Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Nghiên cứu phân tích và đánh giá tác động của các yếu tố đến rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân

hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2008 – 2017 bằng việc sử dụng khe hở tài trợ (FGAP) để đo

lường rủi ro thanh khoản. Kết quả nghiên cứu cho thấy ngân hàng có quy mô càng lớn thì rủi ro

thanh khoản càng giảm trong khi tỷ lệ vốn tự có trên tổng nguồn vốn, tỷ lệ cho vay trên tổng tài

sản, và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu càng cao thì rủi ro thanh khoản của ngân hàng sẽ càng

tăng. Nghiên cứu cũng chỉ ra sự phụ thuộc các nguồn tài trợ bên ngoài làm gia tăng rủi ro thanh

khoản của các ngân hàng. Bên cạnh đó, các yếu tố vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế và khủng

hoảng tài chính có tác động dương đến rủi ro thanh khoản. Từ kết quả này, nghiên cứu đã đề xuất

một số giải pháp nhằm giúp các ngân hàng có thể hạn chế rủi ro thanh khoản, gia tăng sự ổn định

của các ngân hàng Việt Nam.

pdf 13 trang kimcuc 4260
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
26
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN RỦI RO THANH KHOẢN 
CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
FACTORS AFFECT LIQUIDITY RISK OF THE VIETNAMESE 
BANKING SYSTEM
Phan Thị Mỹ Hạnh1
Tống Lâm Vy2
Ngày nhận bài: 24/01/2019 Ngày chấp nhận đăng: 18/03/2019 Ngày đăng: 05/6/2019
Tóm tắt
Nghiên cứu phân tích và đánh giá tác động của các yếu tố đến rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân 
hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2008 – 2017 bằng việc sử dụng khe hở tài trợ (FGAP) để đo 
lường rủi ro thanh khoản. Kết quả nghiên cứu cho thấy ngân hàng có quy mô càng lớn thì rủi ro 
thanh khoản càng giảm trong khi tỷ lệ vốn tự có trên tổng nguồn vốn, tỷ lệ cho vay trên tổng tài 
sản, và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu càng cao thì rủi ro thanh khoản của ngân hàng sẽ càng 
tăng. Nghiên cứu cũng chỉ ra sự phụ thuộc các nguồn tài trợ bên ngoài làm gia tăng rủi ro thanh 
khoản của các ngân hàng. Bên cạnh đó, các yếu tố vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế và khủng 
hoảng tài chính có tác động dương đến rủi ro thanh khoản. Từ kết quả này, nghiên cứu đã đề xuất 
một số giải pháp nhằm giúp các ngân hàng có thể hạn chế rủi ro thanh khoản, gia tăng sự ổn định 
của các ngân hàng Việt Nam.
Từ khóa: Rủi ro thanh khoản, ngân hàng thương mại, khe hở tài trợ.
Abstract
The study analyses and examines the impacts of factors on the liquidity risk of the Vietnamese 
banking system over 2008 – 2017 period using financing gap (FGAP) to measure liquidity risk. The 
results of the study indicate that larger banks have lower risk liquidity whereas banks with higher 
equity to total capital ratio, loan to total asset ratio, and return on equity ratio encounter higher risk 
liquidity. Besides, some macroeconomic factors such as GDP growth and inflation have positive 
effects on risk liquidity of commercial banks. From these findings, the study recommends some 
solutions to help banks to restrict liquidity risk and increase the stability of commercial banks in 
Vietnam.
Keywords: Liquidity risk, commercial banks, financing gap.
__________________________________________
1 Trường Đại học Tài chính - Marketing
2 Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
27
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
Hầu hết các mô hình nghiên cứu trước đây 
đều sử dụng cách tiếp cận rủi ro thanh khoản 
thông qua các tỷ số đo lường thanh khoản. Tuy 
nhiên, Poorman và Blake (2005) cho rằng nếu 
như chỉ sử dụng các tỷ số thanh khoản để đo 
lường rủi ro thanh khoản là không đủ và đó 
không phải là giải pháp để xử lý vấn đề rủi ro 
thanh khoản trong hoạt động ngân hàng. Thêm 
vào đó, các nhà quản trị ngân hàng cũng cho 
rằng sử dụng những tỷ số thanh khoản thường 
gây nhầm lẫn bởi vì sử dụng các tỷ số thanh 
khoản giống như việc sử dụng bảng cân đối kế 
toán của quá khứ để đo lường những dòng tiền 
trong tương lai. Chung Hua Shen và cộng sự 
(2009) cũng đã chỉ ra điểm mạnh của việc sử 
dụng khe hở tài trợ để đo lường rủi ro thanh 
khoản so với hệ số thanh khoản, đó là các hệ 
số thanh khoản được tính toán từ bảng cân đối 
kế toán ngân hàng nên thường được sử dụng 
để dự đoán xu hướng diễn biến của thanh 
khoản trong khi khe hở tài trợ được tính bằng 
chênh lệch giữa tài sản và nguồn vốn đối với 
cả thời điểm hiện tại và tương lai nên Chung 
Hua Shen và cộng sự đã đề xuất việc sử dụng 
khe hở tài trợ để đo lường rủi ro thanh khoản. 
