Các phương thức quan hệ kinh tế quốc tế - Lịch sử và hiện tại

Trong quá trình phát triển, nền kinh tế thế giới trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác

nhau, tuỳ theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ xã hội. Xét một cách tổng thể có

thể phân kỳ phát triển nền kinh tế thế giới với các giai đoạn như sau: Giai đoạn xuất hiện nền kinh

tế thế giới; giai đoạn tồn tại nền kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa thống nhất trên phạm vi toàn

thế giới; giai đoạn nền kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa thống nhất bị phá vỡ do sự xuất hiện của

nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và giai đoạn hiện nay. Theo đó, quan hệ kinh tế quốc tế

nói riêng, nền kinh tế thế giới nói chung trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau với những

phương thức quan hệ kinh tế quốc tế khác nhau và được thể hiện qua sự khái quát của các nhà kinh

tế học.

pdf 8 trang kimcuc 14020
Bạn đang xem tài liệu "Các phương thức quan hệ kinh tế quốc tế - Lịch sử và hiện tại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các phương thức quan hệ kinh tế quốc tế - Lịch sử và hiện tại

Các phương thức quan hệ kinh tế quốc tế - Lịch sử và hiện tại
67
Các phương thức . . .
1. Phương thức quan hệ kinh tế quốc tế 
trong lý luận của các nhà kinh điển
Theo phân kỳ lịch sử hình thành và phát 
triển của nền kinh tế thế giới, giai đoạn xuất 
hiện nền kinh tế thế giới rơi vào thời kỳ tư 
bản chủ nghĩa tự do cạnh tranh, giai đoạn 
phát triển thứ hai của nền kinh tế thế giới ở 
vào thời kỳ chủ nghĩa đế quốc bắt đầu từ cuối 
thế kỷ XIX, theo đó lý luận của các nhà kinh 
điển mácxít về quan hệ kinh tế quốc tế cũng 
CÁC PHƯƠNG THỨC QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ - LỊCH SỬ VÀ HIỆN TẠI
 Trần Đĕng Thịnh*
TÓM TẮT
Trong quá trình phát triển, nền kinh tế thế giới trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác 
nhau, tuỳ theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ xã hội. Xét một cách tổng thể có 
thể phân kỳ phát triển nền kinh tế thế giới với các giai đoạn như sau: Giai đoạn xuất hiện nền kinh 
tế thế giới; giai đoạn tồn tại nền kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa thống nhất trên phạm vi toàn 
thế giới; giai đoạn nền kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa thống nhất bị phá vỡ do sự xuất hiện của 
nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và giai đoạn hiện nay. Theo đó, quan hệ kinh tế quốc tế 
nói riêng, nền kinh tế thế giới nói chung trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau với những 
phương thức quan hệ kinh tế quốc tế khác nhau và được thể hiện qua sự khái quát của các nhà kinh 
tế học.
Từ khóa: Phương thức quan hệ, kinh tế quốc tế, lịch sử, hiện tạiMODES OF INTERNATIONAL ECONOMICS RELATION- PAST AND PRESENT
ABSTRACT
During the development, the economy worldwide experienced several stages, depending 
on the development of production forces and social relations. In general, we can divide the world 
economy into the following stages: the appearance of the world economy, worldwide capitalist 
economy, and worldwide capitalist economy was broken due to the appearance of the irst socialist 
economy country and the present stage. Accordingly, international economics relations in particular 
and the world economy in general experienced different stages of development with the different 
methods of international economics relations and are summarised by various generalisations of 
Economists. 
Key words: Modes of relation, international economic, history, present
* TS. GVC. Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh
68
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
được phản ánh một cách tập trung trong thời 
kỳ phát triển này của nền kinh tế thế giới.
Ở thời kỳ đầu của nền kinh tế thế giới, 
phân công lao động quốc tế từ chỗ còn mang 
tính chất sử dụng những sự khác biệt của điều 
kiện tự nhiên đã phát triển thành phân công 
lao động quốc tế tư bản chủ nghĩa được thực 
hiện thông qua buôn bán quốc tế. Dần dần, 
ngày càng nhiều nước và khu vực tham gia 
vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Tuy vậy, trong 
giai đoạn này, các quan hệ kinh tế quốc tế vẫn 
chưa mang tính chất thế giới một cách đầy 
đủ. Sự phát triển nhanh chóng của lực lượng 
sản xuất ở một số nước gắn liền với những cố 
gắng mở rộng thị trường và nơi tiêu thụ hàng 
hoá nhằm đạt lợi nhuận cao nhất. Đồng thời, 
phân công lao động quốc tế tư bản chủ nghĩa 
đã làm tĕng nhanh sự phát triển không đồng 
đều của chủ nghĩa tư bản, làm sâu sắc thêm 
sự cách biệt trình độ phát triển kinh tế giữa 
một nhóm nhỏ các nước công nghiệp phát 
triển với phần còn lại của thế giới.
Sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, phân 
công lao động quốc tế thế hiện trước hết là 
sự thống trị thị trường trong nước và ngoài 
nước của các liên minh độc quyền thế giới 
mạnh nhất. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: Giữa 
liên minh các nhà tư bản, đã được lập nên 
một số quan hệ nào đó dựa trên sự phân chia 
thế giới về mặt kinh tế, song song và tương 
đương với tình trạng đó, liên minh chính trị 
giữa các nhà nước với nhau, cũng được thành 
lập nên một số quan hệ nào đó dựa trên việc 
phân chia lãnh thổ thế giới, dựa trên cuộc đấu 
tranh giành thuộc địa, dựa trên cuộc đấu tranh 
thống nhất kinh tế. 
Trên cơ sở cuộc đấu tranh thống nhất kinh 
tế giữa các liên minh độc quyền, giữa các 
nước đế quốc, các phần còn lại của thế giới 
được lôi cuốn vào nền kinh tế thế giới và sự 
phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường 
quốc, đế quốc mạnh nhất cũng kết thúc và 
gia nhập các khu vực của thế giới vào một hệ 
thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa thống 
nhất trên cơ sở quan hệ giữa chính quốc và 
thuộc địa. Các quan hệ thực dân này đã khiến 
cho các cường quốc công nghiệp phát triển 
liên hệ chặt chẽ với lãnh thổ hải ngoại rộng 
lớn mà ở đó trình độ phát triển của lực lượng 
sản xuất còn rất thấp và tính chất của quan hệ 
sản xuất này mang tính chất của phương thức 
sản xuất trước chủ nghĩa tư bản.
Trong giai đoạn này, trong các nước tư 
bản công nghiệp phát triển đã diễn ra quá 
trình tập trung sản xuất vào tay các tổ chức 
độc quyền, gắn liền với việc tĕng nhanh 
chóng cấu tạo hữu cơ tư bản và nĕng suất lao 
động. Sản xuất công nghiệp tư bản chủ nghĩa 
tĕng lên nhanh chóng. Ngoài nước Anh, một 
số trung tâm sản xuất công nghiệp máy móc 
đã hình thành ở Pháp, Đức, Mỹ và một số 
nước Châu Âu khác. Ngược lại, ở một số 
nước thuộc địa và phụ thuộc cũng diễn ra quá 
trình lạc hậu và ngừng trệ về trình độ phát 
triển kinh tế như một hình thức đặc trưng của 
mâu thuẫn giữa tư bản và lao động trên phạm 
vi toàn thế giới. Theo đó, giai đoạn này xuất 
hiện một đặc trưng nổi bật trong quan hệ kinh 
tế quốc tế, trong nền kinh tế thế giới là xuất 
khẩu tư bản, trước hết là xuất khẩu tư bản từ 
chính quốc vào thuộc địa.
Như vậy, có thể nói trong hệ thống lý 
luận của các nhà kinh điển mácxít, quan hệ 
kinh tế quốc tế hay nói rộng hơn là nền kinh 
tế thế giới được phản ánh trong giai đoạn tự 
do cạnh tranh và độc quyền của chủ nghĩa 
tư bản, với các phương thức quan hệ kinh tế 
quốc tế phổ biến là thương mại quốc tế - chủ 
yếu là xuất, nhập khẩu hàng hoá (giai đoạn tự 
do cạnh tranh) và xuất khẩu tư bản (giai đoạn 
69
Các phương thức . . .
độc quyền). Xuất khẩu hàng hoá là đem hàng 
hoá ra nước ngoài để bán/tiêu thụ nhằm thực 
hiện giá trị và giá trị thĕng dư, nhưng thực 
chất là nhằm tối đa hoá lợi nhuận của những 
hàng hoá đã được sản xuất trong nước thông 
qua việc khai thác những lợi thế trong quan 
hệ thương mại quốc. Xuất khẩu tư bản là hoạt 
động đầu tư tư bản ra nước ngoài nhằm nâng 
cao tỷ suất và khối lượng lợi nhuận. Hay nói 
cách khác xuất khẩu tư bản là hoạt động tìm 
kiếm nơi đầu tư có lợi nhuận cao nhất cho 
mỗi một giá trị tư bản. Những phương thức 
quan hệ kinh tế quốc tế này vẫn tiếp tục phát 
triển cho đến hiện nay, song đa dạng hơn về 
hình thức thực hiện để tối đa hoá lợi ích từ 
các quan hệ kinh tế quốc tế hiện hành.
