Các nhân tố ảnh hưởng tới giá trị doanh nghiệp sản xuất công nghiệp niêm yết ở Việt Nam
Nghiên cứu này tiến hành phân tích các nhân tố vi mô và vĩ mô ảnh hưởng đến giá trị doanh
nghiệp của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp niêm yết trên hai Sở chứng khoán Hà Nội (HNX)
và Thành phố Hồ Chính Minh (HOSE). Mẫu nghiên cứu bao gồm 846 quan sát của 94 doanh nghiệp
trong 9 năm từ 2006 đến 2014. Ba mô hình được sử dụng là mô hình OLS gộp, mô hình tác động cố
định (FEM) và mô hình tác động ngẫu nhiên (REM). Kết quả hồi quy cho thấy giá trị doanh nghiệp
bị ảnh hưởng lớn bởi các biến số vĩ mô. Tăng trưởng GDP và tăng trưởng cung tiền M2 đều có ảnh
hưởng dương đến giá trị doanh nghiệp. Ngược lại, lãi suất và biến động tỷ giá lại có tác động tiêu
cực đến giá trị doanh nghiệp.
Trong các yếu tố vi mô, khả năng sinh lời có tác động mạnh mẽ và rõ ràng nhất đến giá trị doanh
nghiệp. Có mối quan hệ hình chữ U ngược giữa đòn bẩy tài chính và giá trị doanh nghiệp và có
một số bằng chứng yếu cho thấy rủi ro kinh doanh có ảnh hưởng tích cực đến giá trị doanh nghiệp.
Ngoài ra, nghiên cứu tìm thấy ít bằng chứng ủng hộ giả thuyết về tác động của các vấn đề đại diện
và cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp. Kết quả hồi quy cũng cho thấy quy mô và tính thanh
khoản không có tác động đến giá trị các doanh nghiệp sản xuất đại chúng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nhân tố ảnh hưởng tới giá trị doanh nghiệp sản xuất công nghiệp niêm yết ở Việt Nam
kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP 58 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016) Tóm tắt Nghiên cứu này tiến hành phân tích các nhân tố vi mô và vĩ mô ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp niêm yết trên hai Sở chứng khoán Hà Nội (HNX) và Thành phố Hồ Chính Minh (HOSE). Mẫu nghiên cứu bao gồm 846 quan sát của 94 doanh nghiệp trong 9 năm từ 2006 đến 2014. Ba mô hình được sử dụng là mô hình OLS gộp, mô hình tác động cố định (FEM) và mô hình tác động ngẫu nhiên (REM). Kết quả hồi quy cho thấy giá trị doanh nghiệp bị ảnh hưởng lớn bởi các biến số vĩ mô. Tăng trưởng GDP và tăng trưởng cung tiền M2 đều có ảnh hưởng dương đến giá trị doanh nghiệp. Ngược lại, lãi suất và biến động tỷ giá lại có tác động tiêu cực đến giá trị doanh nghiệp. Trong các yếu tố vi mô, khả năng sinh lời có tác động mạnh mẽ và rõ ràng nhất đến giá trị doanh nghiệp. Có mối quan hệ hình chữ U ngược giữa đòn bẩy tài chính và giá trị doanh nghiệp và có một số bằng chứng yếu cho thấy rủi ro kinh doanh có ảnh hưởng tích cực đến giá trị doanh nghiệp. Ngoài ra, nghiên cứu tìm thấy ít bằng chứng ủng hộ giả thuyết về tác động của các vấn đề đại diện và cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp. Kết quả hồi quy cũng cho thấy quy mô và tính thanh khoản không có tác động đến giá trị các doanh nghiệp sản xuất đại chúng. Từ khóa: giá trị doanh nghiệp, nhân tố vi mô, nhân tố vĩ mô. Mã số: 273. Ngày nhận bài: 16/05/2016. Ngày hoàn thành biên tập: / /2016. Ngày duyệt đăng: / /2016. Abstract This paper analyzes microeconomic and macroeconomic factors that affect the value of industrial manufacturing firms listed on Hanoi and Hochiminh stock exchanges. There are 846 observations of 94 firms from 2006 to 2014. Models that are applied in this paper are OLS regression model, fixed effect model (FEM) and random effect model (REM). The result points out that firm value is considerably affected by macroeconomic factors. GDP growth and M2 growth have positive effects while interest rate and foreign exchange rate have negative effects on firm value. Among the microeconomic factors, profitability represented by ROE has the strongest and clearest influence on firm value. There