Các yếu tố tiên lượng trong ung thư võng mạc (Retinoblastoma)
Retinoblastoma là một loại ung
thư nguyên phát ác tính hay gặp ở trẻ
em với tỷ lệ1/15000 trẻ sinh ra sống.
Tỷ lệ trung bình hằng năm bệnh
Retinoblastoma ở Mỹ được ước tính
là 10,9 phần triệu ở nhóm dưới 5 tuổi
và tỷ lệ này vẫn giữ nguyên từ năm
1974 đến năm 1985. Hầu hết những
đứa trẻ này biểu hiện ánh đồng tử
trắng. Những xét nghiệm như siêu
âm, chụp cắt lớp vi tính và cộng
hưởng từ giúp cho việc chẩn đoán xác
định.
Những năm gần đây có xu
hướng không khoét bỏ nhãn cầu mà
tăng cường các phương pháp điều trị
bảo tồn nhãn cầu như sử dụng xạ trị
liệu, laser quang đông, lạnh đông và
phương pháp nhiệt xuyên đồng tử.
Gần đây hoá trị liệu ngày càng được
sử dụng nhiều như một phương pháp
hoá học với các phương pháp phụ trợ
khác để tránh sử dụng xạ trị liệu từ
bên ngoài và khoét bỏ nhãn cầu. Sự
tiến bộ trong điều trị Retinoblastoma
gần đây đã giảm nguy cơ di căn và
tăng tỷ lệ sống sót ở các nước phát
triển. Tỷ lệ sống 5 năm ở Mỹ, Nhật và
Vương quốc Anh thứ tự là 91%, 93%
và 88%. Tuy nhiên ở các nước đang
3. Điểm báo102
phát triển tỷ lệ tử vong của
Retinoblastoma vẫn cao.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố tiên lượng trong ung thư võng mạc (Retinoblastoma)
101 CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG TRONG UNG THƯ VÕNG MẠC (RETINOBLASTOMA) Arun D.Singh, Carol L. Shield, Jerry A. Journal of Pediatric Ophthalmology and Strabismus 2000, 37(3):134- 141 Người dịch VŨ THỊ BÍCH THUỶ Bệnh viện Mắt TW TRẦN ÁNH DƯƠNG Bệnh viện Việt Nam- Cu Ba, Đồng Hới, Quảng Bình GIỚI THIỆU Retinoblastoma là một loại ung thư nguyên phát ác tính hay gặp ở trẻ em với tỷ lệ1/15000 trẻ sinh ra sống. Tỷ lệ trung bình hằng năm bệnh Retinoblastoma ở Mỹ được ước tính là 10,9 phần triệu ở nhóm dưới 5 tuổi và tỷ lệ này vẫn giữ nguyên từ năm 1974 đến năm 1985. Hầu hết những đứa trẻ này biểu hiện ánh đồng tử trắng. Những xét nghiệm như siêu âm, chụp cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ giúp cho việc chẩn đoán xác định. Những năm gần đây có xu hướng không khoét bỏ nhãn cầu mà tăng cường các phương pháp điều trị bảo tồn nhãn cầu như sử dụng xạ trị liệu, laser quang đông, lạnh đông và phương pháp nhiệt xuyên đồng tử. Gần đây hoá trị liệu ngày càng được sử dụng nhiều như một phương pháp hoá học với các phương pháp phụ trợ khác để tránh sử dụng xạ trị liệu từ bên ngoài và khoét bỏ nhãn cầu. Sự tiến bộ trong điều trị Retinoblastoma gần đây đã giảm nguy cơ di căn và tăng tỷ lệ sống sót ở các nước phát triển. Tỷ lệ sống 5 năm ở Mỹ, Nhật và Vương quốc Anh thứ tự là 91%, 93% và 88%. Tuy nhiên ở các nước đang 3. Điểm báo 102 phát triển tỷ lệ tử vong của Retinoblastoma vẫn cao. Retinoblastoma là rối loạn di truyền nhiễm sắc thể di truyền trội. Xấp xỉ 60% bệnh nhân được xem là tự phát và 40% là di truyền. Trong Retinoblastoma có tính di truyền thì 5% đến 15% có tiền sử gia đình và 25% do đột biến gen thời kỳ phôi thai. Hình thái Retinoblastoma di truyền có xu thế bị hai mắt và xuất hiện sớm hơn tuổi trung bình là 12 tháng. Loại Retinoblastoma tự phát thường một mắt và xuất hiện muộn hơn tuổi trung bình là 24 tháng. Các trường