2. Phương thức quan hệ kinh tế quốc tế 
theo quan điểm hiện nay
Dưới sự tác động trực tiếp của khoa học 
- công nghệ và quá trình quốc tế hoá - toàn 
cầu hoá kinh tế (mà trực tiếp là sự chi phối 
mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia 
(TNCs) và các tổ chức kinh tế, thương mại 
quốc tế), nền kinh tế thế giới bước vào giai 
đoạn phát triển mới - nền kinh tế toàn cầu 
hoá, xu thế này xuất hiện từ 50 nĕm cuối thế 
kỷ XIX đến trước Chiến tranh thế giới thứ 
nhất, mặc dù quy mô và phạm vi còn hạn chế 
nhiều so với những giai đoạn sau này. ở giai 
đoạn này, xu thế toàn cầu hóa gắn liền với sự 
bành trướng thị trường của các nước tư bản 
chủ nghĩa thông qua việc xâm chiếm, giành 
giật thuộc địa, hình thành những khối thị 
trường khác nhau, biệt lập gồm chính quốc 
và thuộc địa. Trong thời kỳ từ Chiến tranh thế 
giới thứ nhất đến cuối thập niên 40 của thế kỷ 
XX, xu thế toàn cầu hóa kinh tế bị suy giảm 
do tác động nặng nề của hai cuộc chiến tranh 
thế giới và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 
1929 - 1933. Từ thập niên 50 đến cuối thập 
niên 70 của thế kỷ XX đã diễn ra sự bùng nổ 
xu thế toàn cầu hóa và rồi lại có phần lắng 
xuống vào cuối những nĕm 80 của thế kỷ 
XX, do sự tác động của cuộc khủng hoảng 
dầu lửa và kinh tế đầu những nĕm 70. Và, xu 
thế toàn cầu hóa, nhất là toàn cầu hoá kinh tế 
thực sự bùng lên mạnh mẽ từ cuối thập niên 
80 của thế kỷ XX đến nay. Cùng với sự kết 
thúc „chiến tranh lạnh” và sự sụp đổ mô hình 
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, thế 
giới đã có sự chuyển biến lớn: so sánh quyền 
lực giữa các trung tâm quyền lực đã có thay 
đổi - từ một trật tự thế giới hai cực với hai 
hệ thống chính trị - xã hội đối lập trước đây 
chuyển sang cục diện mới „nhất siêu, đưa 
cường”, không còn sự đối đầu trực tiếp giữa 
hai hệ thống chính trị - xã hội đối lập. Xu thế 
hòa bình, hợp tác, phát triển trở thành xu thế 
lớn của tình hình thế giới, đương nhiên trong 
đó có đấu tranh; hợp tác và đấu tranh đan xen 
lẫn nhau.
Toàn cầu hóa trước hết và chủ yếu là toàn 
cầu hóa kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế là sự 
dịch chuyển tự do các yếu tố của quá trình 
tái sản xuất từ nước này sang nước khác trên 
phạm vi toàn cầu bắt nguồn từ sự phát triển 
mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dẫn đến hình 
thành nền kinh tế toàn cầu. Theo đó, xuất hiện 
các quan niệm mới, cách tiến cận mới sáng 
tạo hơn, thích hợp hơn trong quan hệ kinh tế 
quốc tế, điển hình là xuất hiện xu hướng thừa 
nhận tính chất phụ thuộc lẫn nhau giữa các 
nền kinh tế quốc gia và thừa nhận „tính chất 
phẳng/ tính thống nhất” của nền kinh tế thế 
giới. Do đó, các phương thức quan hệ kinh 
tế quốc tế cũng không ngừng được phát triển 
mở rộng và đa dạng hơn. Điều đó được thể 
hiện ở chỗ:
- Các dòng hàng hóa, dịch vụ, kỹ thuật, 
vốn, nguồn nhân lực ngày càng vượt qua 
70
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
biên giới các quốc gia, chúng lưu thông trên 
phạm vi toàn cầu ngày càng tự do hơn.
