện để tăng cường cải cách hành chính ở cấp huyện. 3. Nhiệm vụ của đề tài Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu công tác cải cách hành chính cấp huyện của Thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra các giải pháp và phương hướng để hoàn thiện hơn nữa công tác cải cách hành chính, do đó để thực hiện mục tiêu này, đề tài sẽ tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau đây: - Đánh giá thực trạng của công tác cải cách hành chính của các quận, huyện và thị xã cho đến nay. - Tìm ra những lý do, nguyên nhân của thực trạng đó. - Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị chung để từng bước tăng cường, hoàn thiện trong công tác cải cách hành chính cấp huyện của thành phố Hà Nội. 4. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác cải cách hành chính cấp huyện tại thành phố Hà Nội. Trong đó có liên hệ thực tiễn với một số quận, huyện như Tây Hồ, Hoài Đức, Từ Liêm và một số quận, huyện khác. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đánh giá được công tác cải cách hành chính cấp huyện tại thành phố Hà Nội, trước hết đề tài sẽ nghiên thông qua các Văn kiện Đại hội Đảng các khóa, Luật, các văn bản chỉ đạo của Chính phủ, các văn bản như Chương trình Thành ủy, nghị quyết các kỳ họp trong những năm gần đây của Hội đồng nhân dân thành phố, báo cáo, kế hoạch của Ủy ban nhân dân thành phố, Báo cáo của các Sở, ban ngành và quận, huyện, thị xã. Đề tài sẽ tổng hợp, so sánh những số liệu cụ thể và đưa ra đánh giá về thực trạng và kết quả. Sau khi tìm ra lý do, nguyên nhân của tồn tại, bằng việc nghiên cứu qua các tài liệu tham khảo, các công trình khoa học khác và kinh nghiệm thực tiễn về cải cách hành chính của một số quốc gia, một số địa phương khác và kiến thức của cá nhân, đề tài sẽ nêu ra các kiến nghị, giải pháp chung để tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành chính của các quận, huyện và thị xã trong thời gian sắp tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dụng của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về cải cách hành chính. Chương 2: Thực trạng cải cách hành chính cấp huyện hiện nay (5 nội dung chủ yếu). Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường cải cách hành chính ở cấp huyện. 3 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH 1.1. Cải cách hành chính - biện pháp bảo đảm các quyền công dân và tổ chức Trong suốt tiến trình đấu tranh cách mạng cũng như xây dựng Nhà nước, trong mọi công tác cũng như tổ chức hoạt động, Đảng và Nhà nước ta đều thực hiện theo mục đích cao nhất là vì con người và quyền con người. Tư tưởng này được thể hiện rõ nét trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vấn đề quyền con người và cơ chế để bảo vệ quyền con người đã được Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong hai nội dung chính: xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và vấn đề quyền con người; hoàn thiện hệ thống pháp luật và các cơ chế khác để đảm bảo quyền con người. Nhà nước pháp quyền là nhà nước lấy nhân dân làm chủ thể, lấy pháp luật làm tiêu chí để quản lý xã hội. Cốt lõi của tư tưởng, quan điểm về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chính là nhà nước của dân, do dân và vì dân; nhà nước quản lý xã hội và quản lý chính bản thân mình bằng pháp luật. Mục tiêu cải cách hành chính nước ta là xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, quản lý toàn xã hội một cách hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu này đòi hỏi trước hết phải xây dựng một nền hành chính dân chủ, pháp quyền, bảo đảm các quyền công dân theo luật định được tôn trọng trên thực tế thông qua hệ thống lập quy và bằng các biện pháp cụ thể và xây dựng một nền hành chính phát triển. Đó là nền hành chính vì dân, coi công dân là trung tâm và đề cao chức năng phục vụ công. Bằng hành động thực tiễn, nền hành chính quan tâm đảm bảo các quyền và lợi ích của công dân, bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm công bằng, bình đẳng, tạo điều kiện cần thiết để mọi thành viên xã hội với những địa vị, điều kiện, thể chất, khác nhau nhưng có cơ hội như nhau để phát triển; bù đắp cho những người được hưởng lợi ít nhất; quan tâm giúp đỡ, cung cấp dịch vụ cho nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn và những nhóm đối tượng yếu thế, có vị thế bất lợi trong nền kinh tế thị trường. 