Cách mạng công nghiệp 4.0 và vai trò của Internet kết nối vạn vật (IOT) trong triển vọng ứng dụng vào hoạt động của các thư viện ở Việt Nam

Các cuộc Cách mạng Công

nghiệp (CMCN)

Nói đến CMCN là nói đến “sự thay đổi

mang tính đột biến và triệt để” mà nó mang

lại trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội, văn

hóa và khoa học kỹ thuật. Quá trình định

hình mỗi cuộc cách mạng trong từng giai

đoạn đã phản ánh những đặc trưng căn bản

trong sự thay đổi về bản chất của phương

thức sản xuất và tư liệu sản xuất, từ đó làm

“thay đổi sâu sắc trong hệ thống kinh tế

và kết cấu xã hội” [Cục TT KH&CN QG,

2017, tr. 2]. Những thập niên đầu thế kỷ 21,

nhân loại đang đứng trước cơ hội của một

cuộc CMCN mà về cơ bản, quy mô, phạm

vi và sự phức tạp của nó sẽ thay đổi cách

thức chúng ta sống, làm việc và liên hệ với

nhau. Sự chuyển đổi đó sẽ không giống với

bất kỳ sự chuyển đổi nào mà nhân loại đã

từng trải qua [Schwab, 2015].

pdf 10 trang kimcuc 5940
Bạn đang xem tài liệu "Cách mạng công nghiệp 4.0 và vai trò của Internet kết nối vạn vật (IOT) trong triển vọng ứng dụng vào hoạt động của các thư viện ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cách mạng công nghiệp 4.0 và vai trò của Internet kết nối vạn vật (IOT) trong triển vọng ứng dụng vào hoạt động của các thư viện ở Việt Nam