exists to be a reverse U letter relationship between financial leverage and firm value, and there’s week evidence that business risk has positive effect on firm value. Besides, this paper found little evidence to support the hypothesis of the effect of agency problem and ownership structure on firm value. The regression result also shows that size and liquidity have no effects on public manufacturing firms. Key words: firm value, microeconomic factors, macro economic factors. Paper No.273. Date of receipt: 16/05/2016. Date of revision: / /2016. Date of approval: / /2016. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TớI GIÁ TRị DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM Lê Phương Lan* * Trường Đại học Ngoại thương kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP 59Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016) 1. Giới thiệu Ở góc độ của người làm quản lý doanh nghiệp, việc tìm ra những nhân tố có thể ảnh hưởng tích cực lên giá trị doanh nghiệp của mình có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần giúp doanh nhân giải bài toán cơ bản “làm thế nào để tối đa hoá lợi ích của cổ đông”. Bài viết này tiến hành kiểm định một số giả thuyết nghiên cứu về các nhân tố vi mô và vĩ mô có ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp ngành sản xuất công nghiệp. Tác giả lựa chọn đối tượng nghiên cứu là các doanh nghiệp ngành sản xuất công nghiệp, do đây là nhóm ngành được đánh giá là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng GDP ở Việt Nam, và được kỳ vọng là sẽ ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tỉ trọng GDP so với ngành nông nghiệp và dịch vụ. Để thuận tiện hơn trong việc thu thập số liệu, tác giả chỉ tập trung vào các doanh nghiệp ngành sản xuất công nghiệp niêm yết trên 02 sở giao dịch chứng khoán chính thức là Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. So với những nghiên cứu trước đây, bài viết này phát triển theo hướng tổng hợp chứ không phân tích các nhân tố một cách riêng lẻ. Việc sử dụng 3 mô hình kinh tế lượng khác nhau để chạy hồi quy rồi mới so sánh và đưa ra kết luận mô hình phù hợp nhất làm tăng tính tin cậy của kết quả nghiên cứu. Việc giới hạn ở ngành sản xuất công nghiệp cũng là một lựa chọn mới của tác giả, giúp cho các nghiên cứu chuyên sâu tiếp theo về doanh nghiệp ngành sản xuất công nghiệp có cơ sở tham khảo. 2. Lý thuyết về giá trị doanh nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp: 2.1. Lý thuyết về giá trị doanh nghiệp Giá trị doanh nghiệp có thể được nhìn nhận theo nhiều cách tiếp cận (Moeljadi, 2014). Tiếp cận từ bảng cân đối kế toán, giá trị doanh nghiệp là giá trị của tất cả tài sản. Từ góc độ của báo cáo kết quả kinh doanh, giá trị doanh nghiệp có thể được xác định bởi doanh thu, lợi nhuận hoặc các chỉ báo khác. Một hướng tiếp cận khác là lợi thế thương mại. Giá trị doanh nghiệp được tính bằng giá trị sổ sách cộng với lợi thế thương mại. Giá trị doanh nghiệp cũng có thể được xem là một hàm của các dòng tiền tương lai và mức lợi tức. Christiawan và Tarin (2004) kết luận rằng khái niệm đại diện tốt nhất để xác định giá trị của công ty trên thị trường là giá trị nội tại, nhưng việc ước lượng giá trị nội tại lại rất khó khăn bởi việc xác định giá trị nội tại đòi hỏi khả năng để nhận diện các biến có ý nghĩa quyết định đến khả năng sinh lời của một công ty. Những yếu tố này được cho là khác nhau giữa các doanh nghiệp. Vì vậy, giá trị thị trường thường được sử dụng bởi sự dễ dàng trong thu thập dữ liệu. 2.2. Lý thuyết về ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô đến giá trị doanh nghiệp: Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp chịu tác động không nhỏ của các yếu tố kinh tế vĩ mô như lãi suất, tỷ giá, cung