Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

Trong thời gian qua, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa

(Small and Medium Enterprise - SMEs) ngày càng tăng song song với sự gia

tăng về số lượng. Để có những giải pháp hiệu quả trong việc giải quyết nhu cầu

vay vốn, nghiên cứu này tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn của

các SMEs trong tỉnh Đồng Nai. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là thống

kê mô tả và phân tích hồi quy tuyến tính bội thông qua khảo sát 208 SMEs, kết

quả cho thấy nhu cầu vay vốn chịu sự tác động của các nhân tố sau: (1) quy mô;

(2) ngành nghề kinh doanh; (3) giá trị tài sản cố định; (4) thời gian hoạt động.

Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số hàm ý quản trị đối với các ngân

hàng nhằm nâng cao khả năng cho vay đối với các SMEs, phục vụ sự phát triển

của các SMEs cũng như của ngân hàng.

pdf 15 trang kimcuc 4940
Bạn đang xem tài liệu "Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
107 
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHU CẦU VAY VỐN 
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI 
Nguyễn Thị Ngọc Diệp1 
Lê Thu Thủy1 
TÓM TẮT 
Trong thời gian qua, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa 
(Small and Medium Enterprise - SMEs) ngày càng tăng song song với sự gia 
tăng về số lượng. Để có những giải pháp hiệu quả trong việc giải quyết nhu cầu 
vay vốn, nghiên cứu này tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn của 
các SMEs trong tỉnh Đồng Nai. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là thống 
kê mô tả và phân tích hồi quy tuyến tính bội thông qua khảo sát 208 SMEs, kết 
quả cho thấy nhu cầu vay vốn chịu sự tác động của các nhân tố sau: (1) quy mô; 
(2) ngành nghề kinh doanh; (3) giá trị tài sản cố định; (4) thời gian hoạt động. 
Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số hàm ý quản trị đối với các ngân 
hàng nhằm nâng cao khả năng cho vay đối với các SMEs, phục vụ sự phát triển 
của các SMEs cũng như của ngân hàng. 
Từ khóa: Nhu cầu vay vốn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, tỉnh Đồng Nai 
1. Giới thiệu 
Doanh nghiệp (DN) có vị trí đặc 
biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ 
phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm 
trong nước. Ở nhiều quốc gia trên thế 
giới, khối SMEs luôn đóng vai trò và 
vị thế quan trọng trong phát triển kinh 
tế - xã hội. SMEs tại Việt Nam ngày 
càng khẳng định rõ vị thế và vai trò 
đối với nền kinh tế khi đóng góp trên 
40% GDP, thu hút hơn 50% tổng số 
lao động, chiếm 17,26% tổng kinh phí 
nộp ngân sách nhà nước. Tính tới thời 
điểm hiện nay, số lượng SMEs chiếm 
khoảng 98% trong tổng số trên 620 
nghìn doanh nghiệp thuộc tất cả các 
loại hình đang hoạt động ở Việt Nam 
(Phạm Thái Hà [1]). Theo Tổng cục 
Thống kê năm 2018, xét theo quy mô 
lao động, tại thời điểm 01/01/2017, số 
lượng doanh nghiệp vừa tăng 23,6%, 
doanh nghiệp nhỏ tăng 21,2% và 
doanh nghiệp siêu nhỏ tăng tới 65,5% 
và chiếm 74% tổng số doanh nghiệp. 
Ở Đồng Nai, thời gian qua khối 
SMEs chiếm hơn 90% và đóng góp 
hơn 40% giá trị sản xuất công nghiệp 
của tỉnh. Do đó việc hỗ trợ vốn cho 
SMEs phát triển là góp phần tái tạo 
động lực phát triển cho nền kinh tế. 
Theo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh 
Đồng Nai (10-2017), việc sản xuất 
kinh doanh tại các SMEs có sự tăng 
trưởng ổn định, nhiều công ty k kết 
được nh ng đơn hàng nên đã vay vốn 
mở rộng thêm sản xuất, kinh doanh. 
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh hiện có 40 
ngân hàng với 53 chi nhánh đang hoạt 
động, gần 200 Quỹ tín dụng nhân dân 
có thể đáp ứng được nhu cầu vay vốn 
1Trường Đại học Lạc Hồng 
Email: ngocdiep1980.dhlh@gmail.com 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
108 
của doanh nghiệp. Dư nợ cho vay 
SMEs trên địa bàn tỉnh đạt gần 34,2 
ngàn t đồng, tăng hơn 20% so với 
cuối năm trước. Vốn huy động của hệ 
thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh đạt 
khoảng 170.000 t đồng, dư nợ cho 
vay đạt 160.000 t đồng, các ngân 
hàng v n còn khoảng 10.000 t đồng 
chưa cho vay nên nguồn vốn rất dồi 
dào 2 . 