Việc sử dụng khe hở tài trợ để đo lường rủi ro 
thanh khoản cũng được sự ủng hộ của Gatev 
và Strahan (2006), Sauders và Corrnett (2007), 
Arif và Anees (2012). Vì vậy, để đo lường rủi 
ro thanh khoản chính xác hơn, nghiên cứu này 
đã sử dụng khe hở tài trợ cho việc nghiên cứu 
và phân tích tác động của các yếu tố đến rủi 
ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương 
mại Việt Nam.
2. Cơ sở lý luận
Nghiên cứu của Aspachs và cộng sự (2005) 
về những yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng 
của ngân hàng Anh giai đoạn 1985 – 2003 bằng 
cách sử dụng dữ liệu quý đã chỉ ra rằng khả 
năng thanh khoản của ngân hàng có mối quan 
1. Đặt vấn đề
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 
2007 – 2008 và sự sụp đổ hàng loạt của các tổ 
chức tài chính trên thế giới đã cho thấy những 
thiếu sót trong quản lý thanh khoản của các tổ 
chức tài chính, dẫn đến việc đáng báo động về 
tình trạng thiếu hụt thanh khoản tại các ngân 
hàng. Từ sau cuộc khủng hoảng, rủi ro thanh 
khoản tại các ngân hàng dần dần nhận được sự 
quan tâm lớn từ các nhà hoạch định chính sách 
và các nhà nghiên cứu trên thế giới. Tại Việt 
Nam, trong thời gian qua một số ngân hàng đã 
phải đối mặt với tình trạng căng thẳng thanh 
khoản khi nguồn cung tiền mặt không đủ đáp 
ứng nhu cầu rút tiền hàng loạt của người gửi 
tiền, đặc biệt trước các tin đồn liên quan đến 
ngân hàng, điển hình như tại ngân hàng Thương 
mại (NHTM) cổ phần Á Châu năm 2003 hay 
NHTM cổ phần nông thôn Ninh Bình và 
NHTM cổ phần Phương Nam năm 2005. Tình 
trạng căng thẳng thanh khoản năm 2008 cùng 
với những biến động trên thị trường nửa cuối 
2010 cho đến nay cũng đã cho thấy tầm quan 
trọng của việc quản lý rủi ro thanh khoản trong 
các NHTM. Rủi ro thanh khoản của NHTM 
Việt Nam được giảm thiểu nhờ các cố gắng của 
ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong việc kiểm 
soát lãi suất trần và khuyến khích ngân hàng 
lớn hỗ trợ ngân hàng nhỏ. Tuy nhiên, nguy cơ 
tiềm ẩn rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt 
Nam còn khá cao cũng như vấn đề giám sát rủi 
ro thanh khoản của NHNN Việt Nam vẫn chưa 
được đúng như kỳ vọng. Do đó, để đảm bảo 
sự an toàn trong hoạt động của một ngân hàng 
cũng như sự ổn định của cả hệ thống, việc phân 
tích các yếu tố tác động đến rủi ro thanh khoản 
ngân hàng là một vấn đề luôn được quan tâm. 
Vấn đề này đã được nghiên cứu bởi Chung Hua 
Shen và cộng sự (2009), Vodová (2011), Belaid 
và cộng sự (2016), Singh và Sharma (2016), 
Ahamad, F. & Rasool (2017)  
28
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
hệ thuận chiều với tỷ lệ vốn chủ sở hữu, hỗ trợ 
vốn từ ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ cho vay/tổng 
tài sản; và có mối quan hệ nghịch chiều với lãi 
suất ngắn hạn, lãi suất Repo 2 tuần. Valla và 
Saes-Escorbiac (2006) nghiên cứu về tác động 
của các yếu tố vi mô và vĩ mô đến khả năng 
thanh khoản của các NHTM tại Anh cho thấy 
thanh khoản của ngân hàng phụ thuộc vào các 
yếu tố như: lợi nhuận ngân hàng, tăng trưởng 
tín dụng, quy mô ngân hàng, tăng trưởng kinh 
tế, lãi suất ngắn hạn. Lucchetta (2007) đã sử 
dụng dữ liệu của 5066 ngân hàng ở Châu Âu 
giai đoạn 1998 – 2004 để phân tích mối quan 
hệ giữa các ngân hàng với nhau trên thị trường 
liên ngân hàng và quá trình cho vay liên ngân 
hàng thông qua lãi suất bình quân liên ngân 
hàng ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của 
ngân hàng. Kết quả cho thấy khả năng thanh 
khoản của ngân hàng (đo lường bởi tỷ lệ các 
khoản cho vay trên tổng tài sản) bị ảnh hưởng 
bởi hành vi của ngân hàng trên thị trường liên 
ngân hàng, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất cơ 
bản của Chính phủ, tỷ lệ các khoản vay trên 
tổng tài sản, tỷ lệ nợ xấu và quy mô ngân hàng. 
