Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường Đại học tại thành phố Hồ Chí Minh

Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh

viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), từ đó đề xuất

các hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên. Mô hình

nghiên cứu đề xuất kế thừa mô hình nghiên cứu của Ambad và Damit (2016). Dữ liệu nghiên cứu

được thu thập từ 430 sinh viên năm cuối, khối ngành kinh tế của 10 trường Đại học tại TP.HCM có

tỷ lệ sinh viên khởi nghiệp cao sau khi tốt nghiệp và được kiểm định bằng phân tích hồi quy tuyến

tính bội. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của

sinh viên khối ngành kinh tế các trường Đại học tại TP.HCM (được sắp xếp theo trình tự mức độ

quan trọng từ cao xuống thấp) bao gồm: Giáo dục kinh doanh (GDKD); Chuẩn chủ quan (CCQA);

Môi trường khởi nghiệp (MTKN); Đặc điểm tính cách (DDTC) và Nhận thức tính khả thi (NTKT).

pdf 12 trang kimcuc 23620
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường Đại học tại thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường Đại học tại thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế các trường Đại học tại thành phố Hồ Chí Minh
55
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH KHỞI NGHIỆP 
KINH DOANH CỦA SINH VIÊN KHỐI NGÀNH KINH TẾ 
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
FACTORS AFFECT THE START-UP INTENTION OF UNIVERSITY 
STUDENTS IN ECONOMICS AREA AT HO CHI MINH CITY
Nguyễn Xuân Hiệp, Trần Hà Thanh, Nguyễn Thị Yến Nhi1
Ngày nhận bài: 11/11/2018 Ngày chấp nhận đăng: 22/11/2018 Ngày đăng: 05/6/2019
Tóm tắt
Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh 
viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), từ đó đề xuất 
các hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên. Mô hình 
nghiên cứu đề xuất kế thừa mô hình nghiên cứu của Ambad và Damit (2016). Dữ liệu nghiên cứu 
được thu thập từ 430 sinh viên năm cuối, khối ngành kinh tế của 10 trường Đại học tại TP.HCM có 
tỷ lệ sinh viên khởi nghiệp cao sau khi tốt nghiệp và được kiểm định bằng phân tích hồi quy tuyến 
tính bội. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của 
sinh viên khối ngành kinh tế các trường Đại học tại TP.HCM (được sắp xếp theo trình tự mức độ 
quan trọng từ cao xuống thấp) bao gồm: Giáo dục kinh doanh (GDKD); Chuẩn chủ quan (CCQA); 
Môi trường khởi nghiệp (MTKN); Đặc điểm tính cách (DDTC) và Nhận thức tính khả thi (NTKT).
Từ khóa: Ý định khởi nghiệp kinh doanh, sinh viên khối ngành kinh tế, môi trường khởi nghiệp.
Abstract
This study aims to identify the factors these affect the start-up intention of university student in 
economics area at Ho Chi Minh City. From there, policy implications are introduced in order 
to promote the entrepreneurial spirit of the students. The proposed model inherits the research 
model of Ambad and Damit (2016). The research data was collected from 430 economic final-year 
students from 10 universities where have the highest rate of start-up students in Ho Chi Minh area 
and and it is tested by Multiple Linear Regression Analysis Model. The results show that the factors 
affecting the intention of startups of university student in economics area at Ho Chi Minh City 
(arranged in order of importance from highest to lowest) include: Business education (GDKD); 
Subjective standards (CCQA); Startup Environment (MTKN); Personality Characteristics (DDTC) 
and Perception of Feasibility (NTKT),
Keywords: Start-up intention, students in economics, startup environment.
__________________________________________
1 Trường Đại học Tài chính – Marketing
56
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
2. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện dựa vào:
- Thuyết hành động hợp lý (TRA) của Ajzen 
và Fishbein (1975); Lý thuyết về hành vi dự 
định (TPB) – Ajzen (1991); Mô hình sự kiện 
khởi nghiệp của Shapero và Sokol (1982); Mô 
hình cấu trúc ý định kinh doanh của Luthje và 
Franke (2003).
- Các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng 
đến ý định khởi nghiệp, bao gồm: nghiên cứu 
của Autio và cộng sự (2001) về mô hình ý định 
kinh doanh giữa sinh viên châu Âu và Bắc Mỹ; 
nghiên cứu của Lĩnán và cộng sự (2011) về 
các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp 
của sinh viên Tây Ban Nha; nghiên cứu của 
Karali (2013) về mô hình tác động của giáo 
dục kinh doanh đến ý định kinh doanh; nghiên 
cứu của Ambad và Dami (2016) về các yếu tố 
ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp của sinh 
viên tại Malaysia; nghiên cứu của Phan Anh Tú 
và Giang Thị Cẩm Tiên (2015) về ý định khởi 
nghiệp của sinh viên Đại học Cần Thơ; nghiên 
cứu của Đỗ Thị Hoa Liên (2016) về các nhân tố 
ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh 
của sinh viên ngành quản trị kinh doanh trường 
Đại học Lao động – Xã hội.