Tuy nhiên, trên thực tế thì đa số 
các SMEs v n chưa tiếp csận được 
nguồn tín dụng ngân hàng. Cục Phát 
triển doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và 
Đầu tư thì chỉ có 32% số SMEs có 
khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân 
hàng, trong khi đó có hơn 35% số 
doanh nghiệp khó tiếp cận và trên 
32% số doanh nghiệp không có khả 
năng tiếp cận vốn ngân hàng. Tình 
trạng cung không gặp cầu d n đến 
mâu thu n là trong khi ngân hàng 
thừa vốn nhưng doanh nghiệp lại khát 
vốn để sản xuất, kinh doanh. Nguyên 
nhân phần lớn là do các SMEs có quy 
mô nhỏ, phân tán, trình độ công nghệ 
lạc hậu, năng lực quản trị doanh 
nghiệp còn kém, năng lực cạnh tranh 
và tiềm lực tài chính của các SMEs 
v n còn yếu. Đa phần các SMEs có t 
trọng vốn chủ sở h u trên tổng nguồn 
vốn hoạt động ở mức thấp, nguồn vốn 
sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào 
vốn vay. 
Xuất phát từ nh ng khó khăn và 
nhu cầu của SMEs hiện nay, cụ thể là 
tại tỉnh Đồng Nai về nhu cầu nguồn 
vốn để phục vụ hoạt động sản xuất 
kinh doanh, nghiên cứu này được thực 
hiện với mục đích tìm hiểu nhu cầu 
vay vốn ngân hàng của SMEs tại địa 
bàn tỉnh Đồng Nai, xác định các yếu 
tố ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn 
ngân hàng và tầm quan trọng của 
nh ng yếu tố này đến nhu cầu vay đối 
với khối doanh nghiệp này. Từ kết 
quả nghiên cứu đạt được, tác giả đưa 
ra một số khuyến nghị đối với ngân 
hàng nhằm hỗ trợ vốn cho các SMEs 
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. 
2. Các nghiên cứu liên quan 
Theo “L thuyết trật tự phân hạng” 
(Pecking order theory), khi lựa chọn 
các nguồn vốn đề tài trợ cho các hoạt 
động của mình, các doanh nghiệp 
thường ưu tiên sử dụng các nguồn nội 
bộ, kế đến là nợ vay và cuối cùng là 
phát hành cổ phiếu mới. Theo Myers 
và Majluf [3], các nhà quản l doanh 
nghiệp thường cân nhắc các nguồn tài 
trợ theo thứ tự: (1) tự tài trợ; (2) nợ 
không rủi ro; (3) nợ có rủi ro và (4) 
tăng vốn. 
Trong nghiên cứu của Michaelas 
và cộng sự [4] cho thấy doanh nghiệp 
có lợi nhuận cao lại muốn vay nhiều 
hơn do chi phí lãi vay được tính vào 
chi phí khi xác định thu nhập chịu 
thuế, lãi vay là một trong nh ng lá 
chắn thuế sẽ làm gia tăng lợi nhuận 
khi doanh nghiệp đi vay và sử dụng 
vốn vay có hiệu quả. Hơn thế n a, lợi 
nhuận của doanh nghiệp cao phản ánh 
cơ hội kinh doanh tốt khiến doanh 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
109 
nghiệp muốn đi vay vốn để mở rộng 
quy mô. Do vậy tác động của lợi 
nhuận đối với nhu cầu vay vốn có tính 
hỗn hợp. Nhưng đối với các SMEs, 
các nguồn vốn này thường rất hạn chế 
nên sau khi sử dụng hết nguồn vốn 
chủ sở h u các doanh nghiệp phải nhờ 
đến nguồn vốn từ bên ngoài. Do đó 
nhu cầu vay vốn đối với các SMEs lại 
càng gia tăng. Tuy nhiên, các nguồn 
vốn từ bên ngoài phụ thuộc vào nhiều 
yếu tố khác như: định hướng phát 
triển kinh tế; tiếp cận hỗ trợ tài chính 
công bao gồm bảo lãnh; lợi nhuận thu 
được trong tương lai từ các phương án 
kinh doanh; vốn tự có của công ty; 
lịch sử tín dụng của công ty và các ưu 
đãi cho vay của ngân hàng. Ngoài ra, 
khi nhu cầu vốn để tận dụng các cơ 
hội đầu tư cao hơn khả năng tự tài trợ 
và các nguồn vốn có chi phí thấp, 
doanh nghiệp sẽ vay từ bên ngoài mà 
chủ yếu từ các ngân hàng thương mại 
vì đây là nguồn có chi phí tương đối 
thấp so với việc phát hành cổ phiếu. 
Tại Việt Nam, nghiên cứu của 
Nguyễn Thanh Cường [5] thực hiện 
đối với 302 doanh nghiệp từ 2004 - 
2008, đối với ngành thủy sản Việt 
nam (SEAs) so sánh với nh ng doanh 
nghiệp thuộc các ngành công nghiệp 
chế biến khác (DIFs). Kết quả nghiên 
cứu cho thấy cấu trúc vốn có sự khác 
biệt gi a SEAs và DIFs. Quy mô và 
giá trị tài sản thế chấp là nh ng nhân 
tố được tìm thấy thực sự ảnh hưởng 
đến cấu trúc vốn ở cả SEAs và DIFs. 