tiền, tăng trưởng GDP... Tăng trưởng GDP có thể tác động đến kết quả kinh doanh và giá trị doanh nghiệp. Kinh tế tăng trưởng cao cho thấy nhu cầu đầu tư và tiêu dùng lớn, mang lại cơ hội kinh doanh và mở rộng quy mô tốt cho doanh nghiệp. Ngược lại, suy thoái kinh tế khiến cho nhu cầu tiêu dùng giảm, nguồn cung cấp đầu vào hạn chế, đè nặng áp lực lên cả việc kiểm soát chi phí và doanh số bán hàng của doanh nghiệp. Biến động của giá cả hàng hóa, lãi suất, tỷ giá hay chính sách tài chính của quốc gia biểu thị cho rủi ro hệ thống đều có thể ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp (Wang, 2014). Chính sách tiền tệ ảnh hưởng tất cả các lĩnh vực kinh tế thông qua chi phí vay nợ và sự sẵn kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP 60 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016) có của tiền tệ và tín dụng, những thứ sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận nguồn vốn bên ngoài của doanh nghiệp. Chính sách tài khóa ảnh hưởng đến lợi nhuận sau thuế, chi phí vốn và cầu về hàng hóa. Lãi suất và lạm phát tăng có thể gây ra tình trạng kiệt quệ tài chính và vỡ nợ (Zeitun và các cộng sự, 2007). Sự thay đổi của lãi suất có thể ảnh hưởng đến dòng tiền và giá trị vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Lãi suất cao tạo gánh nặng lên các khoản nợ và hạn chế doanh nghiệp huy động vốn bên ngoài. Lãi suất tăng cũng ảnh hưởng đến tỷ giá, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu trong nước (Macdonald, 1999). Theo lý thuyết về tài chính quốc tế, sự biến thiên trong tỷ giá ảnh hưởng đến dòng tiền của doanh nghiệp có các khoản phải trả hoặc phải thu bằng ngoại tệ, vì vậy ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Nếu không thực hiện phòng vệ, doanh nghiệp xuất khẩu nắm giữ ngoại tệ sẽ hưởng lợi từ sự giảm giá của đồng nội tệ hay sự tăng giá của ngoại tệ. Trong khi đó, doanh nghiệp nhập khẩu phải trả bằng ngoại tệ sẽ hưởng lợi từ sự tăng giá của đồng nội tệ. Ngay cả doanh nghiệp nội địa không có bất cứ hoạt động thương mại quốc tế nào cũng vẫn chịu ảnh hưởng từ biến động tỷ giá bởi những doanh nghiệp này đang cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài và các tập đoàn đa quốc gia (Bhuiya và các cộng sự, 2015). Tỷ giá thay đổi có thể ảnh hưởng đến giá trị của các tập đoàn đa quốc gia thông qua việc tác động đến dòng tiền hoạt động, các tài sản và khoản nợ nước ngoài (Shin và Soenen, 1998). 2.3. Lý thuyết về ảnh hưởng của các nhân tố vi mô đến giá trị doanh nghiệp: Cơ cấu vốn Theo lý thuyết của Modigliani - Miller (MM), với các giả thiết về thị trường vốn hoàn hảo và không có thuế, giá trị công ty có vay nợ bằng giá trị của công ty không có vay nợ (MM, 1958). Điều này hàm ý rằng cơ cấu vốn không có ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện có thuế, giá trị công ty có vay nợ sẽ cao hơn giá trị công ty không sử dụng vay nợ vì lãi vay mang lại khoản tiết kiệm thuế (Modigliani và Miller, 1963). Tuy nhiên trong thực tế tồn tại những chi phí đánh đổi cho lá chắn thuế và mức vay nợ được xác định bởi lợi ích về thuế và những chi phí này. Đây là bản chất của lý thuyết đánh đổi cho rằng khả năng sinh lời cao hơn liên quan đến tỷ lệ đòn bẩy cao hơn nhờ lá chắn thuế nhưng tỷ lệ này thấp hơn 100% do các chi phí đánh đổi. Theo lý thuyết trật tự phân hạng phát triển bởi Myers và Majluf (1984), đầu tư sẽ được tài trợ trước tiên bằng nguồn vốn nội bộ (chủ yếu là lợi nhuận giữ lại), tiếp theo là đến vay nợ mới và cuối cùng là phát hành vốn cổ phần mới. Lý thuyết này giải thích được tại sao các doanh nghiệp có khả năng sinh lợi nhất thường vay ít hơn. Các doanh nghiệp có khả năng sinh lợi thấp sẽ phát hành nợ vì họ không có nguồn vốn nội bộ đủ cho đầu tư vốn và không phát hành cổ phiếu mới vì chi phí vốn thấp hơn. Lý thuyết tín hiệu của Ross (1977) giải thích lựa chọn tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu qua sự sẵn sàng gửi đi các tín hiệu của doanh nghiệp về chất lượng dòng thu nhập. Với một doanh nghiệp có chất lượng dòng thu nhập thấp, việc đánh lừa thị trường và ra tín hiệu về dòng thu nhập tốt bằng cách vay nhiều hơn là quá tốn kém. Vì vậy, doanh nghiệp có chất lượng dòng thu nhập thấp sẽ có ít nợ vay hơn và đòn bẩy tăng lên cùng với sự gia tăng của giá trị doanh nghiệp. Lý thuyết về cơ cấu vốn dựa trên chi phí đại diện (Jensen và Meckling, 1976) giải thích kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP 61Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016) rằng sự tồn tại của cơ cấu vốn tối ưu là do các chi phí đại diện. Các chi phí đại diện không chỉ phát sinh từ mâu thuẫn giữa cổ đông và các nhà quản lý mà còn giữa cổ đông với các trái chủ. Do tồn tại mâu thuẫn giữa các bên, tỷ lệ đòn bẩy cao hơn có thể dẫn đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp thấp hơn, ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị doanh nghiệp. Các vấn đề đại diện Vấn đề người đại diện xảy ra khi có sự khác nhau về mục tiêu giữa chủ sở hữu và người đại diện. Vấn đề này tồn tại là do sự bất cân xứng thông tin giữa cổ đông và người quản lý mà cụ thể là người quản lý nắm nhiều thông tin hơn. Chi phí đại diện là tổng các chi phí giám sát và ràng buộc cộng thêm các khoản thiệt hại khác phát sinh từ sự cần thiết của mối quan hệ đại diện (Jensen và Meckling, 1976). Những hành động của người đại diện nhằm đạt được mục đích riêng, ví dụ như đầu tư vào dự án rủi ro với kỳ vọng nhận được mức thưởng cao hơn, có thể làm giảm giá trị của cổ đông trong dài hạn (Fernado, 2006). Theo Lins (2003), mức độ mà các vấn đề về người đại diện ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp có lẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu có các biện pháp khuyến khích để thống nhất, cân bằng lợi ích của ban quản lý và cổ đông bên ngoài, giá trị doanh nghiệp sẽ tăng lên. Ngược lại, ban quản lý sẽ sử dụng khả năng điều hành để khai thác các tài nguyên của doanh nghiệp và việc sử dụng khả năng điều hành phục vụ lợi ích riêng này sẽ làm giảm giá trị doanh nghiệp. Nếu ban quản lý hành động trên lợi ích của tất cả các cổ đông, giá trị doanh nghiệp sẽ không phụ thuộc vào cấu trúc sở hữu. Nếu doanh nghiệp có những cổ đông lớn bên ngoài, họ cũng tác động đến việc quản lý doanh nghiệp và kết quả là tác động đến giá trị doanh nghiệp. Cấu trúc sở hữu Mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và giá trị doanh nghiệp là vấn đề trung tâm trong nghiên cứu quản trị doanh nghiệp. Cấu trúc sở hữu là công cụ để giảm chi phí đại diện liên quan đến xung đột lợi ích giữa chủ sở hữu và người đại diện (Barbosa và Louri, 2002). Nhiều nghiên cứu gợi ý rằng giá trị doanh nghiệp tương quan với cấu trúc sở hữu thông qua các biến thể trong chi phí đại diện liên quan đến mật độ sở hữu (Fauver và Naranjo, 2010). McConnell và Servaes (1990) lập luận rằng tỷ lệ sở hữu nội bộ càng cao liên quan đến sự gia tăng trong các vấn đề đại diện. Những cổ đông lớn có động lực để giám sát ban quản lý và ngăn cản họ thực hiện đầu tư và hành động làm giảm giá trị doanh nghiệp. Như vậy, mật độ sở hữu là một cơ chế quản trị doanh nghiệp giúp làm giảm chi phí đại diện phát sinh do sự tách biệt về sở hữu và quản lý. Chen và các cộng sự (2007) cho rằng sở hữu tập trung lâu dài giúp các tổ chức độc lập, không bị phân tán và tạo điều kiện cho việc điều hành doanh nghiệp tốt hơn. Tỷ lệ các nhà đầu tư tổ chức cao hơn thì thông tin sẵn có nhiều hơn, tức mức độ bất cân xứng thông tin ít hơn (Geczy và các cộng sự, 1997). Nhìn