Tổng kết các lý thuyết về ý định hành vi 
và các nghiên cứu trên đây cho thấy, mô hình 
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định 
khởi nghiệp kinh doanh đều dựa vào thuyết 
hành vi hoạch định (TPB) của Ajzen (1991). 
Vì thế, phần lớn các nghiên cứu đều xác định 
các yếu tố chính ảnh hưởng đến ý định khởi 
nghiệp kinh doanh của sinh viên bao gồm: (1) 
Thái độ đối với hành vi khởi nghiệp; (2) Chuẩn 
chủ quan; (3) Nhận thức tính khả thi. Trong đó, 
1. Đặt vấn đề
Ngày nay, kinh doanh trở thành nhân tố quyết 
định sự phát triển đối với tất cả các quốc gia. Vì 
thế, một trong những chiến lược tốt nhất để phát 
triển kinh tế của đất nước và duy trì khả năng 
cạnh tranh trước xu hướng toàn cầu hóa ngày 
càng gia tăng là phát triển tinh thần kinh doanh 
(Schaper và Volery, 2004; Venkatachalam và 
Waqif, 2005). Trong đó, nhiều kết quả nghiên 
cứu (ví dụ: Tam, 2009; Ooi và cộng sự, 2011) 
đã chứng minh giáo dục kinh doanh có tầm 
quan trọng trong việc khơi gợi cảm hứng cho 
sinh viên hướng đến kinh doanh và các tổ chức 
giáo dục bậc cao là các cơ sở phát triển và khai 
thác đội ngũ doanh nhân tiềm năng.
Tại Việt Nam, tinh thần doanh nhân và khởi 
nghiệp được nhân lên trong những năm gần đây, 
sau khi Chính phủ phát động phong trào khởi 
nghiệp và lấy năm 2016 là năm quốc gia khởi 
nghiệp. Nhiều trường đại học đã đưa giáo dục 
khởi nghiệp vào chương trình đào tạo, thậm chí 
xây dựng thành một ngành, chuyên ngành đào 
tạo. Tuy nhiên, tại TP.HCM - Trung tâm kinh tế 
- thương mại và khoa học – công nghệ lớn nhất 
của cả nước, với hơn 80 trường đại học, cao 
đẳng và khoảng gần một triệu sinh viên, nhưng 
số lượng và tỷ lệ sinh viên sau tốt nghiệp khởi 
nghiệp còn rất thấp, ngay cả đối tượng sinh viên 
khối ngành kinh tế. Đây chính là lý do để tác 
giả thực hiện nghiên cứu này, nhằm xác định 
các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp 
kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế 
các trường Đại học tại TP.HCM, từ đó đề xuất 
các hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy tinh thần 
khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên trong giai 
đoạn hiện nay. 
57
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
tác nhân quan trọng góp phần hình thành và 
thúc đẩy ý định khởi nghiệp kinh doanh của 
sinh viên. Vì, với đối tượng sinh viên, ngoài 
những kiến thức lý thuyết được trang bị trong 
nhà trường, cùng ý chí và khát vọng thành đạt 
của tuổi trẻ, thì những điều kiện khác để khởi 
nghiệp kinh doanh như: sự hỗ trợ về nguồn lực 
tài chính và những trải nghiệm từ thực tiễn hoạt 
động quản lý, điều hành doanh nghiệp, cũng 
như khả năng thích ứng với những biến động 
của thị trường, dường như còn là khoảng trắng. 
Nghĩa là, họ rất cần sự hỗ trợ đắc lực từ môi 
trường khởi nghiệp, mà theo Grimaldi và Gradi 
(2005); Radas và Bozic (2009) đó là việc tiếp 
cận các nguồn lực tài chính; các chính sách hỗ 
trợ của Chính phủ; sự hỗ trợ tư vấn, đào tạo về 
khởi nghiệp từ các tổ chức phi Chính phủ. Trên 
cơ sở đó, nhóm tác giả đề xuất mô hình nghiên 
cứu gồm 05 yếu tố, kế thừa từ mô hình nghiên 
cứu của Lĩnán và cộng sự (2011), Ambad và 
Damit (2016), trong đó yếu tố cơ chế, chính 
sách của Chính phủ được thay thế bằng yếu tố 
môi trường khởi nghiệp. 
thái độ đối với hành vi khởi nghiệp, theo Luthje 
và Franke (2003) được giải thích bởi: nhu cầu 
thành đạt; xu hướng chấp nhận rủi ro và quỹ 
tích kiểm soát nội bộ (gọi chung là đặc điểm 
tính cách); hoặc theo Karali (2013) là chương 
trình giáo dục kinh doanh.