Đối với SEAs, các nhân tố khả năng 
sinh lời, tăng trưởng, chi phí giao dịch 
và chi phí sử dụng nợ có ảnh hưởng 
đến cấu trúc vốn và đóng vai trò thiết 
yếu. Còn đối với DIFs, các nhân tố rủi 
ro phá sản và tuổi của doanh nghiệp 
đóng vai trò thiết yếu. Về quan hệ 
tương tác, quy mô và giá trị tài sản thế 
chấp đóng vai trò quan trọng trong 
việc giải thích sự khác biệt gi a cấu 
trúc vốn của các SEAs so với cấu trúc 
vốn của các DIFs. Các nhân tố ảnh 
hưởng đến cấu trúc vốn ở các SEAs 
và DIFs ít thay đổi theo thời gian. 
Nguyễn Thanh Cường [5] cho rằng 
SEAs cần quan tâm quy mô, tài sản 
thế chấp, khả năng sinh lời và tốc độ 
tăng trưởng doanh nghiệp nhằm đối 
phó với nh ng cú sốc về sự thay đổi 
lãi suất ngân hàng. Trần Hùng Sơn [6] 
cho thấy các doanh nghiệp điều chỉnh 
t lệ nợ mục tiêu của mình dựa trên 
lợi nhuận, t lệ tài sản cố định, quy 
mô và các cơ hội tăng trưởng của 
doanh nghiệp. 
Nhìn chung, các nghiên cứu này 
đề cập đến vấn đề tài trợ các nguồn 
vốn trong doanh nghiệp bằng vốn vay 
sau phương án tài trợ bằng nguồn vốn 
tự có hoặc lợi nhuận gi lại. Có thể 
thấy, nhu cầu vay vốn ngân hàng là 
thiết yếu trong quá trình sản xuất kinh 
doanh của các SMEs nói riêng và 
doanh nghiệp nói chung. 
3. Cơ sở lý thuyết 
3.1. Tiêu chuẩn doanh nghiệp nhỏ 
và vừa 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
110 
Tiêu chuẩn phân loại SMEs 
thường được quyết định bởi mục đích 
thiết lập tiêu chuẩn. Ở nhiều quốc gia, 
phương thức phân loại SMEs thường 
căn cứ vào các tiêu chuẩn như số 
lượng nhân viên, tổng số vốn, tổng số 
tài sản, thị phần của doanh nghiệp 
Theo Ngân hàng thế giới (WB) và 
công ty tài chính quốc tế (IFC) thì 
SMEs là các doanh nghiệp có quy mô 
vốn, lao động và doanh thu nhỏ bé. 
Căn cứ vào khái niệm trên thì SMEs 
được chia làm 3 loại: doanh nghiệp 
siêu nhỏ (các doanh nghiệp có không 
quá 10 lao động, tổng giá trị tài sản 
hoặc nguồn vốn không quá 100.000 
USD); doanh nghiệp nhỏ (các doanh 
nghiệp có không quá 50 lao động, 
tổng giá trị tài sản hoặc nguồn vốn 
không quá 3.000.000 USD và tổng 
doanh thu hằng năm không quá 
3.000.000 USD); doanh nghiệp vừa 
(doanh nghiệp có không quá 300 lao 
động, tổng giá trị tài sản và nguồn 
vốn không quá 15.000.000 USD và 
tổng doanh thu hằng năm không quá 
15.000.000 USD). 
Theo khối EU, SMEs là nh ng 
doanh nghiệp có dưới 250 lao động 
được chia thành 3 loại sau: doanh 
nghiệp siêu nhỏ (có dưới 10 lao động, 
doanh số 2 triệu Euro, tổng tài sản 2 
triệu Euro); doanh nghiệp nhỏ (có từ 
10 lao động đến dưới 50 lao động, 
doanh số 10 triệu Euro, tổng tài sản 10 
triệu Euro); doanh nghiệp vừa (có từ 
50 đến dưới 250 lao động, doanh số 50 
triệu Euro, tổng tài sản 43 triệu Euro). 
Tại Việt Nam, theo Nghị định số 
56/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày 
30/06/2009 thì SMEs là cơ sở kinh 
doanh đã đăng k kinh doanh theo quy 
định pháp luật, được chia thành ba cấp: 
siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng 
nguồn vốn, cụ thể được trình bày ở 
bảng 1. 
Bảng 1: Phân loại SMEs theo khu vực kinh tế tại Việt Nam 
 Quy mô 
Khu vực 
DN siêu 
nhỏ 
DN nhỏ DN vừa 
Số lao 
động 
Tổng 
nguồn vốn 
Số lao 
động 
Tổng 
nguồn vốn 
Số lao 
động 
I. Nông, lâm 
nghiệp và 
thủy sản 
10 người 
trở xuống 
20 t đồng 
trở xuống 
từ trên 10 
người đến 
200 người 
từ trên 20 
t đồng đến 
100 t 
đồng 
từ trên 
200 
người đến 
300 
người 
II. Công 
nghiệp và xây 
dựng 
III. Thương 
mại và dịch 
vụ 
10 người 
trở xuống 
20 t đồng 
trở xuống 
từ trên 10 
người đến 
50 người 
từ trên 10 
t đồng đến 
50 t đồng 
từ trên 50 
người đến 
100 
người 
(Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ ) 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
111 
Theo Nghị Định số 56/2009/NĐ-
CP phân loại các SMEs tại Việt Nam 
là khái niệm được dùng trong bài 
nghiên cứu này. 