- Sự liên kết chặt chẽ kinh tế của các nước 
trên thế giới thành các luồng phân phối lưu 
thông, các nguồn lực kinh tế toàn cầu; cầu 
nối này ngày càng ảnh hưởng và kết hợp chặt 
chẽ với nhau.
- Nền kinh tế các nước trên thế giới ngày 
càng mở cửa và hội nhập với nhau. Sự phát 
triển của kinh tế các nước trên thế giới và sự 
vận động của toàn bộ nền kinh tế thế giới 
ngày càng ảnh hưởng và chế ước lẫn nhau. 
Lần đầu tiên trong lịch sử hình thành nền 
kinh tế toàn cầu. Mở cửa và hội nhập kinh tế 
quốc tế đã trở thành xu thế khách quan.
Hiện thực này cũng đã từng được C.Mác 
dự báo là đã đến giai đoạn „lịch sử biến thành 
lịch sử thế giới”. Xuất phát điểm của toàn cầu 
hóa là toàn cầu hóa kinh tế. 
Từ những biến chuyển trong vận động của 
nền kinh tế thế giới , có thể khái quát phương 
thức quan hệ kinh tế hiện nay bao gồm các 
phương thức cơ bản như: Mậu dịch quốc tế; 
đầu tư quốc tế; hợp tác phân công lao động 
quốc tế; hợp tác đầu tư, chuyển giao khoa học 
- công nghệ quốc tế; tài chính - tiền tệ quốc tế; 
Liên kết kinh tế quốc tế và các tổ chức kinh tế 
- tài chính quốc tế.
Thứ nhất, Quan hệ kinh tế quốc tế về 
trao đổi hàng hoá (hay còn gọi là mậu dịch 
quốc tế). Đây là hình thức di chuyển hàng 
hoá quốc tế - một trong những hình thức quan 
hệ kinh tế quốc tế chủ yếu, trong đó diễn ra 
việc di chuyển hàng hoá từ nước ngày sang 
nước khác và ngược lại. Di chuyển hàng hoá 
quốc tế được thực hiện thông qua hình thức 
buôn bán quốc tế. Trên thị trường thế giới 
người ta thường chia hàng hoá trao đổi giữa 
các nước thành hai nhóm: hàng hoá hữu hình 
và hàng hoá vô hình.
Thứ hai, Quan hệ kinh tế quốc tế về di 
chuyển vốn đầu tư (hay đầu tư quốc tế). 
Đầu tư quốc tế là hiện tượng di chuyển các 
phương tiện đầu tư từ nước này sang nước 
khác nhằm thu lợi nhuận cao. Đầu tư quốc 
tế thực chất là di chuyển các yếu tố sản xuất 
trên quy mô toàn thế giới. Trong đó, chiếm tỷ 
trọng đáng kể là sự di chuyển quốc tế về vốn. 
Sự di chuyển quốc tế về vốn là sự vận 
động của tiền tệ và tài sản giữa các quốc gia 
nhằm điều chỉnh tỷ lệ giữa các yếu tố sản xuất 
tạo điều kiện cho các nền kinh tế riêng biệt 
của từng quốc gia phát triển, góp phần thúc 
đẩy kinh tế toàn cầu tĕng trưởng. Sự di chuyển 
quốc tế về vốn bao gồm các hình thái: vay 
mượn vốn, viện trợ, đầu tư giữa các quốc gia.
Hiện nay nhiều nước trên thế giới vừa 
là người đầu tư, vừa là người nhận đầu tư. 
Nghĩa là trong cùng một thời gian tại quốc 
gia có cả hai dòng chảy vốn xảy ra. Nói cách 
khác quốc gia cùng một lúc mang hai sắc 
thái: vừa là người đi đầu tư vừa là người tiếp 
nhận đầu tư.
Thứ ba, Quan hệ kinh tế quốc tế về hợp 
tác phân công lao động là quan hệ kinh tế 
quốc tế trong đó diễn ra việc di chuyển sức 
lao động từ nước này sang nước khác trên 
phạm vi toàn thế giới thông qua các hợp đồng 
xuất khẩu lao động, hợp đồng hợp tác trao đổi 
chuyên gia...
Quá trình di chuyển lao động diễn ra vì 
các lý do kinh tế hoặc phi kinh tế. Di chuyển 
lao động vì lý do phi kinh tế là những đợt di 
cư do áp lực của tôn giáo, chính trị hoặc chiến 
tranh. Trái lại di chuyển lao động vì lý do kinh 
tế là do động cơ thu nhập hay môi trường làm 
việc thúc đẩy. Xu hướng chung trên thế giới 
hiện nay là di chuyển lao động từ Đông qua 
Tây; từ Nam lên Bắc; từ các nước đang phát 
triển qua các nước phát triển.