Cách mạng công nghiệp 4.0 và vai trò của Internet kết nối vạn vật (IOT) trong triển vọng ứng dụng vào hoạt động của các thư viện ở Việt Nam
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
27THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
 Trương Minh Hòa
 Trường Chính sách công và Quản lý, Đại học Fulbright Việt Nam (FUV)
Tóm tắt: Điểm lại quá trình định hình và phát triển của các cuộc cách mạng công nghiệp trong 
lịch sử, đặc biệt cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư (CMCN 4.0), diễn ra trên thế giới, trong đó 
nhấn mạnh vai trò quan trọng của Internet kết nối vạn vật (IoT) trong lĩnh vực thư viện. Thông qua 
đó, đưa ra một số triển vọng trong việc ứng dụng IoT vào hoạt động của các thư viện ở Việt Nam.
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp; Internet; IoT; thư viện.
Industry 4.0 and the role of Internet of Things (IoT)
Abstract: The article provides overview on the establishment and development of industrial 
revolutions in the world, especially Industrial Revolution 4.0 (Industry 4.0). It then analyzes the 
important role of Internet of Things (IoT) and the prospect of IoT application in library activities in 
Vietnam.
Keywords: Industrial Revolution; Internet; IoT; library.
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ VAI TRÒ CỦA INTERNET KẾT NỐI VẠN VẬT (IOT) 
TRONG TRIỂN VỌNG ỨNG DỤNG VÀO HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC THƯ VIỆN Ở VIỆT NAM 
1. Giới thiệu
Trong vài năm trở lại đây, thuật ngữ Cách 
mạng Công nghiệp 4.0 (gọi tắt là CMCN 
4.0) đang trở thành từ khóa phổ biến trong 
các biểu thức tìm tin và là chủ đề thời sự 
cho những thảo luận cả về chuyên môn 
lẫn đại chúng, đặc biệt là từ sau Diễn đàn 
Kinh tế Thế giới (WEF) được tổ chức tại 
Davos-Klosters (Thụy Sĩ) với chủ đề “Cuộc 
CMCN lần thứ 4”. Tìm kiếm trên Google 
cho thấy, thuật ngữ này có tới hơn 81 triệu 
kết quả đối với tiếng Việt và hơn 144 triệu 
đối với tiếng Anh1, điều này đã chứng tỏ 
mức độ quan tâm đáng kể của người dân 
không chỉ ở các nước phát triển như Hoa 
1 Kết quả tìm trên Google vào ngày 15/6/2017 khi gõ cụm từ “CN 4.0” và “4.0 industry”.
Kỳ, châu Âu và một phần châu Á mà ngay 
cả các nước đang phát triển như Việt Nam. 
Theo Schwab (2015), tốc độ đột phá của 
CMCN 4.0 hiện nay là không có tiền lệ lịch 
sử; đang tiến triển theo một hàm số mũ 
chứ không phải tốc độ tuyến tính; phá vỡ 
hầu hết ngành công nghiệp ở mọi quốc gia; 
và báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ 
thống sản xuất, quản lý và quản trị. CMCN 
4.0 đã, đang và sẽ diễn ra trên ba lĩnh vực 
chính là: Công nghệ sinh học, Kỹ thuật số 
và Vật lý. Trong đó, những yếu tố cốt lõi 
của lĩnh vực Kỹ thuật số chính là Internet 
kết nối vạn vật (Internet of Things - IoT), 
Trí tuệ nhân tạo (Antificial Intelligence - AI), 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
28 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
và Dữ liệu lớn (Big Data). Khái niệm IoT 
từ khi được Kevin Ashton đưa ra lần đầu 
tiên vào năm 1999, gắn liền với công 
nghệ Nhận dạng tần số vô tuyến (Radio 
Frequency Identification- gọi tắt là RFID) 
[Ashton, 2009] đã được ứng dụng rộng 
rãi trong một số lĩnh vực từ sản xuất, giao 
thông, logistic, chăm sóc sức khỏe,... đến 
lĩnh vực thư viện. Hiện nay, IoT đang mở ra 
những tiềm năng to lớn để ứng dụng vào 
các hoạt động của thư viện, nó đã trở thành 
một trong những chủ đề ưa thích đối với 
cộng đồng những người làm nghề thư viện 
[ALA, 2017]. IoT còn mang lại ý nghĩa cho 
những người làm thư viện muốn học tập 
công nghệ mới này, đợi đến khi công nghệ 
được chấp nhận rộng rãi, được áp dụng và 
sẵn sàng để triển khai tốt hơn trong các thư 
viện [Pujar, 2015, tr. 190]. Bài nghiên cứu 
điểm lại quá trình định hình của các cuộc 
cách mạng công nghiệp trong lịch sử, đặc 
biệt cuộc CMCN 4.0 đã làm thay đổi toàn 
diện xã hội con người; tập trung phân tích 
vai trò của IoT; và triển vọng của việc ứng 
dụng vào các hoạt động của thư viện Việt 
Nam.
2. Quá trình định hình các cuộc Cách 
mạng Công nghiệp trong lịch sử và khái 
niệm Internet kết nối vạn vật (Internet of 
Things - IoT)
2.1. Các cuộc Cách mạng Công 
nghiệp (CMCN)
Nói đến CMCN là nói đến “sự thay đổi 
mang tính đột biến và triệt để” mà nó mang 
lại trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội, văn 
hóa và khoa học kỹ thuật. Quá trình định 
hình mỗi cuộc cách mạng trong từng giai 
đoạn đã phản ánh những đặc trưng căn bản 
trong sự thay đổi về bản chất của phương 