3.2. Tín dụng ngân hàng 
Tín dụng ngân hàng là giao dịch 
tài sản gi a ngân hàng (TCTD) với 
bên đi vay (là các tổ chức kinh tế, cá 
nhân trong nền kinh tế) trong đó ngân 
hàng (TCTD) chuyển giao tài sản cho 
bên đi vay sử dụng trong một thời 
gian nhất định theo thỏa thuận và bên 
đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều 
kiện cả vốn gốc và lãi cho ngân hàng 
(TCTD) khi đến hạn thanh toán. 
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 
47/2010/QH12 thì: (i) cấp tín dụng là 
việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử 
dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho 
phép sử dụng một khoản tiền theo 
nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ 
cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, 
bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và 
các nghiệp vụ cấp tín dụng khác; (ii) 
cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo 
đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao 
cho khách hàng một khoản tiền để sử 
dụng vào mục đích xác định trong một 
thời gian nhất định theo thỏa thuận với 
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. 
Trong nghiên cứu này, vay vốn được 
hiểu là việc ngân hàng cấp tín dụng 
cho các SMEs. 
3.3. Nhu cầu vay vốn 
Trong quá trình hoạt động doanh 
nghiệp cần đầu tư vốn vào tài sản lưu 
động và tài sản cố định. Nguồn vốn để 
đầu tư vào tài sản lưu động có thể là 
nguồn vốn ngắn hạn hoặc dài hạn. Tuy 
nhiên do nhu cầu về vốn dài hạn để 
đầu tư vào tài sản cố định rất lớn nên 
thông thường doanh nghiệp khó có thể 
sử dụng nguồn vốn dài hạn để đầu tư 
vào tài sản lưu động. Do vậy để đầu tư 
vào tài sản lưu động, doanh nghiệp 
thường sử dụng nguồn vốn ngắn hạn 
bao gồm: các khoản nợ phải trả người 
bán, khoản ứng trước của người 
mua và vay ngắn hạn từ ngân hàng. 
Các doanh nghiệp thường huy 
động tất cả nguồn vốn ngắn hạn mà 
doanh nghiệp có thể tận dụng được, 
khi còn thiếu hụt thì doanh nghiệp sẽ 
sử dụng nguồn tài trợ ngắn hạn của 
ngân hàng. Sự thiếu hụt vốn ngắn hạn 
của doanh nghiệp có thể do sự chênh 
lệch về thời gian và doanh số gi a 
tiền thu bán hàng và tiền đầu tư vào 
tài sản lưu động hoặc do nhu cầu gia 
tăng đầu tư tài sản lưu động đột biến 
theo thời vụ. Theo Nguyễn Minh Kiều 
(2014) [7] thì nhu cầu tài trợ ngắn hạn 
của doanh nghiệp có thể chia thành: 
(i) nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường 
xuyên và (ii) nhu cầu tài trợ ngắn hạn 
thời vụ. Nhu cầu tài trợ thường xuyên 
do đặc điểm luân chuyển vốn của 
doanh nghiệp quyết định trong khi 
nhu cầu tài trợ thời vụ do đặc điểm 
thời vụ của ngành sản xuất kinh 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
112 
doanh quyết định. Nhu cầu tài trợ 
ngắn hạn thường xuyên xuất phát từ 
sự chênh lệch nhau về thời gian và 
quy mô gi a tiền vào và tiền ra của 
doanh nghiệp. Nếu dòng tiền chi ra 
lớn hơn dòng tiền thu vào, doanh 
nghiệp cần bổ sung thiếu hụt. Khoản 
tiền này trước hết bổ sung từ nguồn 
vốn chủ sở h u và các khoản nợ phải 
trả khác mà doanh nghiệp có thể huy 
động được. Phần còn lại doanh nghiệp 
sẽ sử dụng tài trợ ngắn hạn của ngân 
hàng. Nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời 
vụ xuất phát từ đặc điểm thời vụ của 
sản xuất kinh doanh khiến cho nhu 
cầu vốn ngắn hạn tăng đột biến. 
Tóm lại, trong quá trình hoạt động 
thì doanh nghiệp có nhu cầu tài trợ 
ngắn hạn, dài hạn, thường xuyên hoặc 
thời vụ, từ ngân hàng. Việc cấp tín 
dụng của ngân hàng giúp doanh 
nghiệp bổ sung vốn thiếu hụt đảm bảo 
cho doanh nghiệp có thể duy trì hoạt 
động và mở rộng sản xuất kinh doanh. 
3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến 
nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp 
Quy mô doanh nghiệp: quy mô 
doanh nghiệp đang tác động tích cực 
đến việc sử dụng nguồn vốn bên 
ngoài (Bahaird và Lucey 8]). Các 
doanh nghiệp tư nhân thường có cơ 
cấu tổ chức đơn giản, sản xuất kinh 
doanh nh ng hàng hóa, dịch vụ truyền 
thống, đơn giản và có quy mô hoạt 
động nhỏ so với các loại hình doanh 
nghiệp khác nên nhu cầu vốn của họ 
cũng có thể nhỏ hơn các công ty trách 
nhiệm h u hạn hay công ty cổ phần 
(Trương Văn Khánh [9]). Trên thực 
tế, các SMEs có nhu cầu về vốn 
không chỉ trong gian đoạn thành lập 
mà còn trong quá trình mở rộng quy 
mô sản xuất, đa phần các công ty cho 
rằng nguồn vốn nội bộ để thực hiện 
mở rộng sản xuất kinh doanh là không 
đủ mà cần phải có nguồn tài trợ từ 
bên ngoài. 