71
Các phương thức . . .
Nguồn nhân lực của các quốc gia khác 
nhau về quy mô và chất lượng, không cân 
xứng với nguồn lực vốn; do vậy dẫn đến tình 
trạng tiền lương (giá cả sức lao động) tại các 
quốc gia rất khác nhau. Chính sự chênh lệch 
về giá cả của sức lao động giữa các quốc gia là 
nguyên nhân cơ bản hình thành thị trường lao 
động. Xu hướng toàn câu hoá cùng với sự phát 
triển của các công ty đa quốc gia dẫn đến nhu 
cầu sử dụng lao động trên lĩnh vực toàn cầu. 
Di chuyển quốc tế sức lao động cũng 
được coi như di chuyển hàng hóa quốc tế, 
nhưng đó là một loại hàng hóa đặc biệt - hàng 
hóa sức lao động, trên thị trường đặc biệt - thị 
trường sức lao động. Đây là quan hệ kinh tế 
quốc tế dẫn đến sự phân bổ lại nguồn lực lao 
động và trong chừng mực nhất định đưa đến 
việc di dân trên phạm vi thế giới.
Thứ tư, hợp tác đầu tư nghiên cứu - 
chuyển giao công nghệ là quan hệ kinh tế 
quốc tế trong lĩnh vực khoa học công nghệ, 
bao gồm các hình thức phối hợp giữa các 
nước để tiến hành cùng nhau nghiên cứu, 
sáng chế, thiết kế, thử nghiệm, trao đổi các 
kết quả nghiên cứu, thông tin về khoa học 
công nghệ, áp dụng các thành tựu khoa học 
- công nghệ mới vào thực tiễn sản xuất. Hợp 
tác đầu tư nghiên cứu - chuyển giao công 
nghệ trong quan hệ kinh tế quốc tế đảm bảo 
cho quá trình liên kết khoa học với sản xuất 
đươcvj nhanh chóng và thuận lợi, tiết kiệm 
vốn đầu tư nghiên cứu và áp dụng thành tựu 
khoa học-công nghệ, tiết kiệm thời gian tránh 
sự trùng lặp không cần thiết trong nghiên cứu 
khoa học - công nghệ, tạo điều kiện khai thác 
triệt để những sản phẩm trí tuệ của con người. 
Trong điều kiện hiện nay, hình thức này được 
thể hiện phổ biến dưới dạng chuyển giao 
công nghệ: buôn bán Licence, Know-how, 
Engineering...
Thứ nĕm, tài chính-tiền tệ quốc tế là một 
loại quan hệ kinh tế quốc tế, trong đó diễn ra 
sự di chuyển các phương tiện tài chính-tiền 
tệ từ nước này sang nước khác trên quy mô 
quốc tế.
Quan hệ tài chính tiền tệ giữa các quốc 
gia có nguồn gốc từ quan hệ thương mại. Trao 
đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các quốc gia phải 
thông qua tiền tệ khác nhau, tất yếu dẫn đến 
mối quan hệ tài chính tiền tệ và hình thành hệ 
thống tài chính-tiền tệ quốc tế.
Hệ thống tài chính - tiền tệ thế giới là hệ 
thống các quy tắc, thể lệ nhằm tác động đến 
các mối quan hệ tài chính - tiền tệ giữa các 
quốc gia. Hệ thống tài chính - tiền tệ thế giới 
hoạt động nhằm điều chỉnh các mối quan hệ 
tiền tệ giữa các quốc gia phục vụ cho thương 
mại, đầu tư trên thế giới. Hoạt động của hệ 
thống tài chính - tiền tệ thế giới gắn liền với 
cơ chế của tỷ giá hối đoái. Lịch sử phát triển 
của hệ thống tài chính-tiền tệ quốc tế gắn 
liền ba hệ thống tỷ giá hối đoái: i/Cơ chế tỷ 
giá Bản vị vàng;ii/ Tỷ giá hối đoái thả nổi 
tự do hoàn toàn, tức là tỷ giá hối đoái thay 
đổi (tĕng giảm) phụ thuộc vào quan hệ cung 
cầu về ngoại tệ trên thị trường ngoại hối;iii/ 
Tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý của chính 
phủ, có nghĩa là cĕn cứ tình hình cụ thể của 
thị trường ngoại hối và nhiệm vụ phát triển 
kinh tế của từng thời kỳ cũng như chính sách 
ngoại thương;
Chính phủ can thiệp vào thị trường ngoại 
hối để tỷ giá có lợi nhất cho nền kinh tế.