Ngoài các yếu tố trên, theo Luthje và Franke 
(2003), ý định khởi nghiệp kinh doanh còn chịu 
ảnh hưởng của các tác nhân từ bên ngoài (gọi 
là hỗ trợ nhận thức) nhằm củng cố và gia tăng 
ý định khởi nghiệp kinh doanh. Nghiên cứu 
của Grimaldi và Gradi (2005); Radas và Bozic 
(2009) cho rằng, môi trường khởi nghiệp có 
ảnh hưởng tích cực đến kết quả kinh doanh của 
doanh nghiệp vừa khởi nghiệp. Radas và Bozic 
(2009); Ambad và Damit (2016) cho thấy, các 
chính sách của Chính phủ hỗ trợ các nhà khởi 
nghiệp kinh doanh năng động, cũng như khuyến 
khích các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu sau 
khi khởi nghiệp.
Kết quả nghiên cứu định tính khẳng định, 
sự hỗ trợ từ phía môi trường khởi nghiệp là 
Đặc điểm tính cách
Chuẩn chủ quan
Ý định khởi 
nghiệp kinh doanh 
của sinh viên
Nhận thức tính khả thi
Đặc điểm 
nhân khẩu học
Giáo dục kinh doanh
Môi trường khởi nghiệp
Hình 1. Mô hình nghiên cứu của nhóm tác giả
Trong đó:
- Đặc điểm tính cách: nói lên tính cách của 
doanh nhân. Theo Luthje và Franke (2003), 
đặc điểm tính cách ảnh hưởng đến ý định khởi 
nghiệp trên 3 khía cạnh: (1) Nhu cầu thành đạt 
phản ánh mong muốn thành đạt của cá nhân; (2) 
Quỹ tích kiểm soát nội bộ thể hiện mức độ tự tin 
và quyền lực của cá nhân trong việc kiểm soát 
hành vi kinh doanh và kết quả của hành vi đó; 
(3) Chấp nhận rủi ro thể hiện sự sẵn sàng chấp 
nhận những tổn thất do rủi ro gây ra trong quá 
trình khởi nghiệp. 
58
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
- Giáo dục kinh doanh (giáo dục tinh thần 
kinh doanh): là những nội dung giáo dục liên 
quan đến chương trình, các bài giảng ngoại khóa, 
hoặc các khóa học cung cấp cho sinh viên những 
kiến thức, kỹ năng và thái độ để theo đuổi sự 
nghiệp kinh doanh (Ambad và Damit, 2016). 
Lĩnán và cộng sự (2011); Ambad và Damit 
(2016) đã kiểm chứng giáo dục kinh doanh có 
mối liện hệ tích cực đến ý định kinh doanh; giáo 
dục tinh thần kinh doanh là một phương tiện 
hiệu quả trong việc gây cảm hứng sinh viên có 
ý định khởi nghiệp kinh doanh.
H4: Giáo dục kinh doanh ảnh hưởng cùng 
chiều với ý định khởi nghiệp kinh doanh của 
sinh viên.
- Môi trường khởi nghiệp: là tập hợp các 
yếu tố quy định khả năng tiếp cận các nguồn 
lực tài chính; các chính sách hỗ trợ của Chính 
phủ; sự hỗ trợ tư vấn, đào tạo về khởi nghiệp từ 
các tổ chức phi Chính phủ; sự hỗ trợ tiếp cận thị 
trường, cùng các chuẩn mực văn hóa thúc đẩy 
ý định khởi nghiệp (Grimaldi và Gradi, 2005; 
Radas và Bozic, 2009).
Radas và Bozic (2009); Ambad và Damit 
(2016) cho thấy các chính sách của Chính phủ 
hỗ trợ cho việc xuất hiện các nhà khởi nghiệp 
kinh doanh năng động, cũng như khuyến khích 
các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu sau khi 
khởi nghiệp
H5: Môi trường khởi nghiệp ảnh hưởng 
cùng chiều với ý định khởi nghiệp kinh doanh 
của sinh viên.
Ngoài 05 các yếu tố trên đây, Autio và cộng 
sự (2001); Yordanova và Tarrazon (2010) đã 
kiểm chứng có sự khác biệt về ý định khởi 
nghiệp kinh doanh theo các đặc điểm nhân khẩu 
học (giới tính, tuổi, trình độ học vấn, gia đình, 
khóa học kinh doanh, v.v.). 
Nghiên cứu của Luthje và Franke (2003); 
Lĩnán và cộng sự (2011); Ambad và Damit 
(2016) đều tìm thấy, đặc điểm tính cách có ảnh 
hưởng trực tiếp và tích cực đến ý định tham gia 
khởi nghiệp kinh doanh.