Chung-Hua Shen và cộng sự (2009) đã sử dụng 
mô hình nguyên nhân rủi ro thanh khoản ước 
lượng cho các hệ thống NHTM của 12 nền kinh 
tế hàng đầu thế giới trong phạm vi thời gian 
1994 – 2006. Một kết quả đáng lưu ý là biến quy 
mô tổng tài sản có tác động phi tuyến đến rủi ro 
thanh khoản ngân hàng, giai đoạn đầu một khi 
tăng tài sản sẽ làm giảm rủi ro thanh khoản. Tuy 
nhiên khi tổng tài sản tăng đến một mức nào 
đó sẽ làm tăng rủi ro thanh khoản. Khe hở tài 
trợ có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ vốn tự 
có trên tổng tài sản, sự phụ thuộc các nguồn tài 
trợ bên ngoài; và nghịch chiều với dự trữ thanh 
khoản, tăng trưởng kinh tế. Lạm phát trong năm 
nay không ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản 
trong năm đó nhưng ảnh hưởng làm giảm rủi 
ro thanh khoản trong năm sau đó. Nghiên cứu 
trường hợp các ngân hàng của Pakistan, Akhtar 
và cộng sự (2011) kết luận rằng quy mô của các 
ngân hàng và vốn lưu động ròng có mối quan 
hệ cùng chiều với rủi ro thanh khoản. ROE có 
mối tương quan nghịch với rủi ro thanh khoản. 
Vodová (2011) nghiên cứu các yếu tố quyết 
định khả năng thanh khoản của các NHTM tại 
Cộng hòa Séc trong giai đoạn 2001 – 2009. Kết 
quả nghiên cứu cho thấy thanh khoản của các 
NHTM tại Séc có mối quan hệ cùng chiều với 
tỷ lệ vốn chủ sở hữu, tỷ lệ nợ xấu, lãi suất giao 
dịch liên ngân hàng, lãi suất cho vay. Ngược 
lại, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế 
và khủng hoảng tài chính có tác động nghịch 
chiều đến thanh khoản ngân hàng. Anjum Iqbal 
(2012) nghiên cứu các ngân hàng tại Pakistan 
giai đoạn 2007 – 2010 cho thấy CAR, quy mô, 
ROA, ROE có tác động cùng chiều đến rủi 
ro thanh khoản, trong khi đó tỷ lệ nợ xấu có 
tác động nghịch chiều đến rủi ro thanh khoản. 
Vodová (2013a) nghiên cứu các yếu tố tác động 
đến thanh khoản của các NHTM Hungary giai 
đoạn 2001 – 2010. Kết quả nghiên cứu cho thấy 
rủi ro thanh khoản ngân hàng có mối quan hệ 
ngược chiều đến quy mô của các ngân hàng, 
chính sách lãi suất và lãi suất giao dịch liên 
ngân hàng và có mối quan hệ cùng chiều với 
an toàn vốn của các ngân hàng, lãi suất cho vay 
và lợi nhuận ngân hàng. Bên cạnh đó, Vodová 
(2013b) cũng nghiên cứu các yếu tố quyết định 
tính thanh khoản của các NHTM Ba Lan giai 
đoạn 2001 – 2010. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy lợi nhuận ngân hàng, lãi suất và quy mô 
ngân hàng tác động cùng chiều đến rủi ro thanh 
khoản. Ngược lại, an toàn vốn, lạm phát, tỷ 
lệ nợ xấu và lãi suất cho vay liên ngân hàng 
tác động nghịch chiều đến rủi ro thanh khoản. 
Singh và Sharma (2016) nghiên cứu các yếu tố 
ảnh hưởng khả năng thanh khoản của 59 ngân 
hàng tại Ấn Độ giai đoạn 2000 – 2013 đã tìm 
thấy tác động âm của quy mô ngân hàng và tăng 
trưởng kinh tế lên khả năng thanh khoản. Mặt 
khác, yếu tố lợi nhuận, hệ số an toàn vốn, tỷ 
lệ vốn huy động trên tổng nguồn vốn và lạm 
phát lại có tác động dương đến khả năng thanh 
29
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
khoản. Thêm vào đó, nghiên cứu về các yếu tố 
tác động đến rủi ro thanh khoản của các NHTM 
Tunisian giai đoạn 2000 – 2012, Belaid và cộng 
sự (2016) đã chỉ ra mối quan hệ thuận giữa chất 
lượng khoản vay (thể hiện qua tỷ lệ nợ xấu), 
hệ số an toàn vốn, chất lượng quản lý, mô hình 
kinh doanh và rủi ro thanh khoản, trong khi quy 
mô tài sản lại có tác động ngược chiều đến rủi 
ro thanh khoản. Ahamad và Rasool (2017) phân 
tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thanh 
khoản của 37 NHTM tại Pakistan giai đoạn 
2005 – 2014 đã chỉ ra rằng tỷ lệ vốn chủ sở hữu 
trên tổng nguồn vốn và tốc độ tăng trưởng kinh 
tế có tác động dương đến khả năng thanh khoản 
của các NHTM. Ngược lại, tỷ lệ nợ xấu và quy 
mô ngân hàng lại có tác động âm đến khả năng 
thanh khoản của các NHTM.
Trong những năm gần đây một số nghiên 
cứu cũng nghiên cứu các yếu tố tác động đến 
rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng 
thương mại Việt Nam. Nghiên cứu của Trương 
Quang Thông (2013) về các yếu tố tác động đến 
rủi ro thanh khoản của 27 ngân hàng thương 
mại Việt Nam giai đoạn 2002 – 2011 sử dụng 
khe hở tài trợ để đo lường rủi ro thanh khoản. 