Hệ thống tài chính-tiền tệ quốc tế bao 
gồm hai bộ phận lớn là: hệ thống thanh toán 
quốc tế và hệ thống tỷ giá hối đoái. 
 y Hệ thống thanh toán quốc tế: bao 
gồm bốn hạng mục chủ yếu sau: a/ Thanh 
toán vãng lai (Tài khoản vãng lai); b/ Hạng 
mục tư bản (Tài khoản vốn); c/ Sự khác nhau 
72
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
về mặt thống kê; d/ Kết toán chính thức.
a/ Tài khoản vãng lai (cán cân thanh 
toán vãng lai)
Tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán 
ghi lại những luồng hàng hóa và dịch vụ quốc 
tế và những khoản thu nhập ròng khác từ 
nước ngoài. Hiệu số giữa tổng số xuất khẩu 
về hàng hóa và dịch vụ với tổng số nhập khẩu 
về hàng hóa và dịch vụ gọi là cán cân thanh 
toán vãng lai Trong cán cân thanh toán vãng 
lai phần quan trọng là cán cân thương mại. 
Cán cân thương mại bao gồm hai bộ phận: 
thương mại hữu hình và thương mại vô hình.
Thương mại hữu hình là những hoạt động 
xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa như vật 
chất nguyên liệu, nhiên liệu, ô tô, sắt thép 
v.v... Thương mại vô hình là những hoạt động 
xuất khẩu và nhập khẩu các hoạt động dịch 
vụ như: vận chuyển, du lịch, ngân hàng v.v... 
Nếu giá trị hàng xuất khẩu lớn hơn giá trị 
hàng nhập khẩu thì người ta gọi là ‘’Cán cân 
thương mại thuận lợi’’ (xuất siêu). 
Ngược lại, nếu giá trị hàng xuất khẩu 
nhỏ hơn giá trị hàng nhập khẩu người ta gọi 
là ‘’Cán cân thương mại không thuận lợi’’ 
(nhập siêu).
Cán cân thương mại và cán cân thanh 
toán vãng lai không trùng khớp với nhau. 
Trong cán cân thanh toán vãng lai ngoài bộ 
phận chủ yếu là cán cân thương mại còn có 
những khoản như: viện trợ nước ngoài, chi 
phí quân sự ở nước ngoài, lãi tín dụng, lãi cổ 
phần, lãi đầu tư v.v...
b/ Tài khoản vốn
Trong cán cân thanh toán ghi lại những 
giao dịch quốc tế về các tài sản tài chính. Đó 
là những khoản vốn của tư nhân hoặc chính 
phủ cho vay hoặc vay của tư nhân hoặc chính 
phủ nước ngoài. Quyết định khoản mục nào 
có và khoản mục nào là Nợ trong tài khoản 
vốn (hạng mục tư bản) được tuân thủ theo 
nguyên tắc sau: khi vay của nước ngoài để tài 
trở cho một khoản thâm hụt trong tài khoản 
vãng lai sẽ được ghi vào khoản có. Nếu cho 
nước ngoài vay để tài trợ cho một công trình nào 
đó trường hợp này ghi vào khoản nợ.
c/ Sự khác nhau về mặt thống kê (Hạng 
mục cân đối)
 Hạng mục này là một khoản Điều chỉnh 
có tính chất thống kê. Nó sẽ bằng 0 nếu tất 
cả các hạng mục trước đó đã dược tính chính 
xác Nó phản ảnh tình trạng không thể ghi lại 
hết được những giao dịch bằng những số liệu 
thống kê chính thức.
d/ Kết toán chính thức (Tài trợ chính 
thức)
Khoản mục này luôn bằng về trị số và 
ngược dấu với cán cân thanh toán. Tài trợ 
chính thức biểu thị những giao dịch quốc 
tế mà chính phủ tiến hành để Điều chỉnh tất 
cả những giao dịch khác được ghi trong các 
hạng mục của cán cân thanh toán.
Như vậy, khi tính cả tài trợ chính thức, 
tổng các hạng mục trong cán cân thanh toán 
phải bằng 0. Điều này giống như thị trường 
ngoại hối phải cân bằng khi tính cả sự can 
thiệp của ngân hàng trung ương qua việc 
sử dụng khoản dự trữ ngoại hối. Một khoản 
thặng dư trong tài khoản vãng lai được bù 
vào khoản thâm hụt trong tài khoản vốn hoặc 
dùng để tĕng dự trữ ngoại hối. Ngược lại một 
khoản thâm hụt tài khoản vãng lai phải được 
bù lại bởi lột khoản thặng dư trong tài khoản 
vốn hoặc nó sẽ làm hao hụt dự trữ ngoại hối. 