1.2. Nội dung cải cách hành chính 1.2.1. Nguyên nhân phải cải cách hành chính ở nước ta Sự thay đổi của môi trường chính trị, kinh tế, xã hội quốc gia, khu vực và quốc tế đã làm cho nền hành chính nhà nước phải biến đổi theo cho phù hợp. Hiện nay, Việt Nam ta đã gia nhập một số tổ chức lớn như ASEAN, WTO nên nền hành chính nhà nước cũng cần phải có sự biến đổi để phù hợp với quốc tế, khu vực. Bên cạnh đó, trong Nghị quyết của các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam từ khóa VIII đến nay, đặc biệt và trong Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc Quyết định phê duyệt tổng thể chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 đã nêu lên một số thực trạng và tồn tại của nền hành chính nhà nước, trong đó đã nêu lên một số nguyên nhân dẫn đến cần phải có sự cải cách hành chính. 1.2.2. Nội dung cải cách hành chính của nền hành chính Việt Nam 1.2.2.1.Cải cách thể chế Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, trước hết là thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước; đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính. 1.2.2.2. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới; Từng bước điều chỉnh những công việc mà Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương đảm nhận để khắc phục những chống chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ. Chuyển cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính phủ hoặc 4 doanh nghiệp làm những công việc về dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp thực hiện; ban hành và áp dụng các quy định mới về phân cấp Trung ương - địa phương, phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương, nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương, tăng cường mối liên hệ và trách nhiệm của chính quyền trước nhân dân địa phương. Gắn phân cấp công việc với phân cấp về tài chính, tổ chức và cán bộ. Định rõ những loại việc địa phương toàn quyền quyết định, những việc trước khi địa phương quyết định phải có ý kiến của Trung ương và những việc phải thực hiện theo quyết định của Trung ương; bố trí lại cơ cấu tổ chức của Chính phủ; điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương; cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp; thực hiện từng bước hiện đại hóa nền hành chính. 1.2.2.3. Đổi mới, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức; Cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ; Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ, công chức. 1.2.2.4. Cải cách tài chính công Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chỉ đạo của ngân sách Trung ương; đồng thời phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo và trách nhiệm của địa phương và các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân sách. Bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương của Hội đồng nhân dân các cấp, tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ động xử lý các công việc ở địa phương; quyền quyết định của các bộ, sở, ban, ngành về phân bổ ngân sách cho các đơn vị trực thuộc; quyền chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách trong phạm vi dự toán được duyệt phù hợp với chế độ, chính sách. Đổi mới cơ bản cơ chế tài chính đối với khu vực dịch vụ công; đổi mới công tác kiểm toán đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu quả sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước, xóa bỏ tình trạng nhiều đầu mối thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch về tài chính công, tất cả chỉ tiêu tài chính được công bố công khai. 1.3. Cấp huyện và yêu cầu cải cách hành chính cấp huyện 1.3.1. Khái quát về cấp huyện và chính quyền cấp huyện Hiện nay bộ máy chính quyền địa phương ở cấp huyện được căn cứ theo Hiến pháp năm 1992, sửa đổi năm 2001 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003. Căn cứ Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, Hội đồng nhân dân huyện ra các nghị quyết về các biện pháp thực thi pháp luật ở địa phương, các nghị quyết phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách, an ninh quốc phòng ở địa phương, biện pháp để ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, hoàn thành các nhiệm vụ mà cấp trên giao cho và làm tròn nghĩa vụ với đất nước. Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Ngoài ra còn các quy định cụ thể tại Mục 2- Chương 4 của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 và một số văn pháp quy định khác cũng nêu rõ về nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng của Ủy ban nhân dân cấp huyện. Cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân huyện gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Ủy viên. Chính quyền cấp huyện còn một thành phần khác là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện được quy định tại Mục 5- Chương IV của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. 1.3.2. Yêu cầu cải cách hành chính cấp huyện Có thể nói, so với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện là cấp trực tiếp hơn, sát dân hơn khi thực thi, triển khai các hoạt động quản lý nhà nước trên phạm vi quận, huyện, thị xã. Trong 5 thực tế hoạt động hiện nay của chính quyền cấp huyện và cụ thể là Ủy ban nhân dân cấp huyện, có thể thấy những giao dịch giữa công dân với cơ quan nhà nước thường xuyên và phần nhiều được giải quyết tại Ủy ban nhân dân cấp huyện với những cơ quan thẩm quyền riêng là các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện. Do đó, yêu cầu cải cách hành chính ở đây chính là để nâng cao chất lượng hoạt động, hiệu quả hoạt động của bộ máy, chính quyền hành chính cấp huyện, góp phần phục vụ tốt đối với các nhu cầu của công dân. Công tác cải cách hành chính cấp huyện đòi hỏi sự đồng bộ ... h chính Hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội có 29 quận, huyện, thị xã. Ứng với mỗi một đơn vị đó là một tổ chức bộ máy hoàn chỉnh gồm có Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân. Tuy nhiên, 29 quận, huyện, thị xã trên lại có một hình thái kinh tế- xã hội, điều kiện tự nhiên cũng 11 như dân cư khác nhau. Về bộ máy chính quyền, nhìn vào đặc điểm của mỗi quận huyện, thị xã thì chúng ta có thể tạm chia các quận, huyện, thị xã thành hai nhóm chính: - Nhóm thứ nhất: chính quyền đô thị. Các chính quyền đô thị trong nhóm này chủ yếu thuộc về các quận nội thành cũ của thành phố Hà Nội như: quận Ba Đình, quận Hai Bà Trưng, quận Đống Đa, quận Cầu Giấy, quận Thanh Xuân, quận Hoàng Mai Sau khi thành phố hợp nhất có thêm quận Hà Đông. - Nhóm thứ hai: chính quyền nông thôn. Gọi là chính quyền nông thôn bởi trong nhóm này là các huyện cũ của Hà Nội cộng với các huyện của tỉnh Hà Tây (cũ) và huyện Mê Linh, các huyện này vẫn còn tồn tại hình thức sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, ngoài ra còn phát triển các làng nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Thực trạng hiện nay của việc tổ chức bộ máy hành chính trên địa bàn cấp huyện đó là thành phố chưa có sự phân biệt rõ ràng và rạch ròi trong sự chỉ đạo, điều hành đối với từng nhóm chính quyền trên. Để có thể khắc phục được sự hạn chế trong tổ chức bộ máy cấp huyện của thành phố Hà Nội hiện nay, chúng ta phải thực hiện cải cách sâu sắc và toàn diện trên toàn địa bàn thành phố, một trong những giải pháp để có thể thực hiện việc cải cách về tổ chức bộ máy chính quyền cấp huyện của thành phố Hà Nội hiện nay là: Song song tổ chức hai loại hình chính quyền theo hai nhóm trên, chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn. Đối với chính quyền đô thị, do đặc trưng riêng, yêu cầu nhiệm vụ quản lý khác với địa bàn nông thôn, đòi hỏi chính quyền phải được tổ chức hết sức tập trung, thống nhất, điều hành giải quyết công việc và các đòi hỏi bức xúc của người dân phải rất năng động và nhanh nhạy. Do vậy việc tinh giản Hội đồng nhân dân quận, phường tại thành phố Hà Nội hiện nay là cần thiết và phải làm trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là yêu cầu cải cách, xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, dân chủ, trong sạch, phục vụ nhân dân mà các Nghị quyết của Đảng đã đề ra. Đối với