hợp bị cả hai mắt được coi là di truyền và đột biến gen. Retinoblastoma thường di căn trong vòng 1 năm sau khi được chẩn đoán, nếu không thấy di căn sau 5 năm coi như đứa trẻ đó sống. Khả năng sống sót khi Retinoblastoma đã di căn là rất ít và bệnh nhân thường tử vong trong vòng 6 tháng. Tiên lượng liên quan đến lâm sàng và mô bệnh học (bảng dưới) Những yếu tố tiên lượng xấu của Retinoblastoma. Lâm sàng Chẩn đoán muộn (trên 6 tháng) Phẩu thuật nội nhãn trước đó Xạ trị liệu từ bên ngoài Mô bệnh học Xâm nhập hắc mạc Xâm nhập thị thần kinh Xâm nhập quá diện cắt Xâm nhập ổ mắt CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG Yếu tố lâm sàng Chẩn đoán muộn. Một nghiên cứu trên 153 người Brazil có 80 bệnh nhân (52%) được điều trị trong vòng 6 tháng từ khi có triệu chứng khởi phát (chẩn đoán sớm) và 73 bệnh nhân (48%) được điều trị sau 6 tháng (chẩn đoán muộn). Tỷ lệ sống sau 3 năm là 82% ở nhóm được chẩn đoán sớm so với 44% ở nhóm chẩn đoán muộn. Trong nhóm chẩn đoán muộn tiên lượng xấu hơn vì có biểu hiện sự di căn ngoại nhãn. 103 Những phẫu thuật nội nhãn trước đó. Những phương pháp điều trị nội nhãn trước đó như cắt dịch kính qua vùng Pars plana khi đã mắc Retinoblastoma sẽ tạo điều kiện cho sự lan tràn vào ổ mắt và di căn của Retinoblastoma. Genetic Subtype. Hình thái Retinoblastoma có khả năng di truyền là một gợi ý tiên lượng lâu dài có ý nghĩa. Trong một nghiên cứu có quy mô lớn ở Vương quốc Anh tỷ lệ sống trên 3 năm là 88% trong số 431 bệnh nhân được theo dõi đến 17 năm. Một nghiên cứu ở Nhật Bản 1147 ca Retinoblastoma từ một trung tâm quản lý Retinoblastoma quốc gia có tỷ lệ sống 5 năm là 93% đối với 757 ca bị một mắt và 92% cho 390 ca bị cả hai mắt, tuy nhiên tỷ lệ sống được 10 năm chỉ còn 92.3% và 86.7%. Các khối u ác tính thứ phát. Hiện nay người ta thấy rằng trẻ bị Retinoblastoma tử vong do các u ác tính thứ phát nhiều hơn là bản thân Retinoblastoma. Tỷ lệ u ác tính thứ phát trong nhóm di truyền được báo cáo tù 5% đến 90% trong các nghiên cứu với phương pháp và phân tích dữ liệu khác nhau. Trong một báo cáo của Draper và cs tại Vương quốc Anh thấy 384 bệnh nhân, tỷ lệ mắc cộng dồn có u tân ác tính sau 18 năm là 8%. Roatry và cs dùng phương pháp Life table tính toán tỷ lệ này là 18% trong 215 bệnh nhân ở thời điểm 20 năm. Dùng phương pháp phân tích Kaplan - Meier, Mohney và cs ước tính tỷ lệ khối u ác tính thứ phát ở 82 bệnh nhân Retinoblastoma có tính di truyền là 16% ở 25 năm và 30% ở 40 năm. Trong một nghiên cứu chi tiết hơn ở 1604 bệnh nhân Retinoblastoma trong đó có 961 bệnh nhân Retinoblastoma có tính di truyền, tỷ lệ khối u thứ phát sau 50 năm (ước tính theo Kaplan - Meier) ở nhóm có tính di truyền cao hơn 10 lần so với nhóm không di truyền (51% so với 5%). Có nhiều loại khối u ác tính thứ phát và ít nhất có 35 loại khác nhau đã được báo cáo phối hợp với Retinoblastoma. Chủ yếu hay gặo ung thư xương (37%) và ung thư tổ chức phần mềm (7%). U sắc tố da biểu hiện xấp xỉ 7% trong các khối u ác tính thứ phát. Nguy cơ ung thư xương, tổ chức liên kết và phần mềm trong nhóm Retinoblastoma có tính di truyền tăng 400 lần và 100 lần so với dân số. Retinoblastoma ở mắt