Hay một khoản thặng dư trong tài khoản 
vãng lai cần phải được cân đối bằng một 
khoản gia tĕng, tài sản của quốc gia ở nước 
ngoài. Ngược lại một khoản thâm hụt trong 
tài khoản vãng lai được cân đối bằng việc 
giảm bớt tài sản của quốc gia tại nước ngoài.
73
Các phương thức . . .
 y Hệ thống tỷ giá hối đoái
Sự phát triển thương mại quốc tế đã hình 
thành hệ thống tiền tệ và hối đoái quốc tế. 
Ngược lại, hệ thống tiền tệ một vai trò then 
chốt trong việc làm trơn các bánh xe thương 
mại quốc tế và đảm bảo sự hoạt động nhịp 
nhành của nền kinh tế thế giới.
Thị trường ngoại hối là thị trường tiền 
tệ quốc tế tại đó đồng tiền của các quốc gia 
khác nhau có thể trao đổi được với nhau. Thị 
trường ngoại hối là nơi thực hiện, trao đổi 
mua bán các ngoại tệ và phương tiện chi trả 
có giá trị như ngoại tệ được xác định trên cơ 
sở cung cầu.
Quy mô cung, cầu ngoại tệ của quốc gia 
thay đổi liên tục có lúc hòa với nhau nhưng 
có những lúc không hài hòa và gây ra sự biến 
động của tỷ giá có thể dẫn đến những xáo trộn 
tình hình sản xuất, xuất khẩu của quốc gia. 
Trước tình hình đó Chính phủ phải có những 
biện pháp can thiệt vào thị trường ngoại hối 
nhằm ổn định tỷ giá theo hướng có lợi cho 
nền kinh tế.
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị 
tiền tệ nước này thể hiện bằng số lượng đơn 
vị tiền tệ nước khác. Hay mức giá mà hai 
đồng tiền của hai quốc gia khác nhau có thể 
trao đổi được với nhau thì được gọi là tỷ giá 
hối đoái. 
Ngày nay, tiền tệ biểu hiện nội dung và 
tình trạng kinh tế của mỗi quốc gia. Kinh tế 
của quốc gia tĕng trưởng thì giá trị của đồng 
tiền cũng tĕng, ngược lại kinh tế của quốc 
gia suy thoái thì giá trị của cua đồng tiền sẽ 
giảm. Sự thay đổi giá trị của tiền tệ sẽ ảnh 
hưởng rất lớn đền nhà nền kinh tế ở những 
mặt sau:
Thứ nhất, đối với ngoại thương; tỷ giá 
hối đoái thay đổi sẽ làm cho giá trị hàng hóa 
của các quốc gia có thương mại qua lại với 
nhau thay đổi. Điều này sẽ làm thay đổi cán 
cân thương mại giữa hai quốc gia, bởi vì sự 
thay đổi tỷ giá hối đoái sẽ tác động trực tiếp 
đến xuất nhập khẩu của quốc gia. Chính vì 
vậy, hiện nay nhiều chính phủ đã dùng chính 
sách tỷ giá làm công cụ hữu hiệu nhằm thay 
đổi tương quan thương mại của hai quốc gia. 
Thứ hai, trong lĩnh vực đầu tư nước 
ngoài; sự thay đổi tỷ giá hối đoái sẽ tác động 
trực tiếp đến lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Nó 
ảnh hưởng đến thu nhập và tài sản của nhà 
đầu tư nước ngoài tại nước tiếp nhận đầu tư. 
Chẳng hạn, việc phá giá tiền tệ của Chính phủ 
đã làm cho môi trường đầu tư về tài chính 
xấu đi. Cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ 
Châu á nĕm 1997 là bài học thực tế rất bổ ích 
về chính sách tỷ giá hối đoái đối với đầu tư 
nước ngoài.
Thứ ba, tỷ giá hối đoái và vấn đề thanh 
toán nợ nước ngoài; trong nền kinh tế thế 
giới hiện đại, các quốc gia vừa đi vay đồng 
thời vừa cho vay. Do vậy, Chính phủ phải có 
chính sách tỷ giá phù hợp để có lợi cho quốc 
gia. Khi tỷ giá thay đổi thì gánh nặng nợ nước 
ngoài cũng thay đổi. Mối quan hệ giữa tỷ giá 
hối đoái và thanh toán nợ nước ngoài là mối 
quan hệ ngược chiều.