Kết quả cho thấy rủi ro thanh khoản ngân hàng 
không những phụ thuộc vào các yếu tố bên 
trong hệ thống ngân hàng như: tổng tài sản, dự 
trữ thanh khoản, vay liên ngân hàng, tỷ lệ vốn 
tự có trên tổng tài sản mà còn chịu sự tác động 
bởi các điều kiện kinh tế vĩ mô như: tăng trưởng 
kinh tế, lạm phát, độ trễ của chính sách. Một 
kết quả đáng lưu ý là biến quy mô tổng tài sản 
có tác động phi tuyến đến rủi ro thanh khoản 
ngân hàng, giai đoạn đầu một khi tăng tài sản 
sẽ làm giảm rủi ro thanh khoản. Tuy nhiên khi 
tổng tài sản tăng đến một mức nào đó sẽ làm 
tăng rủi ro thanh khoản. Rủi ro thanh khoản 
cũng có quan hệ đồng biến với tỷ lệ vốn tự có 
trên tổng tài sản, vay liên ngân hàng và nghịch 
biến với dự trữ thanh khoản, tăng trưởng kinh 
tế. Lạm phát trong năm nay không ảnh hưởng 
đến rủi ro thanh khoản trong năm đó nhưng ảnh 
hưởng làm giảm rủi ro thanh khoản trong năm 
sau đó. Đặng Văn Dân (2015) nghiên cứu các 
yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản của 15 
NHTM lớn tại Việt Nam giai đoạn 2007 – 2014. 
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rủi ro thanh khoản có 
quan hệ nghịch chiều với quy mô tổng tài sản 
và cùng chiều với tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản. 
Kết quả này được giải thích là vì khi ngân hàng 
có quy mô càng lớn thì ngân hàng có nhiều lợi 
thế cạnh tranh trên thị trường và càng giảm rủi 
ro thanh khoản. Ngoài ra, ngân hàng có tỷ lệ 
cho vay trên tổng tài sản cao thì khi đó ngân 
hàng sẽ giảm dự trữ thanh khoản dẫn đến rủi ro 
thanh khoản tăng lên. Hơn nữa, khi ngân hàng 
mở rộng tín dụng sẽ gia tăng rủi ro tín dụng kéo 
theo rủi ro thanh khoản tăng theo. Nghiên cứu 
của Nguyễn Thị Mỹ Linh (2016) kiểm định sự 
tác động của các yếu tố đến tỷ lệ thanh khoản 
của 19 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2007 
– 2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy rủi ro tín 
dụng ngân hàng, khả năng sinh lợi ngân hàng, 
tỷ lệ vốn ngân hàng, lãi suất biên, quy mô ngân 
hàng tác động nghịch chiều đến tỷ lệ thanh 
khoản của ngân hàng. Nghiên cứu của Nguyễn 
Hải Long (2017) về quản trị rủi ro thanh khoản 
tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông 
thôn Việt Nam với chuỗi dữ liệu từ 2011 – 2016 
tại 25 chi nhánh thuộc Agribank. Nghiên cứu 
đo lường rủi ro thanh khoản thông qua khe hở 
tài trợ dựa theo gợi ý của Saunders và Cornett 
(2006). Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan 
hệ tỷ lệ thuận giữa tỷ lệ vốn vay bên ngoài, khả 
năng sinh lời, dư nợ cho vay, tỷ lệ lạm phát và 
khe hở tài trợ. Ngoài ra, biến tăng trưởng kinh 
tế lại có tác động ngược chiều đối với tỷ lệ khe 
hở tài trợ. Mối tương quan nghịch này có thể 
được lý giải dựa trên “phản ứng theo chu kỳ 
của nhu cầu thanh khoản”, tức là các ngân hàng 
có xu hướng dự trữ thanh khoản trong suốt thời 
kỳ suy thoái và “giải phóng” thanh khoản trong 
giai đoạn tăng trưởng. Nghiên cứu của Nguyễn 
Hoàng Phong và Phan Thị Thu Hà (2017) về 
30
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
các yếu tố tác động đến khả năng thanh khoản 
của 32 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2006 
– 2015. Thanh khoản ngân hàng được đo lường 
bằng tỷ lệ tài sản thanh khoản trên tổng tài sản 
(L1) và tỷ lệ tài sản thanh khoản trên vốn huy 
động ngắn hạn (L2). Kết quả nghiên cứu cho 
thấy các tỷ lệ thanh khoản ngân hàng có mối 
quan hệ đồng biến với tỷ lệ vốn chủ sở hữu, 
mức độ tập trung thị trường, lãi suất liên ngân 
hàng, tăng trưởng kinh tế và nghịch biến với 
quy mô ngân hàng, tỷ lệ dư nợ cho vay. Bên 
cạnh đó, nghiên cứu còn phát hiện thấy tỷ lệ 
thanh khoản ngân hàng cũng chịu tác động của 
độ trễ thanh khoản kỳ trước.