chung, các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước được cho là kém hiệu quả hơn các doanh nghiệp tư nhân bởi lợi ích và sự khuyến khích quản lý thấp hơn. Có thể tồn tại các lý do chính trị như chính phủ theo đuổi các mục tiêu khác ngoài tối đa hóa lợi nhuận. Quyền kiểm soát của nhà nước trong các doanh nghiệp có thể cho phép nhiều chính trị gia can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp (tuyển dụng, đầu tư) để đạt được lợi ích chính trị, gây ra các thiệt hại hay chi phí chính trị (Wang và Xiao, 2009). Khi các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, một phần cổ phần được sở hữu bởi các chủ thể khác. Kết quả là những doanh nghiệp này chịu tổn thất ít hơn từ chi phí chính kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP 62 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016) trị. Tuy nhiên, chi phí đại diện tăng lên khi những cổ đông đại diện cho vốn nhà nước theo đuổi những lợi ích riêng, tác động xấu đến giá trị doanh nghiệp (Qian, 1995). Dòng tiền Jensen (1986) lập luận rằng dòng tiền tự do lớn hơn tạo ra xung đột lợi ích tiềm tàng giữa ban quản lý và cổ đông về vấn đề phân bổ tiền mặt. Lý thuyết dòng tiền tự do (Lang và các cộng sự, 1991; Harford, 1999) gợi ý rằng khi người đại diện nhận thấy dòng tiền tự do lớn, họ sẽ sử dụng nó vào các mục đích cá nhân hơn là đầu tư sinh lời cho doanh nghiệp. Do đó, dòng tiền tự do càng lớn thì vấn đề người đại diện càng nghiêm trọng và ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, Masulis và các cộng sự (2007) cho rằng dòng tiền tự do lớn thể hiện kết quả kinh doanh tốt. Mô hình chiết khấu dòng tiền DCF cũng ủng hộ mối quan hệ cùng chiều giữa dòng tiền tự do và giá trị doanh nghiệp. Khả năng sinh lời Mô hình định giá lợi nhuận thặng dư RIV (Peasnell, 1981; và các nhà nghiên cứu khác) và mô hình OM (Ohlson, 1995) gợi ý rằng giá trị của một doanh nghiệp được xác định bởi lợi nhuận còn dư (sau khi trừ đi chi phí vốn chủ ... ze ROA IR FI VIF 3,29 3,11 2,10 1,95 1,94 1,49 1,48 1/VIF 0,3041 0,3218 0,4751 0,5122 0,5156 0,6712 0,6771 Biến M2 Liquid Brisk SO Capex Aturn CFO Mean VIF VIF 1,43 1,35 1,31 1,24 1,22 1,19 1,09 1,42 1/VIF 0,7003 0,7397 0,7640 0,8073 0,8194 0,8437 0,9151 Nguồn: tác giả tự tổng hợp Phương sai sai số thay đổi Kiểm định phương sai sai số thay đổi được áp dụng cho hai mô hình OLS gộp và FEM. Kết quả kiểm định White cho mô hình OLS gộp bác bỏ giả thuyết H0 rằng phương sai sai số đồng nhất, xác nhận sự tồn tại của hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Kiểm định White H0: phương sai sai số đồng nhất Ha: phương sai sai số thay đổi chi2(112) = 438,64 Prob > chi2 = 0.0000 Kết quả kiểm định đối với mô hình FEM cũng có kết quả tương tự. Modified Wald test H0: phương sai sai số đồng nhất chi2 (94) = 58414,92 Prob>chi2 = 0,0000 Như vậy, tồn tại một số khuyết tật trong các mô hình. Những khuyết tật này khiến kết quả ước lượng bị chệch và ít đáng tin cậy hơn. Để giảm nhẹ tác động của hiện tượng tự tương quan và phương sai sai số thay đổi, các mô hình được ước lượng lại với sai số chuẩn White (robust s.e) hay sai số chuẩn Rogers (cluster-robust s.e). Kết quả được trình bày trong bảng 8. kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP 73Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016) Bảng 8: Kết quả hồi quy với Tobin’s Q sử dụng Robust S.E. Biến giải thích Pooled OLS FEM REM Hệ số góc t Hệ số góc t Hệ số góc z EX -3,4880*** -2,66 -1,9297** -2,35 -3,1898*** -3,31 GDP 38,2366*** 6,49 23,1010*** 4,43 37,6597*** 7,65 IR -4,8143*** -3,33 -7,7691*** -6,46 -5,0363*** -5,44 M2 1,0169*** 4,44 0,8930*** 3,33 1,0840*** 5,87 Size 0,0213 0,70 -0,0941 -0,76 0,0104 0,25 ATurn 0,0459 0,98 0,0836 0,89 0,0574 1,07 BRisk 0,4478* 1,92 0,4867 1,59 CFO -1,8646 -0,60 -98,0674** -1,84 -1,5357 -0,38 Capex -0,0375 -0,74 -0,0146 -0,47 -0,0318 -1,14 Leverage -0,0321 -0,09 0,8351** 2,07 0,0375 0,11 Liquid 0,1096 0,75 0,1088 0,83 0,1088 0,76 ROA 5,0999*** 3,28 2,8537** 2,18 4,5845*** 3,06 SO 0,2150 1,29 1,1803 1,00 0,2684 1,27 FI 0,1049 1,35 -0,0834 -0,71 0,0875 0,84 _cons -1,6027*** -3,12 1,8903 1,25 -1,4780** -2,40 N 846 846 846 F-statistic 18,73*** 20,06*** 229,60*** Adjusted R2 0,3670 0,4445 0,3653 Chú thích: (*) mức ý nghĩa 10%; (**) mức ý nghĩa 5%; (***) mức ý nghĩa 1% Nguồn: tác giả tự tổng hợp 6. Hàm ý và kết luận 6.1. Hàm ý Kết quả hồi quy trong bảng 8 cho thấy số lượng biến ảnh hưởng có ý nghĩa đến Tobin’s Q giảm đi. Cụ thể, trong mô hình OLS gộp, có 6 trong 14 biến độc lập tác động đáng kể đến biến phụ thuộc với độ tin cậy từ 90% trở lên. Mô hình FEM có 7 trên 13 biến có ý nghĩa trong khi mô hình REM chỉ có 5 trên 14 biến có ý nghĩa. Kết quả này cũng gợi ý rằng mô hình FEM phù hợp với dữ liệu hơn hai mô hình còn lại. Hệ số góc của EX đều âm và có ý nghĩa trong cả 3 mô hình, cho thấy biến động tỷ giá tăng sẽ làm giảm Tobin’s Q. Các doanh nghiệp Việt Nam thường ít hoặc không sử dụng các biện pháp phòng vệ rủi ro tỷ giá nên sự biến động của tỷ giá có khả năng gây ra các thiệt hại cho doanh nghiệp. Theo kết quả thực nghiệm thì một điều chắc chắn là biến động tỷ giá làm giảm niềm tin của nhà đầu tư vào doanh nghiệp, tác động tiêu cực đến giá trị doanh nghiệp. Hệ số góc của IR đều âm và có ý nghĩa 1% ở cả 3 mô hình, chứng tỏ rằng lãi suất tăng sẽ làm giảm giá trị các doanh nghiệp kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP 74 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016) sản xuất niêm yết. Kết quả này thống nhất với các mô hình định giá cổ phiếu. Hệ số góc của GDP đều dương, lớn và có ý nghĩa ở mức 1%. Theo kết quả của mô hình FEM, với tốc độ tăng trưởng GDP tăng thêm 1%, Tobin’s Q sẽ tăng lên hơn 23 lần. Tương tự, M2 cũng có tác động tích cực đến giá trị doanh nghiệp trong cả 3 mô hình với cùng mức ý nghĩa 1%. Như vậy, tăng trưởng cung tiền cao hơn sẽ cải thiện giá trị doanh nghiệp. Các kết quả thực nghiệm này ủng hộ các giả thuyết nghiên cứu số 1, 2, 3 và 4. Biến Size không có ảnh hưởng đến Tobin’s Q trong cả 3 mô hình. Dấu của biến này cũng không thống nhất trong cả 3 mô hình, cho thấy xu hướng tác động không rõ ràng. Như vậy, giả thuyết số 5 rằng quy mô có ảnh hưởng tích cực đến giá trị doanh nghiệp bị bác bỏ. Có thể lợi ích từ tính kinh tế nhờ quy mô đã bị bù trừ bởi chi phí gây ra do sự cồng kềnh của tổ chức và các vấn đề đại diện. Biến Brisk được đưa vào nghiên cứu trong hai mô hình OLS gộp và REM. Kết quả hồi quy cho thấy Brisk có dấu dương trong cả hai mô hình nhưng chỉ đạt mức ý nghĩa 10% trong mô hình OLS gộp. Điều này gợi ý biến động doanh thu có tác động tích cực đến giá trị doanh nghiệp, đồng thời không ủng hộ giả thuyết số 6 về mối quan hệ ngược chiều giữa rủi ro kinh doanh và giá trị doanh nghiệp. Có thể biến động doanh thu (đo lường bằng hệ số CV của doanh thu) không phải là một biến biểu thị tốt cho rủi ro kinh doanh cho các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam thường đang trong pha tăng trưởng thay vì trưởng thành hay suy thoái. Thế nên các doanh nghiệp thường có doanh thu tăng dần qua các năm và những biến động doanh thu theo chiều hướng tích cực lại là dấu hiệu tốt cho thị trường. Có lẽ biến động lợi nhuận hoặc dòng tiền sẽ biểu thị tốt hơn cho rủi ro kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam. Kết quả hồi quy với 3 biến Aturn, CFO và Capex cung cấp ít bằng chứng ủng hộ giả thuyết số 7 về tác động tiêu cực của các vấn đề đại diện đến giá trị doanh nghiệp. Dấu của Aturn dương, gợi ý hiệu quả sử dụng tài sản càng cao, tức chi