Vai trò của tỷ giá hối đoái đối với nền 
kinh tế là rất quan trọng; do vậy chính sách 
về tỷ giá là một trong những chính sách quan 
trọng của Chính phủ trong vai trò can thiệp 
vào nền kinh tế nói chung và quan hệ kinh 
tế quốc tế mà trực tiếp là hoạt động ngoại 
thương nói riêng.
Thứ tư, Liên kết kinh tế quốc tế và các tổ 
chức kinh tế quốc tế
Liên kết kinh tế quốc tế đáp ứng yêu cầu 
phân công lao động quốc tế có hiệu quả giữa 
các quốc gia để khai thác lợi thế và khắc phục 
hạn chế, đồng thời như là một sự cần thiết 
74
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
cho việc bảo hộ thị trường kinh doanh trong 
và ngoài nước của các thành viên. Quá trình 
liên kết tạo ra những điều kiện thuận lợi trong 
quan hệ kinh tế quốc tế, trước hết là nhằm đạt 
tới lợi ích kinh tế cao hơn cho các bên, sau 
đó là tĕng cường sức mạnh quân sự và vị trí 
chính trị xã hội trong nền kinh tế thế giới.
Các hình thức liên kết kinh tế quốc tế rất 
phong phú và đa dạng, song về cơ bản có hai 
cách tiếp cận phân loại sau:
- Cĕn cứ vào đối tượng và nội dung liên 
kết của liên kết có thể chia làm 5 hình thức 
liên kết đó là: Khu vực mậu dịch tự do; Liên 
minh thuế quan; Thị trường chung; Liên minh 
kinh tế; Liên minh tiền tệ.
- Cĕn cứ vào phương thức điều chỉnh 
của liên kết, chia liên kết thành các liên kết 
kinh tế - thương mại chung (GATT, WTO, 
UNCTAD, ICC); các liên kết kinh tế - thương 
mại khu vực (ASEAN, APEC, EU, NAFTA, 
MERCOSUR, ANCOM); các liên kết kinh tế 
- thương mại chuyên ngành (IATA, FIATA, 
ICJ, ISCID, WIPO, IMF, UNCITRAL, 
UNIDO, FAO, OPEC,ADB, CDB...) 
Các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế: 
Nhằm hướng tới sự điều chỉnh một cách có 
hiệu quả quan hệ kinh tế quốc tế, các tổ chức 
kinh tế - tài chính quốc tế đã được hình thành 
theo tiến trình phát triển của quan hệ kinh tế 
quốc tế nói riêng, sự vận hành của nền kinh 
tế thế giới nói chung. Các thể chế kinh tế - tài 
chính quốc tế quan trọng đã được thiết lập 
và được coi là những công cụ quản lý kinh 
tế quan trọng đối với sự vận hành nền kinh 
tế thế giới và điều chỉnh các quan hệ kinh 
tế quốc tế có thể kể tới trong lịch sử gồm: 
Kế hoạch Marshall, hệ thống tỷ giá hối đoái 
Bretton Woods, Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), 
Ngân hàng thế giới (WB); Tổ chức thương 
mại thế giới (WTO). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Paul R.Krugman- Maurice Obstfeld (1995): “ Kinh tế học quốc tế- Lý thuyết và chính sách ”, tập 1 
và 2, Nxb CTQG.
[2] .Margaret P.Karn & Karen Mingst (2007): Bài giảng Between Theory and Practice International 
Relations in the Beginning of the 21 st Century, [Quan hệ quốc tế đầu thế kỷ 21: Giữa lý thuyết và 
thực tiễn], Khoa Quốc tế học - Trường Đại học KHXH&NV.Hạ Long.
[3]. “Kinh tế và chính trị thế giới: Vấn đề và xu hướng tiến triển”, Nxb Lao động, H 2008;
[4]. Lê Bộ Lĩnh (2002), “Chủ nghĩa tư bản hiện đại: Khủng hoảng kinh tế và điều chỉnh”, Nxb khoa 
học xã hội, Hà Nội.
[5]. Hoàng Khắc Nam “Tổ chức quốc tế và chủ thể phi quốc gia”- Viện Kinh tế và chính trị thế giới

File đính kèm:

  • pdfcac_phuong_thuc_quan_he_kinh_te_quoc_te_lich_su_va_hien_tai.pdf