thức sản xuất và tư liệu sản xuất, từ đó làm 
“thay đổi sâu sắc trong hệ thống kinh tế 
và kết cấu xã hội” [Cục TT KH&CN QG, 
2017, tr. 2]. Những thập niên đầu thế kỷ 21, 
nhân loại đang đứng trước cơ hội của một 
cuộc CMCN mà về cơ bản, quy mô, phạm 
vi và sự phức tạp của nó sẽ thay đổi cách 
thức chúng ta sống, làm việc và liên hệ với 
nhau. Sự chuyển đổi đó sẽ không giống với 
bất kỳ sự chuyển đổi nào mà nhân loại đã 
từng trải qua [Schwab, 2015].
 Cách mạng Công nghiệp lần thứ 
Nhất (CMCN 1.0)
Cuộc CMCN 1.0 kéo dài từ cuối thế kỷ 
18 đến nửa đầu thế kỷ 19 đã châm ngòi 
cho sự bùng nổ của nền công nghiệp lan 
rộng từ Anh đến châu Âu và Hoa Kỳ, mở 
ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân 
loại - kỷ nguyên sản xuất cơ khí. CMCN 
1.0 đánh dấu bằng việc sử dụng nước và 
năng lượng hơi nước để cơ giới hóa sản 
xuất. Phát minh ra động cơ máy hơi nước 
và sau đó là động cơ đốt trong chạy bằng 
than đá, xây dựng các tuyến đường sắt để 
mở rộng giao thương. Đây là giai đoạn quá 
độ từ nền sản xuất nông nghiệp sang nền 
sản xuất cơ khí dựa trên cơ sở khoa học 
[Đăng Khoa, 2017].
 Cách mạng Công nghiệp lần thứ 
Hai (CMCN 2.0)
Cuộc CMCN 2.0 diễn ra từ nửa sau thế 
kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 khi có sự phát 
triển của ngành điện, vận tải, hóa học, sản 
xuất thép, và đặc biệt là sản xuất và tiêu 
dùng hàng loạt, được tích lũy qua quá trình 
phát triển 100 năm của các lực lượng sản 
xuất dựa trên cơ sở của nền sản xuất đại 
cơ khí và sự phát triển của KHKT [Cục TT 
KH&CN QG, 2017, tr. 2]. Máy phát điện, 
đèn điện và động cơ điện ra đời giúp con 
người chuyển sang nền sản xuất dựa trên 
sự kết hợp giữa điện và cơ khí để tự động 
hóa sản xuất cục bộ (tự động hóa một 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
29THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
phần), biến khoa học thành một ngành lao 
động đặc biệt, tạo tiền đề cho sự ra đời 
của dây chuyền lắp ráp và sản xuất công 
nghiệp hàng loạt [Cục TT KH&CN QG, 
2017, tr. 2].
 Cách mạng Công nghiệp lần thứ Ba 
(CMCN 3.0)
Cuộc CMCN 3.0 xuất hiện từ những 
thập niên 60 của thế kỷ 20, với sự ra đời 
và lan tỏa mạnh mẽ của công nghệ thông 
tin (CNTT), kết hợp điện tử và CNTT để tự 
động hóa sản xuất. CMCN 3.0 còn được 
gọi là CM máy tính hay CM số, sử dụng 
các chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính 
cá nhân và mạng Internet [Cục TT KH&CN 
QG, 2017, tr. 3]. Điểm khác biệt chính của 
CMCN 3.0 so với hai cuộc CMCN trước đó 
là việc sử dụng KH&CN hiện đại để thay 
thế chức năng lao động trí óc và chân tay 
của con người bằng máy móc tự động hóa 
trong quá trình sản xuất nhất định. Với 
việc phát minh ra năng lượng hạt nhân và 
năng lượng nhiệt hạch làm cho lực lượng 
sản xuất thay đổi theo hai hướng chủ yếu: 
1) Về chức năng, vị trí của con người trong 
sản xuất, dịch chuyển từ nền tảng điện-
cơ khí sang cơ-điện tử và cơ-vi điện tử, 
2) Sản xuất dựa trên các ngành có hàm 
lượng công nghệ cao như: công nghệ nano, 
công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học, 
công nghệ vũ trụ,... có tính bền vững và 
thân thiện với môi trường [Cục TT KH&CN 
QG, 2017, tr. 3]. 
 Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư 
(CMCN 4.0)
Cuộc CMCN 4.0 định hình vào những 
năm đầu thế kỷ 21, dựa trên nền tảng và 
những tiến bộ công nghệ của CMCN 3.0. 
2 Hội chợ hàng đầu thế giới về công nghệ và công nghiệp, là sự kiện lớn nhất và quan trọng nhất của ngành, được tổ chức thường niên bởi 
công ty Deutsche Messe AG (CHLB Đức). 
Thuật ngữ “công nghiệp 4.0” (tiếng Đức 
là Industrie 4.0) bắt nguồn từ một dự án 
Chiến lược Công nghệ cao (the High-Tech 
Strategy) của chính phủ Đức để khuyến 
khích thúc đẩy tin học hóa sản xuất và lần 
đầu được sử dụng tại Hội chợ Hannover2. 
Theo Schwab (2015), CMCN 4.0 là một 
thuật ngữ bao gồm một loạt các công nghệ 
tự động hóa hiện đại, trao đổi dữ liệu và 
chế tạo. CMCN 4.0 được định nghĩa là 
“một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và 
khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi 
cùng với hệ thống vật lý trong không gian 
ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT) và Internet 
của các dịch vụ (IoS) [Cục TT KH&CN QG, 
2017, tr. 6]. CMCN 4.0 sẽ diễn ra trong 
3 lĩnh vực chính là: Công nghệ sinh học, 
Kỹ thuật số và Vật lý. Chúng dung hợp 
và tương tác với nhau làm mờ đi ranh giới 
giữa 3 lĩnh vực này. Bản chất của CMCN 
4.0 là dựa trên sự kết hợp giữa nền tảng 