phí đại diện có thể thấp hơn, thì giá trị doanh nghiệp càng lớn. Capex có dấu âm, gợi ý tỷ lệ đầu tư vào tài sản cố định lớn hơn (cơ hội tăng trưởng cao hơn, bất cân xứng lớn hơn) sẽ làm giảm giá trị doanh nghiệp. Tuy chiều tác động của 2 biến này thống nhất với giả thuyết nhưng lại không đạt được mức ý nghĩa thống kê cần thiết. Dấu của CFO âm với mức ý nghĩa 5% trong mô FEM có thể là bằng chứng hỗ trợ cho lý thuyết về dòng tiền tự do dù có sự khác nhau nhất định giữa dòng tiền tự hoạt động kinh doanh và dòng tiền tự do. Hình 3 Mối quan hệ giữa Tobin’s Q và Leverage 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 To bi n' s Q 0 .05 .1 .15 .2 .25 .3 .35 .4 .45 .5 .55 .6 .65 .7 .75 .8 .85 .9 .95 Leverage Biến Leverage có ảnh hưởng có ý nghĩa 5% duy nhất trong mô hình FEM. Điều này có nghĩa rằng tỷ lệ nợ trên tổng tài sản tăng lên sẽ làm tăng giá trị doanh nghiệp. Giả thuyết số 8 về ảnh hưởng dương của đòn bẩy tài chính đến giá trị doanh nghiệp cũng được ủng hộ. Tuy nhiên, kết quả này có vẻ không vững chắc kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP 75Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016) khi mà Leverage lại có dấu âm trong mô hình OLS, gợi ý tác động tiêu cực lên Tobin’s Q. Hình 3 minh họa mối quan hệ giữa Tobin’s Q và Leverage cho thấy đường xu hướng là đường cong. Tobin’s Q tăng dần khi Leverage tăng và đạt giá trị cao nhất khi Leverage quanh mức 20%. Sau mức này giá trị Tobin’s Q giảm dần khi Leverage tiếp tục tăng. Khi Leverage ở mức quá cao, từ khoảng 60% trở lên, thì Tobin’s Q xuống thấp hơn so với khi Leverage rất nhỏ. Dù kết quả trong mô hình ban đầu xác nhận ảnh hưởng dương của Liquid đến Tobin’s Q, các kết quả với robust s.e lại cho thấy Liquid không có ảnh hưởng đáng kể với Tobin’s Q. Kết quả này bác bỏ giả thuyết số 9 về tác động trực tiếp có ý nghĩa của tính thanh khoản đến giá trị doanh nghiệp. Trong số các biến biểu thị môi trường bên trong doanh nghiệp, ROA có tác động mạnh mẽ và vững chắc nhất đến giá trị doanh nghiệp. Trong tất các các mô hình, hệ số góc của ROA đều dương với độ tin cậy tối thiểu là 95%. Kết quả này ủng hộ giả thuyết số 10 về tác động tích cực của khả năng sinh lời đến giá trị doanh nghiệp. Lợi nhuận thường được coi là yếu tố quan trọng và trước nhất nhà đầu tư xem xét khi đánh giá doanh nghiệp. Khả năng sinh lời cao, cổ tức cũng sẽ cao hơn, đồng nghĩa với lợi suất đầu tư cao hơn sẽ thu hút nhà đầu tư; cầu tăng đẩy giá cổ phiếu lên cao khiến cho giá trị doanh nghiệp tăng. Kết quả hồi quy tìm thấy rất ít bằng chứng ủng hộ giả thuyết cấu trúc sở hữu có tác động đến giá trị doanh nghiệp. Biến FI không có ý nghĩa trong các mô hình. Hệ số góc của SO dương và có ý nghĩa ở mức 5% trong mô hình FEM ban đầu nhưng đã mất đi ý nghĩa thống kê trong các mô hình sử dụng robust s.e sau đó. Tuy nhiên, biến SO có dấu dương cũng là vấn đề đáng quan tâm. Các doanh nghiệp nhà nước thường được biết đến là hoạt động kém hiệu quả. Tuy nhiên, với các doanh nghiệp sản xuất niêm yết mà nhà nước nắm giữ cổ phần, nhận định trên có vẻ không đúng. Như Tran và các cộng sự (2014) kết luận tỷ lệ sở hữu nhà nước cao hơn trong doanh nghiệp lớn hơn sẽ tạo ra kết quả tốt hơn (ROA, ROE cao hơn). Điều này có thể đúng với các doanh nghiệp sản xuất niêm yết bởi các doanh nghiệp này có quy mô lớn, tạo ra đánh giá tốt của thị trường về doanh nghiệp. 