Thời gian hoạt động: Nếu các 
doanh nghiệp có kết quả kinh doanh 
tốt và thời gian kinh doanh càng dài 
thì các doanh nghiệp này có thể tự tài 
trợ vốn cho mình bằng nguồn lợi 
nhuận gi lại hằng năm. Adaskou [10] 
cho rằng số năm hoạt động của doa ...  đề ra, ngoài d liệu thứ cấp, tác giả 
sử dụng phiếu khảo sát và tiến hành 
qua hai bước chính: (1) nghiên cứu sơ 
bộ; và (2) nghiên cứu chính thức để 
thu thập d liệu sơ cấp. Cuộc khảo sát 
chính thức được thực hiện trong tháng 
3/2018 đối với các cán bộ lãnh đạo: 
Quy mô 
Ngành nghề kinh doanh 
Giá trị tài sản cố định 
Thời gian hoạt động 
Nhu cầu vay vốn 
của SMEs 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
114 
trưởng/phó các phòng ban/bộ phận, 
nh ng người có tham gia vào công tác 
vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp. 
Tổng cộng có 250 phiếu in được gửi 
đi khảo sát, kết quả thu về được 215 
phiếu in (đạt tỉ lệ 86%). Sau khi lọc 
d liệu, còn 208 quan sát hợp lệ. Nội 
dung các biến quan sát được trình bày 
trong bảng 2. 
Bảng 2: Mã hóa các biến quan sát 
Nhân tố Nội dung thang đo Mã hóa 
Ngành nghề 
(NN) 
Các SMEs hoạt động trong ngành nông lâm thủy sản có 
nhu cầu vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất hàng hóa 
xuất khẩu 
NN1 
Các SMEs hoạt động trong ngành xây dựng có nhu cầu 
vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ đầu tư xây dựng 
cơ bản 
NN2 
Các SMEs hoạt động trong ngành thương mại và dịch 
vụ có nhu cầu vay vốn để bổ sung vốn lưu động 
NN3 
Các SMEs hoạt động trong ngành vận tải có nhu cầu 
vay trong việc tăng cường phương tiện giao thông đáp 
ứng nhu cầu khách hàng 
NN4 
Các SMEs hoạt động trong ngành công nghiệp có nhu 
cầu vay để đầu tư công nghệ mới 
NN5 
Các SMEs hoạt động trong các ngành khác cũng có nhu 
cầu vay cao để phục vụ hoạt động 
NN6 
Quy mô 
(QM) 
Các SMEs có quy mô hoạt động nhỏ hơn so với các loại 
hình doanh nghiệp khác nên có nhu cầu vay vốn ít hơn 
QM1 
Các SMEs có quy mô nhỏ hơn có khả năng phải đối 
mặt với chi phí tài chính cao hơn 
QM2 
Vốn điều lệ cao thì nhu cầu vay cao QM3 
Các SMEs phát sinh doanh thu cao thì nhu cầu vay 
cũng cao 
QM4 
Các SMEs phát sinh chi phí cao thì nhu cầu vay cũng 
cao 
QM5 
Thời gian 
hoạt động 
(TG) 
Các SMEs có thời gian hoạt động trên 5 năm có thể tự 
tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình bằng vốn tự 
có nên ít có nhu cầu vay vốn 
TG1 
Các SMEs có thời gian hoạt động trên 10 năm có thể tự 
tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình bằng vốn tự 
có nên không có nhu cầu vay vốn 
TG2 
Các SMEs mới thành lập có nhu cầu vay vốn nhiều hơn 
các doanh nghiệp đã có thời gian hoạt động lâu dài 
TG3 
Các SMEs mới thành lập thì khó vay vốn ngân hàng TG4 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
115 
Nghiên cứu sử dụng một số 
phương pháp phân tích d liệu được 
áp dụng khá phổ biến trong các nghiên 
cứu thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội 
như: đánh giá độ tin cậy của các thang 
đo, phân tích nhân tố khám phá (EFA), 
và phân tích hồi quy tuyến tính. 
4. Kết quả nghiên cứu 
4.1. Kết quả thống kê mô tả 
Các đối tượng khảo sát được thể 
hiện qua biểu đồ 1, là phần thống kê 
mô tả cho m u nghiên cứu cho thấy 
rằng m u khảo sát đủ điều kiện đại diện 
cho tổng thể nghiên cứu. Vì dung lượng 
bài báo bị giới hạn theo quy định nên 
tác giả không phân tích kỹ hơn về kết 
quả có được trong biểu đồ 1. 