công nghệ thực (máy móc) với công nghệ 
ảo (mạng Internet) để tối ưu hóa quy trình 
và phương thức sản xuất trong các “nhà 
máy thông minh” hay “nhà máy số” [Cục 
TT KH&CN QG, 2017, tr. 6]. Khác biệt lớn 
nhất của CMCN 4.0 so với 3 cuộc CMCN 
trước đó là ở: 1) Tốc độ (tiến triển với một 
tốc độ theo cấp lũy thừa, chứ không phải là 
tốc độ tuyến tính), 2) Phạm vi và chiều sâu 
(CMCN 4.0 dựa trên CMCN 3.0 và kết hợp 
nhiều công nghệ dẫn đến những thay đổi 
chưa có tiền lệ trong mô hình kinh tế, kinh 
doanh, xã hội và cá nhân), và 3) Tác động 
hệ thống (CMCN 4.0 bao gồm sự chuyển 
đổi của toàn bộ hệ thống, trên khắp (và 
giữa) các quốc gia, các công ty, các ngành 
công nghiệp và toàn thể xã hội [Schwab, 
2016, tr. 8-9]. 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
30 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
2.2. Khái niệm Internet kết nối vạn 
vật- IoT
Ngày nay, Internet đóng một vai trò cực 
kỳ quan trọng và gần như không thể thiếu 
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống con người, 
đặc biệt là trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 
đang diễn ra trên khắp toàn cầu. Mức độ 
ứng dụng và phạm vi kết nối đến tất cả các 
vật thể với mạng Internet ngày càng sâu 
rộng, giúp tiết kiệm chi phí và thời gian 
trong hầu hết các lĩnh vực, như: logistics, 
bảo hiểm, chăm sóc sức khỏe, ngân hàng, 
nông nghiệp, khách sạn,... và trong cả lĩnh 
vực thư viện thông qua các ứng dụng trên 
điện thoại thông minh (smartphone). Theo 
Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ [ALA, 2017], 
dự báo đến năm 2025 sẽ có khoảng từ 25 
tỷ đến 50 tỷ thiết bị khác nhau kết nối với 
Internet, như: điện thoại di động, đồng hồ 
thông minh, máy tính bảng, sách báo, xe 
hơi, máy giặt, máy lạnh, đèn, giày dép, 
quần áo,... được gắn các thiết bị nhận dạng, 
các cảm biến (sensors), có thể giao tiếp với 
nhau thông qua mạng Internet để tương tác 
với con người, và người ta gọi đó là Internet 
kết nối vạn vật - Internet of Things (IoT). 
Theo Panetta (2017), tương lai của các ứng 
dụng trên nền tảng IoT thật sự chỉ mới bắt 
đầu. Trong 5-10 năm tới, IoT sẽ chạm đến 
đỉnh của ngưỡng triển vọng ứng dụng nền 
tảng này vào thực tế (Hình 2).
Hiện tại, việc đưa ra một định nghĩa thống 
nhất về IoT là một thách thức, một mặt là do 
sự mới mẻ của lĩnh vực này, mặt khác, có 
quá nhiều các dịch vụ và ứng dụng khác 
nhau về IoT mà các kỹ sư công nghệ có thể 
dự báo được [Hahn, 2017, tr. 5]. 
Theo Từ điển Công nghệ mở Techopedia 
(2017): “IoT là một khái niệm về máy tính 
mô tả ý tưởng về các vật thể vật lý hàng 
ngày được kết nối với mạng Internet và có 
thể nhận dạng được chính nó với các thiết 
bị khác. Thuật ngữ này được đồng nhất với 
công nghệ RFID như một cách truyền tin, 
bao gồm công nghệ cảm biến, công nghệ 
không dây và mã QR khác”. 
Hình 1. Internet of Things (IoT)
Nguồn: Khương Nha - Duy Tín, 2017 [10].
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
31THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
Từ điển Oxford (2017) cho rằng: “IoT 
là sự kết nối của các thiết bị máy tính với 
các vật thể hàng ngày cho phép chúng gởi 
và nhận dữ liệu với nhau thông qua mạng 
Internet”. 
Theo trang TechTarget3 (2017): “IoT là 
một hệ thống các thiết bị máy tính tương 
quan với nhau, máy móc cơ khí và kỹ thuật 
số, các vật thể, động vật hay con người 
được cung cấp các nhận dạng duy nhất 
và khả năng truyền dữ liệu thông qua một 
mạng lưới kết nối mà không cần sự tương 
tác giữa con người - con người hay con 
người - máy tính”. 
Theo Business Insider: “IoT là một 
mạng lưới các vật thể được kết nối với 
3 Mạng giao lộ trực tuyến uy tín hàng đầu thế giới của những người mua sắm công nghệ, mục tiêu hướng đến nội dung và các nhà cung 
cấp công nghệ trên khắp toàn cầu.
mạng Internet có thể thu thập và trao đổi dữ 
liệu bằng cách gắn các cảm biến” [Meola, 
2016]. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia 
(2017) đã viết: “IoT là sự liên kết các thiết 
bị vật lý, các phương tiện (còn được gọi là 
“thiết bị kết nối” và “thiết bị thông minh”), 
các công trình kiến trúc, và các vật khác 
gắn với điện tử, phần mềm, cảm biến, thiết 
bị điều tiết (actuator), và kết nối mạng cho 
phép các vật thể này thu thập và trao đổi 
dữ liệu”.
Có thể thấy rằng, các định nghĩa về IoT 
dù có những sự khác biệt nhất định nhưng 
cùng khái quát được 03 nội dung cốt lõi, 
đó là 1) một vật thể thông thường được 
gắn với 2) một thiết bị nhận dạng để 3) 
Hình 2. Chu kỳ tăng trưởng của các công nghệ mới nổi, 2017