H1: Đặc điểm tính cách ảnh hưởng cùng 
chiều đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của 
sinh viên. 
- Chuẩn chủ quan: là nhận thức về những 
áp lực từ phía xã hội thể hiện sự ủng hộ, hay 
phản đối người có ý định thực hiện hành vi. Nó 
bao gồm các ảnh hưởng bên trong là ý kiến từ 
gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và các ảnh hưởng 
bên ngoài là các trào lưu xã hội.
Các nghiên cứu của Karali (2013; Lĩnán và 
cộng sự (2011); Ambad và Damit (2016) tìm 
thấy, chuẩn chủ quan có ảnh hưởng trực tiếp và 
tích cực đến ý định tham gia khởi nghiệp kinh 
doanh. 
H2: Chuẩn chủ quan ảnh hưởng cùng chiều 
đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên.
- Nhận thức tính khả thi: phản ánh nhận 
thức của cá nhân về mức độ dễ dàng hay khó 
khăn; có bị kiểm soát, hạn chế hay không khi 
thực hiện hành vi (Ajzen 1991, tr. 183); là mức 
độ tự tin của một cá nhân về khả năng thực 
hiện các hành vi (Ajzen, 2006). Trong nghiên 
cứu này là cảm nhận của cá nhân về khả năng 
khởi nghiệp.
 Karali (2013); Ambad và Damit (2016) cho 
thấy nhận thức tính khả thi có ảnh hưởng trực 
tiếp đến ý định hành vi. Autio và cộng sự (2001) 
chứng minh nhận thức tính khả thi nổi lên như 
là yếu tố quyết định quan trọng nhất ảnh hưởng 
tích cực đến ý định kinh doanh. 
H3: Nhận thức tính khả thi ảnh hưởng cùng 
chiều đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của 
sinh viên. 
59
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
viên được đề xuất trên đây và thang đo các 
yếu tố này. 
- Nghiên cứu chính thức là một nghiên cứu 
định lượng nhằm đánh giá độ tin cậy và giá trị 
của thang đo các khái niệm nghiên cứu; kiểm 
định mô hình lý thuyết và các giả thuyết nghiên 
cứu; kiểm định sự khác biệt về các yếu tố ảnh 
hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của 
sinh viên theo các đặc điểm nhân khẩu xã hội 
học của sinh viên. Kích thước mẫu là 430, được 
chọn bằng phương pháp lấy mẫu thuận tiện đối 
với sinh viên đang học năm cuối, khối ngành 
kinh tế của 10 trường đại học tại TP.HCM có số 
lượng và tỷ lệ sinh viên khởi nghiệp cao trong 
những năm đầu sau khi tốt nghiệp (bảng 1). 
H6: Có sự khác nhau về ý định khởi nghiệp 
của sinh viên theo các đặc điểm nhân khẩu học 
của sinh viên.
3. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu gồm hai giai đoạn là 
nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức:
- Nghiên cứu sơ bộ là một nghiên cứu định 
tính được thực hiện bằng kỹ thuật thảo luận 
nhóm tập trung (gồm 2 nhóm; 01 nhóm cựu 
sinh viên đã khởi nghiệp năm đầu sau khi tốt 
nghiệp; 01 nhóm sinh viên năm cuối có ý định 
khởi nghiệp kinh doanh, mỗi nhóm 10 người), 
để thẩm định mô hình các yếu tố ảnh hưởng 
đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh 
Bảng 1. Thông tin mẫu nghiên cứu
Cơ cấu mẫu nghiên cứu
Số lượng
(người)
Tỷ lệ 
(%)
Các Trường 
ĐH công lập
Trường ĐH Kinh tế TP.HCM 66 15,3
Trường ĐH Kinh tế - Luật 65 15,1
Trường ĐH Tài chính - Marketing 52 12,1
Trường ĐH Ngoại Thương TP.HCM 51 11,9
Trường ĐH Ngân hàng. TP.HCM 41 9,5
Các Trường 
ĐH dân lập
Trường ĐH Công nghệ TP.HCM 32 7,4
Trường ĐH Hoa Sen 31 7,2
Trường ĐH Văn Lang 30 7,0
Trường ĐH FPT 31 7,2
Trường ĐH Văn Hiến 31 7,2
430 100,0
Giới tính
Nữ 274 63,7
Nam 156 36,3
Hộ khẩu 
thường trú
Tại các thành phố 180 41,9
Các địa phương khác 250 58,1
Nghề nghiệp 
của bố mẹ
Chủ cơ sở kinh doanh 142 33,0
Nghề nghiệp khác 288 67,0
 Tổng cộng 430 100,0
(Nguồn: Kết quả thu thập và phân tích dữ liệu của tác giả)
60
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
nghiệp kinh doanh của sinh viên, đồng thời phát 
triển thang đo các khái niệm nghiên cứu (thang 
đo Likert 7 bậc từ 1÷7; 1 là hoàn toàn không 
đồng ý; 7 là hoàn toàn đồng ý) gồm 28 biến 
quan sát (Bảng 2).