Biểu đồ 1: Thống kê mô tả đối tượng khảo sát 
4.2. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA 
Các SMEs hoạt động có tính thời vụ thì nhu cầu vay 
càng cao 
TG5 
Các SMEs có chu kỳ sản xuất kinh doanh càng dài thì 
nhu cầu vay càng cao 
TG6 
Giá trị tài 
sản cố định 
(TSCĐ) 
Các SMEs luôn có đủ tài sản thế chấp, cầm cố để vay 
vốn ngân hàng 
TSCĐ1 
Giá trị tài sản cố định càng cao trong tổng tài sản thì 
nhu cầu vay càng lớn 
TSCĐ2 
Tài sản cố định được hình thành từ nguồn vốn chủ sở 
h u càng ít thì nhu cầu vay càng cao 
TSCĐ3 
Nhu cầu 
vay vốn 
(NCV) 
SMEs có nhu cầu vay với sự hỗ trợ lãi suất của ngân 
hàng 
NCV1 
Thủ tục hành chính ảnh hưởng đến việc vay vốn ngân 
hàng của doanh nghiệp 
NCV2 
Các ngân hàng chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay vốn 
của DN 
NCV3 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
116 
Các thang đo trước hết được phân 
tích độ tin cậy bằng hệ số Cronbach’s 
Alpha, kết quả phân tích nếu thang đo 
đều thỏa các tiêu chí: Cronbach’s 
Alpha 0,6; Hệ số tương quan biến 
tổng của từng thành phần 0,3 (Nguyễn 
Đình Thọ [12]) thì thang đo đảm bảo 
độ tin cậy. Kết quả phân tích nhân tố 
EFA cho thấy tất cả có 5 yếu tố được 
trích tại giá trị eigenvalue là 1,613 và 
phương sai trích được là 62,09%. Kết 
quả kiểm định cho thấy phân tích 
nhân tố là phù hợp, hệ số KMO của 
kiểm định Bartlett bằng 0,672 với giá 
trị sig = 0,000. Như vậy, phương pháp 
EFA được dùng trong nghiên cứu này 
là phù hợp (bảng 3). 
4.3. Kết quả phân tích hồi quy 
tuyến tính 
Với 208 SMEs được khảo sát, giá 
trị trung bình của biến “Nhu cầu vay 
vốn” (NCV) của các SMEs trong m u 
là 3,814 trong thang điểm 5. Như vậy, 
thực sự thì nhu cầu vay vốn của 
SMEs tại tỉnh Đồng Nai cần phải 
được quan tâm. Và nhân tố nào đã 
ảnh hưởng đến khả năng này? Tầm 
quan trọng của mỗi nhân tố ra sao? 
Để giải đáp nh ng vấn đề này, tác giả 
sử dụng phân tích hồi quy tuyến tính 
đa biến với mô hình hồi quy trong 
nghiên cứu này được thể hiện như 
sau: Biến phụ thuộc: NCV - Nhu cầu 
vay vốn của SMEs; Các biến độc lập: 
QM - Quy mô; NN - Ngành nghề; 
TSCĐ - Giá trị tài sản cố định; TG - 
Thời gian. 
Nghiên cứu tiến hành chạy phân 
tích nhân tố EFA, kết quả phân tích 
Factor loading lần 1 cho kết quả biến 
NN5 và NN6 có giá trị nhỏ hơn 0,5 
nên tiến hành loại bỏ biến này, đồng 
thời chạy lại EFA lần 2 với kết quả 
được trình bày tại bảng 3 như sau: 
Bảng 3: Kết quả phân tích EFA 
Biến Component 
NN1 ,785 
NN3 ,679 
NN2 ,731 
NN4 ,692 
QM4 ,648 
QM2 ,705 
QM1 ,692 
QM3 ,503 
QM5 ,743 
QM6 ,632 
TG3 ,619 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
117 
TG2 ,585 
TG2 ,748 
TG5 ,683 
TG4 ,798 
TG6 ,745 
TSCĐ2 ,762 
TSCĐ1 ,684 
TSCĐ3 ,563 
NCV2 ,628 
NCV1 ,715 
NCV3 ,650 
Từ kết quả phân tích EFA (bảng 
3), tác giả tiến hành chạy phân tích 
kết quả hồi quy được trình bày trong 
bảng 4. Kết quả hồi quy cho thấy các 
biến độc lập đều có nghĩa thống kê, 
tức là đều có tác động đáng kể đối với 
nhu cầu vay vốn của các SMEs tại 
Đồng Nai. 
Bảng 4: Hệ số hồi quy (HSHQ) 
Biến 
HSHQ chưa 
chuẩn hóa 
HSHQ 
chuẩn hóa 
Mức ý 
nghĩa 
Hệ số phóng 
đại VIF 
B Sai số Beta 
Cons. 0,053 0,001 0,000 
NN 0,257 0,045 0,235 0,000 1,304 
QM 0,309 0,021 0,398 0,002 2,070 
TSCĐ 0,471 0,018 0,253 0,000 1,332 
TG 0,152 0,015 0,168 0,001 1,961 
Tầm quan trọng của nhu cầu vay 
vốn của các SMEs tại tỉnh Đồng Nai 
được xếp theo thứ tự giảm dần và 
mức độ đánh giá trong thang điểm 5 
được thể hiện trong bảng 5. 