Nguồn: Gartner (05/2018)
https://blogs.gartner.com/smarterwithgartner/files/2017/08/Emerging-Technology-
Hype-Cycle-for-2017_Infographic_R6A.jpg.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
32 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
truyền và nhận dữ liệu thông qua kết nối 
mạng Internet. Trong bài viết này, vai trò 
và ứng dụng của IoT vào các hoạt động 
của thư viện cũng sẽ đề cập dựa trên các 
nội dung đó.
3. Vai trò của Internet of Things (IoT) 
và triển vọng ứng dụng vào hoạt động 
của các thư viện ở Việt Nam
Trong xu hướng CMCN 4.0, vai trò của 
IoT đã có mặt ở hầu hết các lĩnh vực quan 
trọng trong sản xuất, kinh doanh, vận tải, 
khoa học, giải trí và cả cuộc sống hàng 
ngày của con người. Nó cũng mở ra một 
triển vọng đáng kể cho ngành TV-TT, đặc 
biệt là ứng dụng vào hoạt động của các 
thư viện. Trên thực tế, các thư viện chính là 
không gian lý tưởng để kết hợp và ứng dụng 
IoT vào việc quản lý các tài nguyên hữu 
hình như: sách, báo, băng đĩa ghi âm - ghi 
hình, máy in, máy photocopy, máy scan, kệ 
sách, máy tính, trang thiết bị hỗ trợ khác,... 
Các thư viện sẽ được hưởng lợi từ các ứng 
dụng này để làm tăng thêm giá trị cho các 
dịch vụ thư viện, từ đó mang lại những trải 
nghiệm mới cho người sử dụng. Hiện nay, 
việc sở hữu smartphone được cài đặt các 
ứng dụng di động (mobi-apps) đã trở nên 
phổ biến hơn đối với bạn đọc. Thông qua 
IoT, người dùng tin có thể tìm kiếm tài liệu, 
lựa chọn các dịch vụ mượn - trả, gia hạn 
tài liệu, hay truy cập vào các tài nguyên số 
của thư viện,... Đối với thư viện, vai trò của 
IoT trong quản lý có thể giúp tăng hiệu quả 
trong các khâu chọn lọc, bổ sung, thanh 
lọc vốn tài liệu, lưu trữ - bảo quản tài liệu, 
tìm tin - phổ biến thông tin, quản lý chặt 
chẽ việc kiểm kê kho và tài sản, đẩy mạnh 
lưu hành tài liệu, marketing sản phẩm và 
dịch vụ thông tin thư viện, chia sẻ thông 
tin/học liệu, đồng thời tạo ra môi trường tiện 
ích nhất để khuyến khích họ đến với thư 
viện và sử dụng các dịch vụ thư viện nhiều 
hơn. Do đó, triển vọng ứng dụng của IoT 
vào một số hoạt động của thư viện sẽ góp 
phần nâng cao chất lượng dịch vụ của các 
thư viện ở Việt Nam trong một số lĩnh vực:
a. Dịch vụ định vị, truy cập vào thư viện 
và các dịch vụ thư viện
IoT cho phép người sử dụng, thông 
qua các ứng dụng di động chạy trên 
smartphone, kết nối với hệ thống định 
vị toàn cầu (Global Positioning System 
- GPS) để lấy và phân tích dữ li ... h xác vị trí của các tòa nhà 
thư viện gần nhất mà người đọc có thể tiếp 
cận đến nhanh nhất [Hahn, 2017, tr. 8]. 
Các thư viện cũng có thể tạo ra một “thẻ 
thư viện ảo” cho phép người đọc sử dụng 
thư viện, truy cập vào các dịch vụ và tài 
nguyên có sẵn tại đây. Ứng dụng này sẽ 
cung cấp một bản đồ hướng dẫn xác định 
vị trí của các tài nguyên đó hoặc tự điều 
hướng tới một dịch vụ khác được cung cấp 
bởi một bên thứ ba. Đó có thể là các nhà 
cung cấp các ấn phẩm sách, báo, tạp chí, 
phim ảnh, thiết bị điện tử, mà người đọc 
đang tìm kiếm hoặc muốn sử dụng. Nó còn 
cung cấp cho họ thông tin chi tiết về các 
sản phẩm này, giúp họ đưa ra các quyết 
định thay thế có nên tiếp tục mượn hoặc 
mua hay không. Người đọc tại nhà, hoặc tại 
nơi làm việc cũng có thể lựa chọn các danh 
mục tài liệu mà mình quan tâm và gửi yêu 
cầu đặt chỗ trước tới thư viện. Sau đó, khi 
người đọc vào thư viện để tìm kiếm thì ứng 
dụng trên điện thoại sẽ kết nối với các kệ 
sách số thông minh (smart digital shelves) 
để báo cho họ biết chính xác các tài liệu 
đó đang được xếp ở đâu trên kệ. Do đó, cả 
người dùng và thư viện sẽ tiết kiệm được 
thời gian, chi phí và xa hơn là thư viện cải 
thiện được dịch vụ để phục vụ tốt hơn cho 
người dùng tin [Pujar & Satyanarayana, 
2015, tr. 189]. 
b. Quản lý vốn tài liệu
IoT còn được áp dụng vào hoạt động 
quản lý vốn tài liệu bằng cách gắn các thẻ 
RFID (RFID tags) vào các tài liệu có trong 
thư viện. Các thư viện ở Việt Nam có lẽ đã 
trở nên quen thuộc với công nghệ RFID ra 
đời cách đây hơn 40 năm. Nó cho phép các 
thư viện quản lý, giám sát và lưu thông vốn 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
33THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
tài liệu từ xa dựa trên dữ liệu được lưu trữ 
khi thẻ RFID được gắn vào tài liệu và được 
giải mã dựa trên một thiết bị đọc chuyên 
dụng. Sự kết hợp giữa công nghệ RFID và 
IoT sẽ giúp tối ưu hóa các hoạt động lưu 
thông tài liệu, giảm thiểu rủi ro mất mát, 
thất lạc trong quá trình kiểm kê tài sản, 