thứ ba. Sự liên tưởng giữa Retinoblastoma có tính di truyền và u ác tính nội sọ đặc biệt là u tuyến tùng 104 gọi là ung thư mắt thứ ba. Những bệnh nhân Retinoblastoma hai mắt, có ung thư ác tính nội sọ được biết là nguyên nhân hay gặp nhất gây tử vong trong 10 năm đầu cuộc đời. Ước tính là 50% số ca tử vong. Ung thư mắt thứ ba xảy ra 8% tổng số ca Retinoblastoma có tính di truyền, bản chất của khối u nội sọ ác tính có thể thay đổi vị trí và mô bệnh học.Số liệu 106 trẻ đã được phân tích, thời gian trung bình từ khi chẩn đoán Retinoblastoma đến khi u nội sọ là 21 tháng và 75% số ca được chẩn đoán chỉ trong vòng một năm. Liệu pháp xạ trị liệu từ bên ngoài Sự liên quan giữa tia xạ và u ác tính thứ phát rất phức tạp, ít thất có hai tác dụng của tia xạ lên bệnh học khối u ác tính đã được biết đó là tăng rủi ro về ranh giới và hiệu quả khu trú. Hiệu quả của xạ trị liệubị ảnh hưởng bởi lứa tuổi tiếp nhận và liều điều trị. Ảnh hưởng của xạ trị liệu đối với khối u ác tính thứ phát phụ thuộc vào tuổi của trẻ khi đựoc điều trị tia xạvà liều điều trị. Nếu sử dụng xạ trị liệu cho nhóm trẻ dưới một tuổi thì khối u ác tính thứ phát ở nhóm trẻ này là 9% khi 10 tuổi và 34% khi 30 tuổi so với 5% và 22% nhóm trẻ được điều trị tia xạ lớn hơn một tuổi. Hơn nữa ảnh hưởng của xạ trị liệu phụ thuộc vào liều, nguy cơ cao khi sử dụng liều cao hơn 50 Guy. Hoá dược trị liệu. Hoá dược trị liệu là việc sử dụng các phương pháp hoá học cho ung thư nội nhãn tiến triển để giảm khối u sao cho các phương pháp điều trị nhãn khoa tại chỗ có thể áp dụng một phần với các khối u thoái triển. Trong số 160 trẻ có Retinoblastoma được điều trị hoá dược trị liệu không có trường hợp nào ung thư mắt thứ ba. Người ta nghi ngờ rằng hoá dược trị liệu đã đóng vai trò trong việc phòng ngừa sự phát triển u nội sọ, tuy nhiên, hoá dược trị liệu có tác động tích cực và tiêu cực đến sự phát triển của khối u ác tính, do vậy cần phải theo dõi lâu dài. Yếu tố tiên lượng của mô bệnh học. Nhiều nghiên cứu đánh giá yếu tố tiên lượng về mô bệnh học bao gồm kích thước khối u, kiểu hình phát triển,sự biệt hoá của u, sự lan rộng của u ra hắc mạc, thị thần kinh, tiền phòng và tổ chức thượng củng mạc. Có hai chỉ số của u là kích thước và kiểu hình phát triển (từ võng mạc phát triển vào dịch kính và từ võng mạc phát triển ra phía hắc mạc) không 105 ảnh hưởng một cách có ý nghĩa đối với tiên lượng toàn thân. Sự phân loại cổ điển của Reese - Ellsworth được sử dụng để phân loại từ giai đoạn I đến giai đoạn V. Sự phân loại dựa trên số lượng, kích thước và vị trí khối u. Sự phân loại giai đoạn Retinoblastoma của Reese - Ellsworth cho thấy tiên lượng về bảo tồn nhãn cầu hơn là toàn thân do bệnh di căn. Nghiên cứu hồi cứu 297 ca khoét bỏ nhãn cấu và mô học cho thấy Retinoblastoma một mắt, từ võng mạc phát triển vào dịch kính thường nhiều hơn (181 ca), từ võng mạc phát triển ra phía hắc mạc chiếm 116 ca. Lan ra hắc mạc. Liệu sự lan rộng của khối u vào hắc mạc có phải là một yếu tố tiên lượng xấu hay không và đã có ý những ý kiến đối lập. Quan sát mô bệnh học 74 bệnh nhân bị Retinoblastoma đã có biểu hiện xâm lấn hắc mạc thì 100% ca sống sót và củng mạc, mống