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Kết quả nghiên cứu định tính khẳng định, 
các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp 
kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế 
được nhóm tác giả đề xuất trên đây (Hình 1) là 
những yếu tố chính ảnh hưởng đến ý định khởi 
Bảng 2: Thang đo các khái niệm nghiên cứu
Khái niệm nghiên cứu Ký hiệu Số biến quan sát Nguồn
Đặc điểm tính cách DDTC 5 Lĩnán và cộng sự (2011) 
Chuẩn chủ quan CCQA 4 Lĩnán và cộng sự (2011) 
Nhận thức tính khả thi NTKT 5
Autio và cộng sự (2001); Ambad và 
Damit (2016)
Giáo dục kinh doanh GDKD 5
của Lĩnán và cộng sự (2011) và Ambad 
và Damit (2016)
Môi trường khởi nghiệp MTKN 5
Grimaldi và Gradi (2005); Radas và 
Bozic (2009); Ambad và Damit (2016)
Ý định khởi nghiệp YDKN 4
Lĩnán và cộng sự (2011); Ambad và 
Damit (2016)
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu của tác giả)
Kết quả Cronbach’s alpha, sau khi loại biến 
NTKT5 (Bạn có đủ khả năng trở thành một 
doanh nhân thành đạt) của thang đo Nhận thức 
tính khả thi có tương quan biến tổng (= 0,282) 
không đạt yêu cầu ( > 0,3), thang đo các khái 
niệm nghiên cứu đều đạt độ tin cậy (> 0,6).
Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) 
các biến độc lập và biến phụ thuộc bằng phương 
pháp trích Principal components và phép quay 
Varimax cho thấy:
- Sau khi loại biến CCQA4 (Nhà nước có 
các chính sách khuyến khích sinh viên khởi 
nghiệp) của thang đo yếu tố Chuẩn chủ quan 
(có hệ số tải nhân tố = 0,440 < 0,5 và chênh 
lệch hệ số nhân tố < 0,3 (0,440 - 0,362), 22 biến 
quan sát (còn lại) đo lường 5 yếu tố ảnh hưởng 
đến ý định khởi nghiệp được rút trích vào 05 
nhân tố nguyên gốc với hệ số KMO = 0,919 và 
Sig. = 0,000; phương sai trích = 63,146%, tại 
Eigenvalue = 1,112, đồng thời tất cả các biến 
đều có hệ số tải nhân tố đạt yêu cầu (> 0,5). 
- 4 biến quan sát của thang đo biến phụ 
thuộc (ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh 
viên) được rút trích vào cùng một nhân tố với 
hệ số KMO = 0,822 và Sig = 0,000; phương sai 
trích = 74,896%, tại Eigenvalue = 2,996, đồng 
thời tất cả biến đều có hệ số tải nhân tố đạt yêu 
cầu (> 0,5). Chứng tỏ, EFA các biến độc lập và 
biến phụ thuộc là phù hợp và có thể sử dụng kết 
quả này cho phân tích hồi qui ở bước tiếp theo.
Kết quả phân tích hồi qui thu được R2 điều 
chỉnh = 0,606; giá trị kiểm định F = 90,733 
với Sig = 0,000; các hệ số hồi quy B và Beta 
đều > 0, các giá trị kiểm định t đều có ý nghĩa 
61
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
YDKN = -1,173 + 0,205*DDTC 
 + 0,254*CCQA + 0,170*NTKT 
 + 0,336*GDKD + 0,276*MTKN
- Mức độ quan trọng của các yếu tố ảnh 
hưởng được sắp xếp theo thứ tự từ cao xuống 
thấp bao gồm: Giáo dục kinh doanh (GDKD); 
Chuẩn chủ quan (CCCQ); Môi trường khởi 
nghiệp (MTKN); Đặc điểm tính cách (DDTC) 
và Nhận thức tính khả thi (NTKT).
thống kê (bảng 3); kết quả kiểm tra các vi phạm 
giả định của mô hình hồi qui đều không bị vi 
phạm. Chứng tỏ:
- Mô hình hồi quy được dự đoán phù hợp 
với dữ liệu thị trường và giải thích được 60,6% 
sự biến thiên của ý định khởi nghiệp kinh doanh 
của sinh viên.