thanh lọc - bổ sung và quản lý vốn tài liệu. 
Với thẻ thư viện có gắn RFID, người đọc sẽ 
được thông báo cho biết một tài liệu nào 
đó có bị trễ hạn hay không, trễ bao nhiêu 
ngày, với mức phí phạt là bao nhiêu,... mà 
không cần đến trực tiếp quầy lưu hành. 
Các kệ sách số thông minh cũng có thể 
cung cấp một số nội dung cơ bản của các 
tài liệu mà bạn đọc đang quan tâm dựa 
trên lịch sử tìm kiếm của người đó hoặc 
các giao dịch trong phiếu mượn - trả tài 
liệu [Pujar & Satyanarayana, 2015, tr. 188]. 
Bên cạnh đó, khi đăng nhập vào tài khoản 
trên Facebook, Twitter hoặc LinkedIn đã 
được xác thực, người đọc có thể nhận được 
thông báo trên smartphone các tài liệu mà 
họ đang tìm kiếm có bao nhiêu cuốn, đã 
được mượn hay chưa [Pera, 2014], cũng 
như giúp thư viện dễ dàng xác định được 
các tài liệu bị xếp nhầm vị trí.
c. Nâng cao năng lực thông tin
Trong CMCN 4.0, không chỉ người làm 
nghề TT-TV mà cả những người dùng tin sẽ 
phải đối mặt với xu thế bùng nổ thông tin 
và các nguồn dữ liệu lớn (Big Data). Xu thế 
này đòi hỏi họ phải có năng lực thông tin 
để nắm rõ nhu cầu thông tin của mình, từ 
đó vạch ra cách thức tìm kiếm, tổ chức lưu 
trữ, đánh giá và sử dụng thông tin một cách 
hiệu quả. Việc tìm kiếm thông tin có thể 
được thực hiện dựa vào hai hình thức, tìm 
trong môi trường vật lý, hoặc tìm trong môi 
trường số. Thông qua IoT, các thư viện có 
thể hướng dẫn cho người đọc trải nghiệm 
các “tour ảo tự hướng dẫn” (self-guided 
4 Beacon là thiết bị không dây sử dụng giao thức Bluetooth 4.0 (BLE-Bluetooth Low Energy) để phát các tín hiệu vô tuyến nhỏ xung quanh 
nó, cho phép Bluetooth 4.0 kích hoạt các thiết bị khác “giao tiếp” với nó trong phạm vi khoảng từ 7.6 cm lên đến 45 m (Mishra, R. (2014), 
“The Game-Changing Natural of Beacons”, UX Magazine, truy cập ngày 19/06/2017 tại địa chỉ: 
changing-nature-of-beacons).
virtual tours). Thư viện sẽ lắp đặt các đèn 
báo hiệu (beacons)4 ở một số điểm chính 
xung quanh thư viện, khi họ đến từng vị trí 
cụ thể, điện thoại của họ sẽ tự động phát ra 
các đoạn video, hình ảnh hoặc âm thanh, 
cung cấp thêm thông tin để họ biết và tận 
dụng tối đa các tiện ích mà khu vực đó mang 
lại. IoT cũng làm phong phú thêm các trải 
nghiệm thú vị khác khi bạn đọc muốn tiếp 
xúc với các bộ sưu tập đặc biệt, bị hạn chế 
tiếp cận như: các bản thảo chép tay, tài liệu 
cổ độc bản, các tác phẩm, tranh ảnh quý 
hiếm, được trưng bày và bảo quản trong 
các hộp kính. Khi bạn đọc đến gần, toàn 
bộ nội dung của bộ sưu tập này sẽ hiển thị 
trên màn hình smartphone, hoặc máy tính 
bảng dưới định dạng số để họ tham khảo 
và trải nghiệm [Porter, 2014]. IoT còn được 
dùng để tải xuống các thông tin cập nhật 
của người sử dụng như trạng thái cảm xúc, 
thời gian biểu, nhật ký, các chủ đề quan 
tâm,... từ smartphone của họ, dựa vào đó, 
thư viện sẽ giới thiệu các khóa đào tạo phù 
hợp sau khi tổng hợp và phân tích thông 
tin, dữ liệu thu được [Wójcik, 2015, tr. 411].
d. Marketing sản phẩm và dịch vụ thông 
tin thư viện trên nền tảng IoT
IoT cũng mang lại tiềm năng to lớn trong 
việc marketing sản phẩm và dịch vụ thông 
tin thư viện đến với người dùng. Thông qua 
việc theo dõi và phân tích lịch sử tìm tin, 
dựa trên dữ liệu, biểu thức tìm, các từ khóa 
trong các máy tìm kiếm, thư viện có thể 
thiết lập một danh sách các chủ đề, tài liệu 
mà bạn đọc quan tâm để tổ chức tìm, tổng 
hợp và cung cấp thông tin, dữ liệu đúng 
với nhu cầu của người dùng. Bên cạnh đó, 
nếu không có nguồn thông tin, dữ liệu phù 
hợp, thư viện có thể tư vấn cho người đọc 
chuyển sang chọn lựa các nguồn tài liệu 
thay thế khác. IoT còn giúp các thư viện 
giới thiệu danh mục tài liệu mới, các dịch 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
34 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
vụ phổ biến thông tin có chọn lọc (SDI) 
và dịch vụ tìm tin theo yêu cầu, hoặc hợp 
tác với các thư viện khác thông qua dịch 
vụ mượn liên thư viện (ILL), giới thiệu đến 
các nhà cung cấp để tìm phương án hỗ trợ 
người dùng tiếp cận tối đa đến các nguồn 
tài liệu này. IoT còn có thể tối đa hóa các 
quy trình công việc nội bộ của thư viện và 
phát triển các mô hình kinh doanh sáng tạo 
để đảm bảo thư viện là nơi thật sự lý tưởng, 
thu hút người sử dụng và các đối tác. Việc 
sử dụng sáng tạo các kỹ thuật marketing 
dựa trên IoT để quảng bá thư viện và tổ 
chức các sự kiện có thể giúp các thư viện 
xây dựng được hình ảnh như là một trung 
tâm thông tin hiện đại trong xu hướng mới 