tổ chức bộ máy chính quyền của các huyện thuộc thành phố Hà Nội hiện nay, chúng ta vẫn nên duy trì hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã, riêng đối với Hội đồng nhân dân cấp huyện thì nên không tổ chức và theo hình thức chính quyền đô thị. Đối với tổ chức các phòng, ban chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, số lượng phòng, ban chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện hiện nay cơ bản cũng đã hợp lý, tuy nhiên thành phố nên rà soát lại về chức năng nhiệm vụ của các phòng, ban, tránh việc chồng chéo dẫn đến khi thực hiện nhiệm vụ, một số phòng, ban có những xung đột nhất định về thẩm quyền, chức năng, cần nghiên cứu đổi mới phương thức làm việc của các cơ quan hành chính theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp, giảm bớt thời gian tổ chức hội họp không cần thiết, giảm bớt một số giấy tờ điều hành không cần thiết, không có hiệu quả. Đối với các đơn vị sự nghiệp công, các quận, huyện, thị xã tiến hành cải cách theo hướng kiện toàn các đơn vị sự nghiệp còn thiếu; đảm bảo tách rõ hành chính với sự nghiệp, tiếp tục hoàn thiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công trong tổ chức và hoạt động. Một trong những giải pháp không thể thiếu được đó là, chính quyền các quận, huyện, thị xã cần phải công khai minh bạch tất cả các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản cá biệt cũng như các văn bản chỉ đạo khác có liên quan đến quyền và lợi ích của công dân. 3.2. Cải cách thủ tục hành chính Tiếp tục đẩy nhanh tiến trình thực hiện Đề án 30 của Chính phủ, thành phố cũng cần có cơ chế kỷ luật nghiêm đối với các quận, huyện thực hiện chậm so với kế hoạch chung của thành phố trong công tác đơn giản hóa thủ tục hành chính. Ngoài ra, để đánh giá một thủ tục hành chính có còn hiệu quả hay không, có nên áp dụng hay không thì việc thống kê và xử lý thủ tục hành chính đó không phải chỉ là trách nhiệm của cán bộ, công chức thực hiện cải cách hành chính hay cán bộ, công chức thực hiện tại bộ phận Một cửa của các quận, huyện, thị xã. Công cuộc cải cách hành chính không phải là của riêng nhà nước, cơ quan hay cán bộ công chức nhà nước mà cũng cần phải có sự quan tâm, đóng góp ý kiến của nhân dân, các tổ chức. 12 Vì vậy, kiến nghị giải pháp đối với thành phố trong thời gian tới, khi thực hiện các giai đoạn tiếp theo của Đề án 30 của Chính phủ, thành phố nên có chỉ đạo với các quận huyện về việc lấy ý kiến của người dân về thủ tục hành chính mà người đó giao dịch tại Bộ phận một cửa. Đây là một trong những kênh thông tin quan trọng và thể hiện được hiệu quả và sự tác động của thủ tục hành chính đó đến người dân như thế nào. 3.3. Công tác cán bộ Ủy ban nhân dân thành phố nên giao cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyền chủ động nhiều hơn trong công tác cán bộ. Các quyền chủ động đó có thể là: quyền quyết định về số lượng cán bộ, công chức, quyền được tuyển dụng cán bộ, công chức trên tổng định biên thành phố giao và tiêu chuẩn của mỗi loại cán bộ, công chức; quyền được xét, nâng, trả lương trên cơ sở chính sách chung của cả nước cũng như cơ chế đặc thù của thành phố Hà Nội; quyền về việc thực hiện sát hạch cán bộ, công chức trước khi nâng bậc lương. Để nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện tại thành phố Hà Nội, chúng ta cần phải thực hiện một số giải pháp như: tăng cường công tác đào tạo, quản lý cán bộ, tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và đạo đức, ý thức trách nhiệm cho công chức, cán bộ Bên cạnh việc giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng để nâng cao trình trình độ, tư tưởng, đạo đức của cán bộ, công chức cấp huyện thì chúng ta cũng cần phải thực hiện một số giải pháp khác như có chế độ lương, phụ cấp hợp lý. Nghiên cứu hình thức thi tuyển vào các chức danh lãnh đạo một số phòng, ban chuyên môn hoặc một số đơn vị sự nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện. Thành phố cũng cần có chế độ khen thưởng hợp lý, kịp thời cũng như các hình thức kỷ luật thích đáng đối với cán bộ, công chức. 3.4. Cải cách tài chính công Một số giải pháp cải cách tài chính công (chủ yếu bàn về tăng cường