3. Mô hình nghiên cứu và phương pháp 
nghiên cứu
3.1. Giả thuyết nghiên cứu.
Một số nghiên cứu về tác động của quy 
mô ngân hàng lên rủi ro thanh khoản cho thấy 
ngân hàng có quy mô tổng tài sản càng lớn thì 
sẽ ít gặp rủi ro thanh khoản hơn như Lucchetta 
(2007), Belaid và cộng sự (2016). Do đó,
Giả thuyết H
1
: Quy mô ngân hàng tác động 
ngược chiều đến rủi ro thanh khoản.
Vodová (2013a) đã chỉ ra rằng tỷ lệ vốn tự 
có của ngân hàng trên tổng ng ... ro cao 
với mong muốn đạt được lợi nhuận cao nhằm 
bù đắp cho việc gia tăng chi phí vốn do vốn tự 
có tăng lên tạo ra. Việc tăng vốn tự có quá mức 
ở các NHTM sẽ luôn tiềm ẩn khá nhiều rủi ro 
trong đó bao gồm rủi ro thanh khoản. Mặt khác, 
việc tăng vốn tự có của các NHTM Việt Nam 
có thể được thực hiện từ việc phát hành thêm 
cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi trên thị trường 
chứng khoán hoặc các NHTM sẽ tiến hành tăng 
vốn điều lệ bằng cách chia cổ tức bằng cổ phiếu. 
Do đó các cổ đông có thể gây áp lực lớn cho 
các nhà quản lý ngân hàng nhằm tăng lợi nhuận 
bằng cách đầu tư nhiều hơn hoặc cho vay nhiều 
hơn với lãi suất cao. Chiến lược này có thể được 
thực hiện thông qua việc chuyển đổi một phần 
tài sản thanh khoản của ngân hàng thành tài 
sản dưới hình thức cho vay dài hạn cũng như 
đầu tư dài hạn nhằm tạo ra lợi nhuận cao hơn. 
Các ngân hàng có nguồn vốn chủ sở hữu càng 
lớn sẽ “lấn át” tiền gửi khách hàng từ đó làm 
giảm cung thanh khoản nên cần dự trữ thanh 
khoản nhiều hơn; còn các ngân hàng có nguồn 
vốn chủ yếu là nguồn vốn huy động thì dự trữ 
thanh khoản sẽ có xu hướng giảm (Diamond và 
Rajan, 2001; Vodová, 2013a; Wilbert, 2014), từ 
đó làm gia tăng nguy cơ rủi ro thanh khoản. 
Bảng 6. Kết quả hồi quy mô hình sau khi xử lý sai phạm
BIẾN PHỤ THUỘC 
FGAP
Hệ số Z P > /z/
SIZE -0,0256*** -2,72 0,007
CAP 0,2663** 2.16 0,031
LTA 0,4941*** 9,96 0,000
LLPTL -1,6286 -1,45 0,147
ROE 0,1658** 2,17 0,030
EFD 0,7512*** 10,94 0,000
GDPG 2,1697** 2,43 0,015
INF 0,1998*** 2,92 0,004
CRISIS 0,0077 0,50 0,615
Cons -0,1263 -0,71 0,477
Số quan sát 210 210 210
Wald.Chi Square 236,40
Prob-Chi-Square 0,0000
*, **, ***, có ý nghĩa thống kê tương ứng ở mức 10%, 5%, 1%
Nguồn: Theo tính toán của tác giả
35
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
Tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản có tác động 
dương đến rủi ro thanh khoản với mức ý nghĩa 
thống kê 1%. Kết quả này phù hợp với kết quả 
nghiên cứu của Vodová (2011). Các NHTM 
Việt Nam thường tập trung nhiều vào hoạt động 
cho vay và các khoản vay thường có tính thanh 
khoản thấp. Do đó, cho vay càng nhiều thì khả 
năng ngân hàng đối mặt với rủi ro thanh khoản 
càng cao. 
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu của 
ngân hàng có tác động dương và có ý nghĩa 
thống kê. Điều này cũng phù hợp với thực tế 
về sự đánh đổi giữa lợi nhuận và đảm bảo an 
toàn thanh khoản. Thêm vào đó, khi ngân hàng 
hoạt động ngày càng hiệu quả thì niềm tin của 
dân chúng sẽ tăng lên, tạo điều kiện thuận lợi 
để có thể huy động thêm nguồn vốn lớn, uy tín 
gia tăng, điều đó góp phần ổn định thanh khoản 
cho ngân hàng.
Sự phụ thuộc các nguồn tài trợ bên ngoài 
có tác động dương đến rủi ro thanh khoản và 
có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1%. Kết 
quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả nghiên 
cứu của các tác giả Chung Hua Shen và cộng 
sự (2009), Trương Quang Thông (2013). Có thể 
thấy rằng việc tạo lập một nguồn vốn vững chắc 
để phát triển bền vững là rất cần thiết. Tuy nhiên, 
hiện nay nguồn huy động vốn của các NHTM 
cổ phần còn khá hạn chế, việc tăng vốn còn gặp 
nhiều khó khăn trong vấn đề huy động tiền gửi 
tiết kiệm, vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt từ 
các NHTM quốc doanh và các quỹ tín dụng. 