mắt, thị thần kinh không bị ảnh hưởng. Phân tích cho thấy sự xâm lấn của u vào hắc mạc không có sự tương quan một cách có ý nghĩa với kết quả tử vong. Trong một nghiên cứu chi tiết khả năng di căn của Retinoblastoma xâm lấn vào hắc mạc, nhiều tác giả kết luận là sự lan tràn của u ra hắc mạc là nguy cơ di căn đặc biệt khi nó phối hợp với bất kỳ mức độ nào sự lan tràn của u vào thị thần kinh. Dùng phương pháp phân tích đa biến đã ủng hộ quan điểm là sự lan tràn của u vào hắc mạc làm tăng nguy cơ di căn của Retinoblastoma. Di căn thị thần kinh. Di căn vào thị thần kinh là yếu tố tiên lượng xấu cho bệnh nhân Retinoblastoma. Thực tế phân tích thống kê đa biến cho thấy những phát hiện về mô bệnh học bởi sự xâm lấn của tế bào ung thư vào thị thần kinh là một yếu tố dự đoán cao nhất cho sự tử vong do Retinoblastoma. Từ năm 1960 tỷ lệ và mức độ di căn vào thị thần kinh có giảm do khả năng chẩn đoán sớm ngày càng nhiều. Di căn thị thần kinh thể hiện ở một phần ba số nhãn cầu bị khoét và tương quan với sự di căn đến hắc mạc và củng mạc. Sự lan rộng vào thị thần kinh được chia ra làm nhiều mức như: trước lá sàng, lá sàng và sau lá sàng và trên diện cắt ngang. Sự lan vào thị thần kinh trước lá sàng là hay gặp nhất và chiếm một nữa số ca lan vào thị thần kinh. Di căn vào lá sàng và sau lá sàng chiếm một nửa còn lại. Sự lan vào sau lá sàng là một yếu tố tiên lượng xấu và u khi lan quá đướng cắt ngang là yếu tố tiên lượng xấu nhất, Khi nghiên cứu 361 ca, tỷ lệ 106 khác nhau về di căn là 9, khi thị thần kinh bị ảnh hưởng đến diện cắt so với 4 ca khi diện cắt chưa bị ảnh hưởng. Trong một nghiên cứu khác ở 172 ca Retinoblastoma, tỷ lệ sống sau 3 năm là 97% khi thị thần kinh không bị ảnh hưởng so với 55% khi sự di căn đã đến diện cắt. Tiên lượng dè dặt nếu sự di căn đã ra sau lá sàng. Sự di căn ra thị thần kinh được dự đoán bằng những dấu hiệu Retinoblastoma với Glôcôm thứ phát và xuất huyết dịch kính. Trong Retinoblastoma, khi có chỉ định khoét bỏ nhãn cầu bắt buộc hải cắt được thị thần kinh dài từ 10 đến 15mm và như vậy diện cắt đã nằm ngoài phần u xâm lấn thị thần kinh. Di căn ổ mắt. Sự di căn ra thượng củng mạc và ổ mắt là yếu tố tiên lượng xấu nhất về sự tử vong. Trong nghiên cứu hồi cứu gần đây ở 46 bệnh nhân được điều trị hoá dược trị liệu dự phòng (nhóm điều trị) ít nhất trong 6 tháng và 34 bệnh nhân không được điều trị dự phòng bằng hoá trị liệu. Một sự khác biệt có ý nghĩa (p = 0,01) về tỷ lệ di căn được tìm thấy giữa nhóm được điều trị (2/46 = 4%) và không điều trị (8/34 = 24%). Kết quả này chứng minh hiệu quả của phương pháp điều trị dự phòng làm giảm nguy cơ di căn trong nhóm Retinoblastoma có nguy cơ cao. KẾT LUẬN Những bệnh nhân Retinoblastoma do đột biến gen ở thời kỳ phôi thai có nguy cơ phát triển thành ung thư tuyến tùng và các khối u ác tính thứ phát khác. Việc sử dụng xạ trị liệu làm tăng nguy cơ phát triển u ác tính thứ phát. Những nghiên cứu lâm sàng không có nhóm chứng gợi ý việc sử dụng hoá dược trị liệu dự phòng đối với bệnh nhân Retinoblastoma có nguy cơ cao, có khả năng làm giảm di căn.
File đính kèm:
- cac_yeu_to_tien_luong_trong_ung_thu_vong_mac_retinoblastoma.pdf