Bảng 5: Tầm quan trọng và mức độ đánh giá 
Quan trọng Nhân tố Hệ số hồi quy Mức độ đánh giá 
1-QM Quy mô 0,398 4,152 
2-NN Ngành nghề kinh doanh 0,235 3,705 
3-TSCĐ Giá trị tài sản cố định 0,253 2,457 
4-TG Thời gian hoạt động 0,168 3,125 
Như vậy, trong các nhân tố được 
khảo sát, nhân tố “quy mô” được đánh 
giá cao hơn 4 điểm trong thang điểm 
5 (đạt 4,152/5,00); điều này là phù 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
118 
hợp với thực tiễn các doanh nghiệp 
SMEs hiện nay, kết quả này cho thấy 
mỗi doanh nghiệp được khảo sát đều 
cho rằng quy mô của SMEs có ảnh 
hưởng lớn đến nhu cầu vay vốn. 
Trong khi đó 2 nhân tố được đánh ở 
mức trung bình (3 điểm) ảnh hưởng 
đến nhu cầu vay vốn là ngành nghề 
kinh doanh và thời gian hoạt động. 
Duy nhất có một nhân tố là giá trị tài 
sản cố định được đánh giá là dưới 
trung bình (2,457). Để tìm hiểu 
nguyên nhân của hiện tượng này, tác 
giả tiến hành các kiểm định t-test và 
one-way Anova test về sự bằng nhau 
của giá trị trung bình của tiêu thức 
nhu cầu cho vay theo tiêu thức ngành 
nghề kinh doanh (vận tải; xây dựng; 
nông lâm, thủy, hải sản; thương mại 
dịch vụ; SMEs khác). Kết quả cho 
thấy có sự khác biệt có nghĩ thống 
kê về nhu cầu vay của SMEs gi a các 
ngành, cụ thể ngành Thương mại và 
dịch vụ (4,26/5,00), ngành Xây dựng 
(3,25/5,00), ngành Vận tải (2,94/5,00) 
và ngành Nông - lâm - thủy sản 
(2,35/5,00). 
5. Thảo luận và kết luận 
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy 
SMEs có nhu cầu tiếp cận với nguồn 
vốn tín dụng ngân hàng là rất lớn, tuy 
nhiên trên thực tế hoạt động cho vay 
đối với các SMEs còn nhiều hạn chế, 
v n còn rất nhiều doanh nghiệp không 
tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng 
trong khi nguồn cung v n còn khoảng 
10.000 t đồng (Ngân hàng Nhà nước 
chi nhánh Đồng Nai, 2017). Kết quả 
nghiên cứu cũng cho thấy quy mô 
SMEs càng phát triển thì nhu cầu vay 
càng tăng so với các doanh nghiệp có 
quy mô nhỏ. Ngoài ra, các doanh 
nghiệp kinh doanh các ngành nghề 
khác nhau thì nhu cầu vay vốn khác 
nhau, đặc biệt nhu cầu vay vốn này là 
cao đối với ngành Thương mại và 
dịch vụ, kế đến là ngành Xây dựng, 
vận tải và Nông - lâm - thủy sản. 
Đặc thù của các SMEs thường có 
giá trị tài sản cố định là thấp trong 
tổng nguồn vốn, d n đến giá trị đảm 
bảo không cao khi dùng để thế chấp 
vay vốn tại ngân hàng. Kết quả 
nghiên cứu cũng cho thấy đối với các 
SMEs có tài sản hình thành từ vốn 
chủ sở h u càng thấp thì nhu cầu vay 
càng cao. Đây là trở ngại lớn nhất khi 
tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng của 
nhóm doanh nghiệp này, khi ngân 
hàng thẩm định tài sản đảm thế chấp 
để đảm bảo cho các khoản vay. Đặc 
biệt là đối với các SMEs của ngành 
Thương mại và dịch vụ thì giá trị tài 
sản cố định trong doanh nghiệp thường 
không cao so với các ngành khác, 
nhưng nhu cầu vay lại cao nhất trong 
các nhóm ngành kinh doanh được 
khảo sát. Do đó các ngân hàng có thể 
xử l linh động đối với các khoản cho 
vay đối với nhóm SMEs như: có thể 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
119 
miễn giảm các phí dịch vụ trong quá 
trình thanh toán của các SMEs, hoặc 
có thế chấp bằng hàng hóa với t lệ thế 
chấp tốt có lưu đến lịch sử tín dụng 
và trả nợ với ngân hàng ngoài việc 
xem xét đến tính khả thi của dự án, 
phương án kinh doanh của doanh 
nghiệp, để có thể tháo gỡ khó khăn về 
nhu cầu vay vốn của các SMEs hiện 
nay. Theo Ngân hàng Nhà nước chi 
nhánh Đồng Nai năm 2017 thì mặt 
bằng lãi suất cho vay phổ biến đối với 
các lĩnh vực ưu tiên là 6-6,5%/năm đối 
với ngắn hạn, trung và dài hạn 9-
10%/năm. Lãi suất cho vay các lĩnh 
vực sản xuất kinh doanh thông thường 
ở mức 6,8-9%/năm đối với ngắn hạn; 
9,3-11%/năm đối với trung và dài hạn. 