Do đó, tình trạng thiếu hụt nguồn vốn trung và 
dài hạn hiện tại còn phụ thuộc khá nhiều vào 
nguồn vốn liên ngân hàng và kênh hỗ trợ của 
NHNN và để cải thiện tình trạng này buộc các 
ngân hàng phải áp dụng chính sách lãi suất huy 
động cao và cạnh tranh. Điều này sẽ khiến cho 
các ngân hàng đứng trước nguy cơ rủi ro thanh 
khoản rất cao. Tác động của dự phòng rủi ro tín 
dụng đến rủi ro thanh khoản không có ý nghĩa 
thống kê.
Các yếu tố vĩ mô cũng tác động đến rủi 
ro thanh khoản của ngân hàng. Cụ thể, tốc độ 
tăng trưởng kinh tế có tác động dương đến rủi 
ro thanh khoản. Kết quả này phù hợp với các 
nghiên cứu của Chung Hua Shen và cộng sự 
(2009), Trương Quang Thông (2013), Ahamad 
và Rasool (2017). Trong thời kỳ kinh tế suy 
thoái, các ngân hàng có xu hướng dự trữ thanh 
khoản nhiều hơn và ngược lại, trong thời kỳ 
tăng trưởng kinh tế, xuất hiện các cơ hội cho 
vay phù hợp thì các ngân hàng sẽ giảm dự trữ 
thanh khoản để có thể cho vay nhiều hơn. Vì 
vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao thì rủi 
ro thanh khoản càng lớn. Tỷ lệ lạm phát tác 
động cùng chiều với rủi ro thanh khoản và có 
ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1%. Kết quả 
này phù hợp với kết quả nghiên cứu của các 
tác giả Vodová (2011), Trương Quang Thông và 
Phạm Minh Tiến (2014). Tác động của tỷ lệ dự 
phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ (LLPTL) 
và yếu tố khủng hoảng kinh tế (CRISIS) lên rủi 
ro thanh khoản không có ý nghĩa. 
5. Đề xuất giải pháp nhằm giảm thiểu 
rủi ro thanh khoản của hệ thống NHTM 
Việt Nam
Từ kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất 
một số giải pháp nhằm giúp các NHTM Việt 
Nam có thể tăng khả năng thanh khoản từ đó 
giúp các ngân hàng giảm rủi ro thanh khoản và 
gia tăng sự ổn định trong hoạt động.
Thứ nhất, ngân hàng cần mở rộng quy mô 
ngân hàng, gia tăng tài sản
Các NHTM Việt Nam cần có các biện pháp 
thích hợp để mở rộng quy mô tài sản nhằm 
giảm thiểu rủi ro thanh khoản như thu hút vốn 
đầu tư của các đối tác và các nhà đầu tư lớn 
trong và ngoài nước, trên cơ sở đó vừa giúp 
các ngân hàng gia tăng tài sản vừa giúp học 
hỏi kinh nghiệm quản lý từ các nhà đầu tư và 
quản lý chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, các ngân 
36
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
hàng cũng tiến hành mở rộng mạng lưới hoạt 
động như phát triển thêm các chi nhánh, phòng 
giao dịch tại những địa phương có nhiều tiềm 
năng phát triển, để mở rộng cơ sở khách hàng, 
huy động thêm nhiều vốn và từng bước thu hẹp 
khoảng cách thị phần với các đối thủ cạnh tranh. 
Đối với các ngân hàng nhỏ và không mạnh về 
tài chính có thể xem xét phương án mua bán và 
sáp nhập (M&A) để giúp ngân hàng tăng nhanh 
quy mô, mở rộng hệ thống mạng lưới, cơ sở dữ 
liệu khách hàng và làm mạnh thêm năng lực tài 
chính, tăng lòng tin của khách hàng và từ đó 
giúp giảm rủi ro thanh khoản. Tuy nhiên, việc 
mở rộng quy mô tài sản ngân hàng cần đi cùng 
với duy trì đệm thanh khoản phù hợp để đáp 
ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng.
Thứ hai, ngân hàng cần nâng cao chất 
lượng nguồn vốn tự có
Quá trình tăng vốn nhanh chóng của 
các NHTM cổ phần trong thời gian ngắn đã 
hình thành cấu trúc sở hữu, đặc biệt là tình trạng 
sở hữu chéo và đa phương giữa ngân hàng với 
doanh nghiệp và ngân hàng với ngân hàng. Điều 
này có thể phát sinh nhiều khoản nợ xấu, đặc 
biệt là rủi ro mang tính hệ thống vì vấn đề thanh 
khoản cho các ngân hàng. Do đó, mỗi ngân hàng 
cần lựa chọn cho mình các chiến lược tăng vốn 
nhằm giảm thiểu các nguồn vốn có rủi ro cao, 
tăng trưởng nguồn vốn theo cách bền vững, ổn 
định hơn như phát hành chứng chỉ tiền gửi kỳ 
hạn dài để tăng vốn cấp 2, không chia cổ tức để 
bổ sung vốn tự có hoặc tăng vốn điều lệ theo hai 
hình thức phổ biến là trả cổ tức bằng cổ phiếu 
và phát hành thêm cổ phiếu cho cổ đông hiện 
hữu, thay đổi danh mục cho vay và đầu tư theo 
các kỳ hạn tương xứng; tự xây dựng hệ thống 
phân loại tài sản rủi ro chính xác hơn, có các 
biện pháp kiểm soát nguồn vốn, thực hiện xây 
dựng cơ cấu nguồn vốn an toàn để kiểm soát 
chất lượng nguồn vốn; thu hút thêm vốn đầu tư 
từ các nhà đầu tư nước ngoài. 