- Các giả thuyết H1, H2, H3, H4, H5 được 
chấp nhận và phương trình hồi quy có dạng:
Bảng 2. Các thông số của mô hình hồi qui
Mô
hình
Hệ số hồi qui
chưa chuẩn hóa
Hệ số hồi 
qui chuẩn 
hóa
Giá trị
kiểm
định t
Mức
ý
nghĩa
Thống kê đa cộng tuyến
B
Độ lệch chuẩn 
của sai số
Beta
Độ chấp 
nhận
Hệ số phóng đại 
phương sai (VIF)
(Constant) -1.173 0,257 -4,566 0,000
DDTC 0,205 0,050 0,163 4,058 0,000 0,568 1.,761
CCQA 0,254 0,043 0,225 5,940 0,000 0,638 1,566
NTKT 0,170 0,042 0,158 4,058 0,000 0,602 1,661
GDKD 0,336 0,046 0,284 7,289 0,000 0,603 1,659
MTKN 0,276 0,056 0,202 4,967 0,000 0,555 1,803
(Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của tác giả)
Kết quả kiểm định chưa tìm thấy sự khác 
biệt về ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh 
viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại 
TP.HCM theo các đặc điểm: loại hình trường đại 
học; giới tính; hộ khẩu thường trú; nghề nghiệp 
của bố mẹ sinh viên. Nghĩa là, giả thuyết H6 
(có sự khác biệt về ý định khởi nghiệp của sinh 
viên khối ngành kinh tế các trường đại học tại 
TP.HCM theo các đặc điểm nhân khẩu học của 
sinh viên bị bác bỏ.
Như vậy, kết quả nghiên cứu này tương đồng 
với nghiên cứu của Lĩnán và cộng sự (2011), 
nhưng bổ sung yếu tố môi trường khởi nghiệp; 
tương đồng với nghiên cứu Ambad và Damit 
(2016), trong đó yếu tố cơ chế, chính sách của 
Chính phủ được thay thế bằng môi trường khởi 
nghiệp. Yếu tố Giáo dục kinh doanh (GDKD); 
Chuẩn chủ quan (CCQA) có ảnh hưởng mạnh 
đến ý định khởi nghiệp của sinh viên là tương 
đồng với nghiên cứu của Lĩnán và cộng sự 
(2011), Ambad và Damit (2016); Phan Anh Tú 
và Giang Thị Cẩm Tiên (2015); Đỗ Thị Hoa 
Liên (2016). Yếu tố môi trường khởi nghiệp có 
ảnh hưởng mạnh đến ý định khởi nghiệp kinh 
doanh của sinh viên khối ngành kinh tế là tương 
đồng với nghiên cứu của Grimaldi và Gradi 
(2005); Radas và Bozic (2009). Nghiên cứu này 
chưa tìm thấy sự khác biệt về ý định khởi nghiệp 
của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại 
học tại TP.HCM theo các đặc điểm nhân khẩu 
62
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
Đặc điểm tính cách (DDTC) và Nhận thức tính 
khả thi (NTKT). Tuy nhiên, mô hình nghiên 
cứu chỉ giải thích được 60,6% biến thiên của 
ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên. 
Chứng tỏ, khả năng còn có những yếu tố khác 
cũng tham gia giải thích ý định khởi nghiệp 
kinh doanh của sinh viên nhưng chưa được cô 
đọng trong mô hình nghiên cứu.
Từ kết quả này, để thúc đẩy tinh thần khởi 
nghiệp kinh doanh của sinh viên khối ngành 
kinh tế các trường đại học tại TP.HCM trong 
giai đoạn hiện nay, các nhà hoạch định chính 
sách và các trường đại học cần tập trung vào các 
hàm ý chính sách và quản trị sau đây.
Một là, nâng cao vai trò và chất lượng 
giáo dục kinh doanh trong các trường đại học 
bằng cách:
- Đưa các khóa học doanh nhân vào chương 
trình bắt buộc của trường đại học đào tạo khối 
ngành kinh tế, đồng thời gia tăng thời lượng và 
nâng cao chất lượng chương trình giáo dục kinh 
doanh trong các trường đại học.
- Xác lập danh mục, mã ngành, chuyên 
ngành quản trị khởi nghiệp trong các trường đại 
học khối ngành kinh tế. Trong đó, chương trình 
Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại chưa có sự 
tương thích giữa mức độ quan trọng của các yếu 
tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh 
của sinh viên khối ngành kinh tế các trường đại 
học tại TP.HCM và giá trị trung bình của chúng. 
Đó là các yếu tố có ảnh hưởng mạnh đến ý định 
khởi nghiệp kinh doanh lại chưa được sinh viên 
đánh giá cao và ngược lại (bảng 4). Chứng tỏ 
các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp 
kinh doanh của sinh viên khối ngành kinh tế 
các trường đại học tại TP.HCM chưa được phát 
triển dựa trên cơ sở khoa học của chúng. 