quản lý tài chính công) trong thời gian tới: Thứ nhất, phân cấp rõ ràng về quản lý ngân sách, bảo đảm chính quyền cấp huyện có sự chủ động lớn hơn về nguồn thu và thẩm quyền quyết định chi ngân sách, trên cơ sở đó chủ động bố trí và thực hiện kế hoạch hoạt động quản lý nhà nước và công tác chuyên môn tại địa phương mình. Thứ hai, tăng cường quản lý chu trình ngân sách, đổi mới các hoạt động từ lập dự toán ngân sách cho đến chấp hành và quyết toán ngân sách có tính khoa học và phù hợp hơn với thực tế. Thứ ba, hoàn thiện các chế độ, định mức chi tiêu. Thứ tư, tăng cường tính chủ động về tài chính của các đơn vị hành chính sự nghiệp của Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cơ sở gắn chi tiêu tài chính với việc cải tiến cơ chế quản lý của các đơn vị này. Việc khoán biên chế và chi phí hành chính đối với các cơ quan hành chính và quyền tự chủ về tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu cần được hoàn chỉnh và áp dụng mở rộng trong thời gian tới. Thứ năm, mở rộng và hoàn thiện kiểm toán ngân sách, góp phần chấn chỉnh kỷ luật tài chính công, phát hiện và ngăn chặn tình trạng lãng phí, tham nhũng. Thứ sáu, tăng cường sử dụng ngân sách có hiệu quả, từ đó dành một khoản chi thỏa đáng cho tiền lương trên cơ sở tiếp tục cải cách chính sách tiền lương gắn với kết quả thực thi nhiệm vụ. 3.5. Đẩy mạnh hiện đại hóa nền hành chính công Một số giải pháp kiến nghị với thành phố: - Ủy ban nhân dân thành phố cần có sự chỉ đạo nghiêm túc về việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý, điều hành, tác nghiệp của các cơ quan, đơn vị, từng bước xây dựng vận hành chính phủ điện tử. - Hoàn thiện việc triển khai hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 trong hoạt động của tất cả các quận, huyện. 13 - Thành phố nên có kiểm tra, rà soát lại, ban hành chuẩn và đầu tư cải tạo, nâng cấp điều kiện cơ sở vật chất của tất cả các cơ quan hành chính thuộc các quận huyện theo hướng hiện đại. KẾT LUẬN Cải cách hành chính có thể nói là một yêu cầu tất yếu của chính quyền các cấp, từ Trung ương tới địa phương. Trong giai đoạn 2001-2010, các tỉnh, thành phố nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng đã có những nỗ lực và bước đầu đã đạt được những kết quả tích cực. Thành phố Hà Nội, với vai trò là thủ đô hành chính, là trung tâm kinh tế, văn hóa của cả nước, vì vậy yêu cầu cải cách hành chính cần phải được chú trọng và coi là nhiệm vụ hàng đầu để thực hiện trong kế hoạch của giai đoạn 10 năm tiếp theo, từ 2011 đến 2020 và cả những giai đoạn sau này. Để thực hiện được tốt công tác cải cách hành chính tại thành phố Hà Nội, cần có sự chung sức, chung lòng của toàn thể chính quyền, các cơ quan, đơn vị, các quận, huyện, thị xã, xã, phường, thị trấn thuộc thành phố. Trong mục tiêu của công tác cải cách hành chính, cần đặt lợi ích của người dân, tổ chức lên hàng đầu, đồng thời cũng phải thực hiện tốt các nội dung của cải cách hành chính: cải cách thể chế hành chính, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, cải cách thủ tục hành chính, cải cách công tác cán bộ, cải cách tài chính công. Các nội dung trên cần được song song triển khai và phải được thực hiện nghiêm túc tại tất cả các đơn vị hành chính. Một trong những yếu tố quan trọng để thực hiện được đều phụ thuộc vào yếu tố con người. Con người ở đây không phải chỉ là đội ngũ cán bộ, công chức mà còn có cả nhân dân Thủ đô. Trong công tác cải cách hành chính, nhân dân chính là người được thụ hưởng, được nhà nước phục vụ các lợi ích chính đáng của mình và cũng chính nhân dân là người giám sát việc thực hiện các hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước. Vì vậy, trong công tác cải cách hành chính tại các quận, huyện, thị xã cũng như chung trên địa bàn thành phố Hà Nội, cần có sự chung sức, chung lòng của nhân dân, nhân dân cũng là người có trách nhiệm và nghĩa vụ trong việc chung tay cải cách hành chính, để tạo nên một nền hành chính vững mạnh, trong sạch, đảm bảo các mục tiêu của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là một nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. References 1. Chính phủ (2001), Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, Hà Nội. 2. Chính phủ (2006), Quyết định số 94/2006/QĐ-TTg ngày 27/4 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2006-2010, Hà Nội. 3. Chính phủ (2007), Quyết định số 30/QĐ-TTg ngày 10/01 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 - 2010, Hà Nội. 4. Chính phủ (2007), Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6 của Thủ tướng Chính phủ (thay thế Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003) về việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, Hà Nội. 5. Chính phủ (2008), Quyết định số 07/QĐ-TTg ngày 04/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch thực hiện Đề án Đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giao đoạn 2007 - 2010, Hà Nội. 6. Chính phủ (2008), Nghị định số 20/2008/QĐ-CP ngày 14/02 về tiếp nhận, xử lý phản ánh kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính, Hà Nội. 7. Chính phủ (2009), Nghị định số 632/QĐ-VPCP ngày 29/5 phê duyệt kế hoạch truyền thông đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 - 2010, Hà Nội. 14 8. Chính phủ (2010), Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 02/6 của Chính phủ thông qua phương án đơn giản hóa 258 thủ tục hành chính ưu tiên, Hà Nội. 9. Chính phủ (2010), Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6 của Chính phủ về kiểm soát thủ tục hành chính, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Học viện Hành chính Quốc gia (2003), Hành chính công, Nxb Thống kê, Hà Nội. 16. Quốc hội (1946), Hiến pháp, Hà Nội. 17. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội. 18. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội. 19. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội. 20. Quốc hội (1996), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội. 21. Quốc hội (1998), Luật Khiếu nại, tố cáo, Hà Nội. 22. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội. 23. Quốc hội (2001), Luật tổ chức Chính phủ, Hà Nội. 24. Quốc hội (2002), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội. 25. Quốc hội (2003), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Hà Nội. 26. Quốc hội (2004), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Hà Nội. 27. Quốc hội (2005), Luật Khiếu nại, tố cáo (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội. 28. Quốc hội (2008), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội. 29. Võ Kim Sơn (2004), Phân cấp quản lý hành chính nhà nước - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 30. Phạm Hồng Thái (2004), Công vụ, công chức nhà nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 31. Phạm Hồng Thái (2005), "Bàn về Nhà nước pháp quyền và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta", Quản lý nhà nước, (3). 32. Phạm Hồng Thái (2005), "Xu hướng dịch chuyển quyền lực trong bộ máy hành chính và vấn đề dân chủ", Nhà nước và pháp luật, (6). 33. Phạm Hồng Thái (2007), "Xác lập đơn vị hành chính- Lãnh thổ một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Quản lý nhà nước, (7). 34. Phạm Hồng Thái (2007), "Tổ chức quyền lực nhà nước trong hiến pháp 1946 giá trí mang tính thời đại", Dân chủ và pháp luật, (9). 35. Phạm Hồng Thái (2008), "Tản quyền - mô hình tổ chức cho Hà Nội mới", Vietnamnet.vn, ngày 01/8. 15 36. Phạm Hồng Thái - Đinh Văn Mậu (2008), Luật Hành chính Việt Nam, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 37. Thành ủy Hà Nội (2006), Chương trình 04/TTr-TU ngày 04/5 nội dung về đẩy mạnh cải cách hành chính, góp phần nâng cao hiệu lực của chính quyền các cấp, Hà Nội. 38. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2009), Kế hoạch số 18/KH-UBND ngày 17/02 về việc triển khai cải cách hành chính năm 2009, Hà Nội. 39. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2010), Kế hoạch số 24/KH-UBND về cải cách hành chính năm 2010, Hà Nội. 40. Văn Phòng Chính phủ (2010), Báo cáo số 5535/BC-VPCP ngày 9/8 về việc sơ kết thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo Đề án 30, Hà Nội. 41. Nguyễn Cửu Việt (chủ biên) (2005), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
File đính kèm:
- cai_cach_hanh_chinh_o_cap_huyen_tai_thanh_pho_ha_noi.pdf