Thứ ba, ngân hàng cần kiểm soát tốt các 
khoản cho vay
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy rằng, tỷ 
lệ cho vay trên tổng tài sản của các ngân hàng 
càng tăng thì rủi ro thanh khoản cũng sẽ càng 
gia tăng. Do đó, các ngân hàng cần xử lý và 
kiểm soát tốt rủi ro tín dụng, tránh việc chạy 
theo doanh số dẫn đến việc giảm lãi suất, hạ 
tiêu chuẩn cho vay dẫn đến rủi ro tín dụng gia 
tăng. Đồng thời tăng cường thiết lập quan hệ 
tín dụng với các khách hàng có nền tảng kinh 
doanh cơ bản tốt và có tình hình tài chính ổn 
định lành mạnh; xây dựng danh mục cho vay 
hiệu quả; đa dạng hóa lĩnh vực cho vay, ngành 
nghề nhằm đảm bảo khả năng thu hồi được vốn 
cho vay; phân tán rủi ro, đa dạng hóa danh mục 
đầu tư trong hoạt động tín dụng.
Thứ tư, ngân hàng cần xây dựng cơ cấu 
nguồn vốn hợp lý, hạn chế sự phụ thuộc các 
nguồn vốn bên ngoài.
Các ngân hàng cần đảm bảo một sự cân đối 
hợp lý giữa nguồn vốn huy động và sử dụng 
vốn, giảm dần sự phụ thuộc vào các nguồn vốn 
bên ngoài. Ngân hàng cần hạn chế việc sử dụng 
nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn, nhờ đó 
các ngân hàng có thể tránh bị rơi vào thế bị động 
khi cần tiền thanh toán cho khách hàng. Bên cạnh 
đó, ngân hàng cần có đội ngũ chuyên gia phân 
tích, đánh giá và dự báo về khả năng thanh khoản 
của ngân hàng đối với nhu cầu rút tiền của khách 
hàng cho từng giai đoạn để vừa tránh lãng phí 
vốn nhàn rỗi nhưng vẫn đảm bảo được khả năng 
thanh khoản cũng như tăng tính chủ động cho 
ngân hàng trong việc giải quyết các vấn đề về 
thanh khoản. Để giảm sự phụ thuộc vào nguồn 
vốn bên ngoài, ngoài việc gia tăng thu nhập từ 
lãi, ngân hàng cần gia tăng nguồn thu nhập ngoài 
lãi, ít xảy ra rủi ro thanh khoản như: phát triển 
dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ thẻ, dịch vụ 
thanh toán đặc biệt là thanh toán quốc tế nhằm 
giảm thiểu sự phụ thuộc của ngân hàng vào các 
37
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
thu nhập từ lãi. Để phát triển các dịch vụ phi tín 
dụng, đa dạng hoá được các dịch vụ, giữ vững 
thị phần và đạt kết quả cao trong hoạt động kinh 
doanh, những giải pháp các NHTM Việt Nam 
cần đẩy mạnh phát triển các dịch vụ thẻ ATM, 
thanh toán thông qua máy POS, phát triển thẻ 
quốc tế, xây dựng mức phí cạnh tranh, thực hiện 
các chính sách miễn giảm phí trong năm đầu sử 
dụng dịch vụ của ngân hàng nhằm thu hút khách 
hàng quan tâm và sử dụng dịch vụ ngày càng 
nhiều hơn nữa, nâng cao năng lực marketing 
của các NHTM, giúp các doanh nghiệp và công 
chúng hiểu biết, tiếp cận và sử dụng có hiệu quả 
các dịch vụ ngân hàng. Bên cạnh đó, cần tăng 
tính tiện ích của các dịch vụ ngân hàng, sử dụng 
linh hoạt công cụ phòng chống rủi ro gắn với 
đảm bảo an toàn trong kinh doanh ngân hàng, 
tập trung đẩy mạnh dịch vụ thanh toán lương cho 
các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp; phát 
triển công nghệ ngân hàng đảm bảo đáp ứng nhu 
cầu khách hàng đi đôi với phát triển nguồn lực 
hiện có, nâng cao tính bảo mật thông tin khách 
hàng, tạo niềm tin vững chắc cho khách hàng 
trong việc sử dụng dịch vụ và công nghệ của 
ngân hàng.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
Đặng Văn Dân, 2015. Các nhân tố tác động đến rủi ro thanh khoản của ngân hàng thương mại tại 
Việt Nam. Tạp chí Tài chính, số tháng 11-2015, trang 60-64.
Nguyễn Thị Mỹ Linh, 2016. Các yếu tố tác động đến tỷ lệ thanh khoản tại các ngân hàng thương 
mại Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng, số 9(5), trang 22-26.
Nguyễn Hải Long, 2017. Quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng thương mại Nông nghiệp và 
Phát triển nông thôn Việt Nam. Luận án Tiến sĩ. Học viện Ngân hàng.
Nguyễn Hoàng Phong & Phan Thị Thu Hà, 2017. Các yếu tố tác động đến tỷ lệ thanh khoản tại các 
ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 236, trang 26-36.
Trương Quang Thông, 2013. Các nhân tố tác động đến rủi ro thanh khoản của hệ thống NHTM Việt 
Nam. Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 276, trang 50-62.
Trương Quang Thông & Phạm Minh Tiến, 2014. Các nhân tố tác động đến rủi ro thanh khoản 
trường hợp các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, 
số 21/2014, trang 33-38.
Tiếng Anh
Ahamad, F. & Rasool, N., 2017. Determinants of Bank Liquidity: Empirical Evidence from Listed 
Commercial Banks with SBP. Economics and Sustainable Development. Vol.8.
Akhtar, M., Ali, K., & Sadaqat, S., 2011. Liquidity risk Management: A comparitive study between 
Conventional and Islamic Banks of Pakistan. Interdisciplinary Journal of Research in Business, 
1: 35-44.
Anjum Iqbal, 2012. Liquidity Risk Management: A Comparative Study between Conventional and 
Islamic Banks of Pakistan. Global Journal of Management and Business Research, 5: 55-64.
Arif, A. & A. Anees, 2012. Liquidity Risk and Performance of Banking System. Journal of Financial 
Regulation and Compliance. 20: 182-195.
38
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 51, 06/2019
Aspachs, 0., Nier, E. & Tiesset, M., 2005. Liquidity, banking regulation and the macroeconomy: 
Evidence on bank liquidity holdings from a panel of UK-resident banks. Bank of England 
Working Paper, 1-26.
Bunda, T. & Desquilbet, J.B., 2008. The Bank Liquidity Smile Across Exchange Rate Regimes, 
International Economic Journal, Vol 22(3), 361-386.
Belaid, F., Bellouma, M. & Omri, A., 2016. Determinants of Liquidity Risk: Evidence from Tunisian 
Banks. International Journal of Emerging Research in Management & Technology. Vol 5.
Chung-Hua-Shen, Chen, Y. K., Kao, L. F. & Yeh C. Y., 2009. Bank Liquydity Risk and Performance. 
Department of Finance: National Taiwan University.
Diamond. D. & Rajan, R.G., 2001. Liquidity risk. liquidity creation and financial fragility: A theory 
of banking. Journal of Political Economy, Vol 109(2), 287-327.
Gatev, E. & Strahan, P. E. 2006. Banks’ Advantage in Hedging Liquidity Risk: Theory and Evidence 
from the Commercial Paper Market. The journal of finance. Vol 2.
Ahamad, F. & Rasool, N. 2017. Determinants of Bank Liquidity: Empirical Evidence from Listed 
Commercial Banks with SBP. Economics and Sustainable Development. Vol.8.
Lucchetta, M., 2007. What Do Data Say About Monetary Policy, Bank Liquidity and Bank Risk 
Taking?. Economics Notes by Bcmca Monte dei Paschi di Siena SpA, 36:189-203.
 Perry, P.,1992. “Do Banks Gain or Lose from Inflations?”. Journal of Retails Banking, 2: 25-30. 
Poorman, F. & Blake, J, 2005. Measuring and Modeling Liquidity Risk: New Ideas and Metrics. 
Financial Managers Society Inc White Paper.
Saunders, A., & Cornett, M. M., 2006. Financial Institutions Management: A Risk Management 
Approach, McGraw-Hill, Boston.
Singh, A. & Sharma, A. K. 2016. An empirical analysis of macroeconomic and bank-specific factors 
affecting liquidity of Indian banks. Future Business Journal, 2, 40-53.
Sufian, F. & Chong, R.R., 2008. Determinants of Bank Profitability in a Developing Economy: 
Empirical Evidence from Philippines. Asian Academy of Management Journal of Accounting 
and Finance, 91-112.
Valla, N., & Saes-Escorbiac, B., 2006. Bank liquydity and financial stability, Banque de France 
Financial Stability Review, 89-104.
Vodová, P., 2011. Liquidity of Czech Commercial Banks and Its Determinants, International 
Journal of Mathematical Models and Methods in Applied Sciences, Vol. 5 (6), 2011, 1060-1067.
Vodová, P., 2013a. Determinants of Commercial Banks’ Liquidity in Hungary, Silesian University 
Working paper, 180-188.
Vodová. P., 2013b. Determinants of Commercial Banks’ Liquidity in Poland, Proceedings of the 
30th International Conference Mathematical Methods in Economics, 962-967.
Vong, A. P. I., & Chan, H. S., 2009. Determinants of bank profitability in Macao. Macau Monetary 
Research Bulletin, Vol 12(6), 93-113.
Wilbert, C., 2014. Zimbabwean Commercial Banks Liquidity and Its Determinants. Intemational 
Joumal of Empirical Finance, Vol 2(2), 52-64.

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_anh_huong_den_rui_ro_thanh_khoan_cua_he_thong_nga.pdf