5. Kết luận và hàm ý chính sách, quản trị
Mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng 
đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh 
viên khối ngành kinh tế các trường đại học 
tại TP.HCM được đề xuất kế thừa từ mô hình 
nghiên cứu của Lĩnán và cộng sự (2011), 
Ambad và Damit (2016). Kết quả nghiên cứu 
cho thấy, mô hình kiểm định phù hợp với mô 
hình nghiên cứu đề xuất, trong đó mức độ quan 
trọng của các yếu tố ảnh hưởng được sắp xếp 
theo thứ tự từ cao xuống thấp bao gồm: Giáo 
dục kinh doanh (GDKD); Chuẩn chủ quan 
(CCCQ); Môi trường khởi nghiệp (MTKN); 
Bảng 4. So sánh mức độ ảnh hưởng và giá trị trung bình của các yếu tố 
ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên
Nhân tố
Mức độ quan 
trọng (Beta)
Giá trị 
trung bình
Giá trị có nhiều lựa 
chọn nhất (Mod)
Độ lệch 
chuẩn
Giáo dục kinh doanh 0,284 4,632 5 0,83199
Chuẩn chủ quan 0,225 4,748 5 0,87074
Môi trường khởi nghiệp 0,202 5,423 6 0,71984
Đặc điểm tính cách 0,163 5,535 6 0,78399
Nhận thức tính khả thi 0,158 5,249 5 0,91558
(Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của tác giả)
xã hội học là tương đồng với Ambad và Damit 
(2016); Đỗ Thị Hoa Liên (2016). Tất cả những 
sự so sánh này, chứng tỏ kết quả nghiên cứu này 
đáng tin cậy.
63
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
khích và hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp như cấp 
tín dụng lãi suất ưu đãi; chính sách miễn, giảm 
thuế thu nhập doanh nghiệp cho sinh viên khởi 
nghiệp trong những năm đầu; xây dựng các 
chương trình dự án kinh doanh cho sinh viên 
khởi nghiệp, v.v.
- Trung tâm Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp 
(BSSC) của Thành Đoàn TP.HCM cần phát huy 
hiệu quả của diễn đàn: “Không gian sinh viên 
khởi nghiệp” để hướng đến hình thành cộng 
đồng sinh viên khởi nghiệp cùng nhau hợp tác, 
chia sẻ, hỗ trợ và phát triển.
- Các trường đại học phải đóng vai trò quyết 
định trong việc tuyên truyền, giáo dục, trang bị 
kiến thức, kỹ năng và trải nghiệm để sinh viên 
sẵn sàng khởi nghiệp. 
Bốn là, phát huy nỗ lực và bản lĩnh khởi 
nghiệp của sinh viên, các trường đại học kết hợp 
với cơ quan truyền thông tăng cường công tác 
giáo dục, tuyền truyền sinh viên nhận thức vai 
trò của tinh thần khởi nghiệp; những điều kiện 
để biến ý tưởng khởi nghiệp thành hiện thực, 
những rủi ro có thể phải đối mặt, để sinh viên 
có một thái độ đúng đắn đối với vấn đề khởi 
nghiệp, nuôi dưỡng niềm đam mê khởi nghiệp 
và xây dựng bản lĩnh tinh thần doanh nhân.
Năm là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả 
hoạt động tư vấn khởi nghiệp. Trong đó, Trung 
tâm Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp (BSSC) của 
Thành Đoàn TP.HCM cần khẩn trương cho 
ra mắt Website cơ sở dữ liệu khởi nghiệp để 
sinh viên có điều kiện tiếp cận và tham vấn các 
mô hình khởi nghiệp; các yêu cầu, điều kiện 
khởi nghiệp, những rủi ro trong quá trình khởi 
nghiệp, từ đó nâng cao nhận thức kiểm soát 
hành vi khởi nghiệp của sinh viên.
đào tạo quản trị khởi nghiệp cần phải trực tiếp 
trang bị các tố chất kinh doanh và thúc đẩy tinh 
thần khởi nghiệp.
- Các trường đại học cần có các chính sách 
khuyến khích, động viên tinh thần doanh nhân 
và khởi nghiệp của sinh viên, đặc biệt là sinh 
viên nữ thông qua việc tạo lập sân chơi phát 
triển ý tưởng kinh doanh và khởi nghiệp cho 
sinh viên.
Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền tinh 
thần doanh nhân và ý định khởi nghiệp cho sinh 
viên bằng các hình thức:
- Dành riêng một chuyên mục khởi nghiệp 
kinh doanh và tinh thần doanh nhân trên các 
phương tiện truyền thông đại chúng. 
- Phát huy vai trò của các diễn đàn khởi 
nghiệp để lan tỏa tinh thần khởi nghiệp đến mọi 
công sở, trường học, mọi gia đình và cộng đồng 
xã hội. 
- Phát hành các ấn phẩm về sinh viên khởi 
nghiệp; doanh nhân trẻ thành đạt; cẩm nang 
khởi nghiệp để truyền cảm hứng, định hướng 
và dẫn dắt tinh thần khởi nghiệp của sinh viên. 