[Wójcik, 2015, tr. 411]. 
e. Chia sẻ thông tin/học liệu
Chia sẻ thông tin/học liệu đang trở thành 
một xu hướng hợp tác, thu hút sự quan tâm 
không chỉ giữa các thư viện mà còn ở cấp 
quốc gia, và thậm chí vượt ra khỏi ranh giới 
một quốc gia. IoT đã, đang và sẽ thúc đẩy 
cho quá trình này diễn ra một cách mạnh 
mẽ, nhanh chóng và hiệu quả hơn. Các 
thư viện hiện nay đang nỗ lực cùng hợp 
tác để tạo ra các cổng thông tin và các 
CSDL dùng chung. Hoạt động này thể hiện 
những nỗ lực trong việc mở rộng khả năng 
đáp ứng các nguồn thông tin đặc thù, đắt 
đỏ mà một thư viện hoặc người dùng đơn 
lẻ không có khả năng làm được [Walden, 
1999, trích trong Ali, 2010]. Thông qua IoT, 
các thiết bị di động như điện thoại thông 
minh, máy tính bảng kết hợp với điện toán 
đám mây, điện toán di động và mạng không 
dây tạo ra mô hình “điện toán đám mây di 
động” (mobile cloud computing - MCC). 
MCC lại kết hợp với “yếu tố địa lý” tạo ra 
một mô hình mới là “điện toán đám mây di 
động phân bố theo địa lý” (Geo-Distributed 
Cloud Computing - GMCC). Nền tảng 
GMCC này cho phép kết nối đến các trung 
tâm dữ liệu dùng chung và tài nguyên đám 
mây phân bố theo khu vực địa lý trở nên 
dễ dàng hơn, đáp ứng cho nhu cầu kết nối 
cùng lúc của nhiều người sử dụng di động 
trong một khu vực rộng lớn [Delicato, 2017, 
tr. 49]. Nhờ đó, cộng đồng người dùng tin 
và các thư viện ở những khu vực địa lý xa 
xôi có thể kết nối để cùng nhau đóng góp, 
chia sẻ và khai thác thông tin một cách 
hiệu quả, giúp giảm chi phí, qua đó thúc 
đẩy hợp tác, nâng cao hơn nữa nhận thức 
và trách nhiệm của cộng đồng.
f. Quản lý trang thiết bị, cơ sở vật chất 
của thư viện
IoT cho phép bạn đọc sở hữu thiết bị di 
động (bao gồm cả smartphone) khả năng 
tương tác với thư viện và sử dụng các trang 
thiết bị, cơ sở vật chất trong thư viện một 
cách dễ dàng. Thông qua ứng dụng di 
động, thư viện có thể cung cấp cho bạn 
đọc một thẻ thư viện ảo để mượn - trả sách, 
hoặc ra vào thư viện. Có lẽ trong tương lai, 
bạn đọc sẽ trở nên quen thuộc với việc 
nhận được các thông báo cho biết các tài 
liệu mà họ quan tâm hiện có trong thư viện 
hay không [Roullard, 2013]. IoT cũng giúp 
cho việc quản lý và sử dụng các trang thiết 
bị trong thư viện dễ dàng hơn, giúp thư viện 
và người dùng biết được tình trạng của các 
máy in, máy photocopy, máy scan, máy 
tính, máy chiếu, phòng đọc sách, phòng 
multimedia, số lượng chỗ ngồi còn trống và 
thậm chí kiểm soát ánh sáng của đèn hoặc 
máy điều hòa nhiệt độ, từ đó giúp thư viện 
hướng dẫn người dùng lựa chọn các thiết 
bị có sẵn cho nhu cầu của họ. Các ứng 
dụng còn có thể giúp bạn đọc khiếm thị 
hoặc khuyết tật tìm thấy các khu vực có 
các trang thiết bị và tiện ích chuyên biệt 
dành cho họ [Porter, 2014]. Trong tương 
lai, với sự phổ biến của máy in 3D và máy 
in Espresso Book Machine (EBM), IoT sẽ 
góp phần làm nên cuộc cách mạng trong 
in ấn và xuất bản, theo đó, người sử dụng 
có thể tự do lựa chọn cách thức mua mới 
tài liệu hoặc mượn về nhà thông qua việc in 
trực tiếp sách qua máy in 3D hoặc máy in 
EBM mà không cần phải mượn theo cách 
truyền thống.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
35THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
Hình 3. Triển vọng ứng dụng IoT vào hoạt động của các thư viện
Nguồn: Tác giả tổng hợp.
Nhìn chung, mặc dù việc ứng dụng IoT 
vào các hoạt động của thư viện đến nay 
còn hạn chế, nhưng nó mở ra tiềm năng 
to lớn, đồng thời cũng tạo ra thách thức 
không nhỏ, như: đầu tư hạ tầng kỹ thuật - 
công nghệ đồng bộ; an toàn dữ liệu và bảo 
mật thông tin cá nhân; năng lực tài chính; 
năng lực của đội ngũ nhân lực và những 
người dùng tin. Đặc biệt, trong môi trường 
Internet với các thiết bị số thông minh cho 
phép kết nối với mọi vật mà không bị giới 
hạn về không gian, thời gian. Từ lâu, thư 
viện là ngành được hưởng lợi từ sự phát 
triển của các KH&CN mới nổi khi nó được 
ứng dụng vào các hoạt động chuyên môn 
và quản lý, từ đó tạo ra các sản phẩm và 
dịch vụ TT-TV, các môi trường tương tác 
hiện đại cho việc nghiên cứu và học tập, 
đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu sử dụng và 
mang lại lợi ích tích cực cho người dùng. 
Xu hướng này được dự báo sẽ tiếp tục tăng 
lên trong tương lai và khi đó, vai trò của thư 
viện sẽ dần thay thế từ “Internet kết nối vạn 
vật (IoT)” sang “Thư viện kết nối vạn vật” - 
Library of Things (LoT).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ALA, Center for the Future of Libraries 