Đối với nhóm khách hàng tốt, tình 
hình tài chính lành mạnh, minh bạch, 
lãi suất cho vay ngắn hạn từ 4-
5%/năm. Lãi suất cho vay USD phổ 
biến ở mức 2,8-6,0%/năm. Như vậy, 
có thể nói lãi suất cho vay đã ở mức 
thấp, tuy nhiên kết quả nghiên cứu 
cũng cho thấy thủ tục hành chính của 
ngân hàng còn rườm rà, thời gian để 
nguồn vốn vay đến SMEs còn chưa 
kịp thời. Do đó việc điều chỉnh các 
chính sách cho vay kết hợp với đơn 
giản hóa thủ tục cho vay gắn liền với 
các chính sách ưu đãi về các khoản phí 
dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn là 
điều cần quan tâm đối với các ngân 
hàng hiện nay. 
Theo kết quả nghiên cứu thì thời 
gian hoạt động ảnh hưởng thấp nhất 
đến nhu cầu vay, tuy nhiên yếu tố này 
cũng có tác động cùng chiều đến nhu 
cầu vay vốn. Nghĩa là các SMEs càng 
thành lập lâu thì nhu cầu vay vốn càng 
tăng. Ngoài ra, các ngân hàng cũng nên 
chú trọng đến các SMEs mới thành lập, 
vì từ năm 2015 đến nay tỉnh Đồng Nai 
đang áp dụng cơ chế đặc thù tập trung 
hỗ trợ xúc tiến đầu tư đến các nhà đầu 
tư FDI có dự án mới, gắn với việc 
thành lập SMEs tại Đồng Nai. Nhóm 
đối tượng doanh nghiệp này thường 
không có điều kiện tiếp cận tốt với 
chính quyền địa phương do quy mô 
đầu tư nhỏ, bất đồng ngôn ng , thời 
gian hoạt động chưa lâu. Do đó các 
ngân hàng cần lưu và có các chiến 
lược kinh doanh đối với đối tượng này, 
khi xét duyệt các khoản cấp tín dụng 
để đáp ứng nhu cầu vay ngày càng cao 
của các SMEs. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Phạm Thái Hà (2018), “Chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở 
một số quốc gia và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Tài chính 2/05/2018. 
chinh-ho-tro-doanh-nghiep-nho-va-vua-o-mot-o-quoc -gia-va-bai-hoc-cho-viet-nam-
137964.html 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
120 
2. Báo cáo tổng kết của Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh Tỉnh Đồng Nai (2017) - 
Báo cáo nội bộ 
3. Myers, S., C. & Majluf, N, S. (1984), “Corporate financing and investment 
decisions when firms have information that investors do not have”, Journal of 
Financial Economics, Vol: 13, pp 113-130 
4. Michaelas, N., Chittenden, F. & Poutziouris, P. (1999), Financial Policy and 
Capital Structure Choice in U.K. SMEs: Empirical Evidence from Company Panel 
Data, Small Business Economics, vol 12, pp: 113-130 
5. Nguyễn Thanh Cường (2011), “Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của 
các doanh nghiệp chế biến thu sản Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Khoa học và 
Công nghệ, T.14, S.3Q 
6. Trần Hùng Sơn (2011), “Đặc điểm doanh nghiệp và tốc độ điều chỉnh cấu trúc 
vốn mụ c tiêu của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp niêm yết tại Việt Nam”, 
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, T.14, S.1Q 
7. Nguyễn Minh Kiều (2014), Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng, NXB 
Tài Chính, Hà Nội 
8. Bhaird CM & Brian L (2010), “Determinants of capital structure in Irish 
SMEs”, J. Small Bus. Econ, vol: 35, pp: 357-375 
9. Trương Văn Khánh (2013), “Hiệu quả hoạt động quỹ bảo lãnh tín dụng đối 
với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, trường Đại học 
Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh 
10. Adaskou, M. (2009), Les deùterminants de la structure financieøre des PME: 
une application eùconomeùtrique sur un panel d'entreprises françaises. Universiteù Paris 
11. Pickernell D, Julienne S, Paul J Gary P and Elaine R (2013), “New and 
Young firms Entreprenneurship policy and the role of government evidence from the 
Federation of Smal Bussinesses servey”, J. Small Bus, Enterprise Dev, vol 20, pp: 
358-382 
12. Nguyễn Đình Thọ (2013), Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh 
doanh, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội 
FACTORS AFFECTING DEMAND FOR LOANS OF SMALL AND 
MEDIUM ENTERPRISE (SMEs) IN DONG NAI PROVINCE 
ABSTRACT 
Over the past few years, factors affecting demand for loans are increasing 
with the increase in quantity of Small and Medium Enterprise (SMEs). To have 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482 
121 
proper solutions to the problem of solving demands for loans, this paper 
investigates the factors that affect the demand for loans of SEMs in Dong Nai 
province. The research method uses descriptive statistics and multiple linear 
regression analysis from an official survey of 208 in SMEs, which showed that 
there were four factors influencing the demand for loans, including: (1) size; (2) 
business lines; (3) value of fixed assets; (4) Operation time. Such findings 
provide recommendations for bank managers to create proper policies of loans 
for SMEs ,which serves the development of SMEs as well as banks. 
Keywords: Demand for loans, small and medium enterprise (SMEs), Dong 
Nai Province 
(Received: 23/7/2018, Revised: 3/8/2018, Accepted for publication: 18/9/2018) 

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_anh_huong_den_nhu_cau_vay_von_cua_cac_doanh_nghie.pdf