Ba là, hoàn thiện môi trường khởi nghiệp 
bằng cách:
- Chính phủ và TP.HCM cần tiếp tục kiến 
tạo môi trường khởi nghiệp cho sinh viên; khẩn 
trương bổ sung các ngành nghề mới, chưa có 
trong hệ thống ngành nghề được Chính phủ 
quy định, đồng thời xây dựng hệ sinh thái khởi 
nghiệp của từng ngành, từng lĩnh vực cụ thể và 
định hướng khởi nghiệp theo lĩnh vực đó. 
- Phát triển và phát huy vai trò của các 
quỹ đầu tư khởi nghiệp và các vườn ươm khởi 
nghiệp, đồng thời có các chính sách khuyến 
64
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
Tài liệu tham khảo 
Tiếng Việt
Đỗ Thị Hoa Liên. (2016). Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp kinh doanh của sinh viên 
Quản trị kinh doanh Trường đại học lao động xã hội (cơ sở TP.HCM). Tạp chí Khoa học Yersin, 
số 1(11/2016), tr. 44-52.
Phan Anh Tú và Giang Thị Cẩm Tiên. (2015). Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự 
doanh nghiệp: Trường hợp sinh viên Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh Trường Đại học Cần 
Thơ. Tạp chí Khoa học Trường ĐH Cần Thơ, số 38 (2015), tr. 59- 66.
Tiếng Anh
Ambad, S. N. A and Ag Damit, D. H. D. (2016). Determinants of Entrepreneurial Intention Among 
Undergraduate Students in Malaysia. Procedia Economics and Finance, 37, 108 – 114.
Ajzen I., Fishbein, M. (1975). Belief, Attitude, Intention and Behavior: An Introduction to theory 
and research. Addition-Wesley, Reading, MA.
Ajzen, I. (1991). The Theory of Planned Behaviour. Organization Behavior and Human Decision 
Processes, No. 50, pp. 179-211.
Autio, E., Keeley, R.H., Klofsten, M., Parker, G.C. and Hay, M. (2001). Entrepreneurial Intent 
among Students in Scandinavia and in the USA. Enterprise and Innovation Management 
Studies 2 (2), 145–160.
Grimaldi, R. and Gradi, A. (2005). Business incubators and new venture creation; an assessmant of 
incubating models. Technovation, Vol. 25 No.2, pp. 111-121.
Karali, S. (2013). The Impact of entrepreneurship education programs on entrepreneurial intentions: 
An application of the theory of planned behavior. Erasmus University of Rotterdam - Master 
Thesis.
Khan, M. M., Ahmed, I., Nawaz, M. M., & Ramzan, M. (2011). Impact of personality traits on 
entrepreneurial intentions of university students. Interdisciplinary Journal of Research in 
Business, 1(4), 51-57.
Lĩnán, F., Rodríguez - Cohard, F. J., Rueda-Cantuche, J. M. (2011). Factors affecting entrepreneurial 
intention levels: a role for education. International Entrepreneurship and Management Journal, 
Volume 7, Issue 2, pp195-218. 
Luthje, C., & Franke, N. (2003). The making of an entrepreneur: testing a model of entrepreneurial 
intent among engineering students at MIT’. R&D Management, 33, (2), 135-147.
Ooi, Y, K., Selvarajah, C., & Meyer, D. (2011). Inclination towards entrepreneurship among 
university students: An empirical study of Malaysian university students. International Journal 
of Business and Social Social Science, 2 (4), 206-220.
Radas, S và Bozic, L. (2009). The antecedents of SME inovativeness in an emerging transition 
economy. Technovation, Vol. 29, pp. 438-450.
65
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
Schaper, M. and Volery, T. (2004). Entrepreneurship and small business: A Pacific Rim perspective. 
Milton, Queensland, John Wiley and Sons Australia Ltd. 
Shapero, A. and Sokol, L. (1982). The social dimensions of entrepreneurship. in Kent, C., Sexton, 
D. and Vesper, K. (Eds). The Encyclopedia of Entrepreneurship. Prentice-Hall, Englewood 
Cliffs, NJ, p. 72-90.
Tam, H. W. (2009). How and to What Extent Does Entrepreneurship Education Make Students 
More Entrepreneurial? A California Case of the Technology Management Program. Doctor of 
Philosophy Dissertation, University of California, Santa Barbara.
Venkatachalam, V. B. and Waqif, A. A. (2005). Outlook on integrating entrepreneurship in 
management education in India. Decision 32(2): 57-71.
Yordanova, D., & Tarrazon, Maria-Antonia. (2010). Gender Differences in Entrepreneurial 
Intentions: Evidence From Bulgaria. Journal of Developmental Entrepreneurship, 15(3), 245-
261.
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_anh_huong_den_y_dinh_khoi_nghiep_kinh_doanh_cua_s.pdf