(2017). “Internet of Things”. Trends, truy 
cập ngày 19/06/2017 tại địa chỉ: 
ala.org/transforminglibraries/future/trends/
IoT
2. ALA, Center for the Future of Libraries 
(2017). “How It’s Developing”.Internet of 
Things, truy cập ngày 19/06/2017 tại địa chỉ: 
future/trends/IoT
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
36 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 4/2018
3. Ali, Hussaini et al. (2010). “Resource Sharing 
among Law Libraries: An Imperative for 
Legal Research and the Administration of 
Justice in Nigeria”. Library Philosophy and 
Practice 2010, truy cập ngày 21/06/2017 
tại địa chỉ: 
edu/~mbolin/ali-owoeye-anasi.htm
4. Ashton, Kevin (2009). “That ‘Internet of 
Things’ Thing: In the real world, things 
matter more than ideas”.RFID Journal, truy 
cập ngày 14/06/2017 tại địa chỉ: 
rfidjournal.com/articles/view?4986
5. Cục Thông tin KH&CN Quốc gia (2017). 
Tổng luận: Cuộc Cách mạng Công nghiệp 
lần thứ 4.
6. Delicato, Flávia C. et al. (2017). “Chapter 
5: The Activity of Resource Allocation”.
Trong Resource Management for Internet 
of Things. NXB Springers, tr. 49.
7. Hahn, Jim (2017). “Chapter 1: The Internet 
of Things: Mobile Technology and Location 
Services in Libraries”. Library Technology 
Reports, tr. 5.
8. Đăng Khoa (2017). “Cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư: Việt Nam đang ‘đứng’ 
đâu?”. Viettimes.vn, truy cập ngày 
13/06/2017 tại địa chỉ: 
cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-viet-
nam-dang-dung-dau-118838.html
9. Meola, Andrew (2016). “What is the Internet 
of Things(IoT)?”. Business Insider, truy cập 
ngày 19/06/2017 tại địa chỉ: 
businessinsider.com/what-is-the-internet-
of-things-definition-2016-8?IR=T
10. Khương Nha - Duy Tín (2017). “Cách mạng 
Công nghiệp 4.0 là gì?”. News.zing.vn, truy 
cập ngày 19/06/2017 tại địa chỉ: https://
news.zing.vn/cach-mang-cong-nghiep-40-
la-gi-post750267.html
11. Oxford Dictionary (2017). “Internet of 
Things”.Oxford Dictionary.com, truy 
cập ngày 16/06/2017 tại địa chỉ: https://
en.oxforddictionaries.com/definit ion/
internet_of_things
12. Panetta, Kasey (2017). “Top Trends in 
the Gartner Hype Cycle for Emerging 
Technologies, 2017”. Gartner.com, 
truy cập ngày 25/04/2018 tại địa chỉ: 
h t t p s : / / w w w . g a r t n e r . c o m /
smarterwithgartner/top-trends-in-the-
ga r t ne r -hype -cyc l e - f o r - emerg ing -
technologies-2017.
13. Pera, Mariam (2014). “Libraries and the 
Internet of Things: OCLC Symposium 
shows benefits, raises questions”.American 
Libraries, truy cập ngày 20/06/2017 tại địa 
chỉ: https://americanlibrariesmagazine.org/
blogs/the-scoop/libraries-and-the-internet-
of-things/
14. Porter, Ned (2014). “Libraries, Beacons, 
and the Internet of Things”.Ned-Porter.
com, truy cập ngày 21/06/2017 tại địa chỉ: 
https://www.ned-potter.com/blog/2526
15. Postscapes (2017). “IoT Technology 
Guidebook”.Postscapes.com, truy cập 
ngày 22/06/2017 tại địa chỉ: https://
www.postscapes.com/internet-of-things-
technologies/#machine
16. Pujar, Shamprasad M. và Satyanarayana, K. V. 
(2015). “Internet of Things and Libraries”. Annals 
of Library and Information Studies, tr. 190.
17. Roullard, Sarah (2013). “The Internet of 
Things in the Library”.Libserra.com, truy 
cập ngày 20/06/2017 tại địa chỉ: http://
archive.is/iviyF#selection-367.0-371.401
18. Schwab, Klaus (2015). “The Fourth 
Industrial Revolution: What It Means and 
How to Respond”.Foreign Affairs, truy cập 
ngày 02/06/2017 tại địa chỉ: https://www.
foreignaffairs.com/articles/2015-12-12/
fourth-industrial-revolution
19. Schwab, Klaus (2016). “The Fourth 
Industrial Revolution”. World Economic 
Forum, tr. 8-9.
20. Techopedia (2017). “Internet of Things”.
Techopedia.com, truy cập ngày 16/06/2017 
tại địa chỉ: https://www.techopedia.com/
definition/28247/internet-of-things-iot
21. TechTarget (2017). “Internet of Things (IoT)”. 
TechTarget.com, truy cập ngày 16/06/2017 
tại địa chỉ: 
techtarget.com/definition/Internet-of-
Things-IoT
22. Wikipedia (2017). “Internet of Things”.
Wikipedia.org, truy cập ngày 19/06/2017 
tại địa chỉ: https://en.wikipedia.org/wiki/
Internet_of_things
23. Wójcik, Magdalena (2015). “Internet of 
Things - Potential for Libraries”. Emeral 
Insight, 34 (2), tr. 411.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 15-3-2018; 
Ngày phản biện đánh giá: 25-5-2018; Ngày 
chấp nhận đăng: 15-6-2018).

File đính kèm:

  • pdfcach_mang_cong_nghiep_4_0_va_vai_tro_cua_internet_ket_noi_va.pdf