6.2. Kết luận Bài nghiên cứu phân tích các nhân tố vi mô và vĩ mô ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp của các doanh nghiệp sản xuất niêm yết trên hai Sở chứng khoán Hà Nội (HNX) và Thành phố Hồ Chính Minh (HOSE). Mẫu nghiên cứu bao gồm 846 quan sát của 94 doanh nghiệp trong 9 năm từ 2006 đến 2014. Nghiên cứu sử dụng các mô hình OLS gộp, mô hình tác động cố định (FEM) và mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) để xử lý bộ dữ liệu bảng. Kết quả các kiểm định F, kiểm định Hausman và kiểm định Breusch and Pagan LM cho thấy mô hình FEM phù hợp hơn hai mô hình còn lại là OLS gộp và REM. Kết quả ước lượng sử dụng robust s.e để làm giảm ảnh hưởng của hiện tượng phương sai sai số thay đổi và tự tương quan gây ra. Kết quả hồi quy cho thấy giá trị doanh nghiệp bị ảnh hưởng lớn bởi các biến số vĩ mô. Tăng trưởng GDP và tăng trưởng cung tiền M2 đều có ảnh hưởng dương đến giá trị doanh nghiệp. Điều này gợi ý doanh nghiệp nên cập nhật thông tin về kinh tế vĩ mô thường xuyên, để có thể tận dụng những lợi thế khi doanh nghiệp có sự gia tăng về giá trị. Ngược lại, lãi suất kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP 76 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016) và biến động tỷ giá lại có tác động tiêu cực đến giá trị doanh nghiệp. Điều này gợi ý cho doanh nghiệp sử dụng các biện pháp quản lý rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá để bảo vệ giá trị doanh nghiệp. Trong các yếu tố vi mô, khả năng sinh lời có tác động mạnh mẽ và rõ ràng nhất đến giá trị doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ hình chữ U ngược giữa đòn bẩy tài chính và giá trị doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp với tỷ lệ đòn bẩy thấp nên xem xét việc đi vay trong khi doanh nghiệp với tỷ lệ vay nợ cao nên thận trọng trước tác động của nó đến giá trị doanh nghiệp. Có một số bằng chứng yếu cho thấy rủi ro kinh doanh có ảnh hưởng tích cực đến giá trị doanh nghiệp, (có thể hiểu theo hướng những biến động tăng trong dòng thu nhập, so với sự ổn định hoặc xu hướng giảm của độ lệch chuẩn lợi suất, có thể ảnh hưởng tốt đến giá trị doanh nghiệp). Tuy nhiên, tác giả đề xuất sử dụng các biến biểu thị khác thay cho biến Brisk để có kết quả đáng tin cậy hơn. Nghiên cứu tìm thấy ít bằng chứng ủng hộ giả thuyết về tác động của các vấn đề đại diện và cấu trúc sở hữu đến giá trị doanh nghiệp. Kết quả hồi quy cũng cho thấy quy mô và tính thanh khoản không có tác động đến giá trị các doanh nghiệp sản xuất đại chúng.q Tài liệu tham khảo 1. Akbar A., Imdadullah M., Ullah M. A. and Aslam M. (2011). Determinants of Economic Growth in Asian Countries: A Panel Data Perspective. Pakistan Journal of Social Sciences, vol.31, no.1, pp.145-157. 2. Allison P. D. (2005). Fixed Effects Regression Methods for Longitudinal Data Using SAS. Cary, NC: SAS Institute Inc. 3. Fernando A.C. (2006). Corporate Governance Principles, Policies and Practices. Pearson Education. 4. Bhuiya M., Ahmed E., and Haque M. (2015). Corporate internaltional diversification, exchange rate exposure, and firm value: An analysis on United Kingdom multinationals. International Journal of Economics, Commerce and Management, Vol. III, Issue 3. 5. Fauver L., and Naranjo A. (2010). Derivative usage and firm value: The influence of agency costs and monitoring problems. Journal of Corporate Finance, 16, 719-735. 6. Ferri M. G., and Jones W. H. (1979). Determinants of Financial Structure: a New Methodological Approach. The Journal of Finance, vol. 34, no.3. 7. Geczy C., Minton B.A. and Schrand C. (1997). Why Firms Use Currency Derivatives. The Journal of Finance, Vol.52, No.4, pp.1323-1354. kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP 77Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016) 8. Halim M., Jaafar M., Osman O. and Haniff M. (2012). Financial Ratio Analysis: An Assessment of Malaysian Contracting Firms. Journal of Construction in Developing Countries, Supp. 1, 71-78. 9. Iavorskyi M. (2013). The impact of capital structure on firm performance: Evidence form Ukraine. Kyiv School of Economics. 10. Jensen M. C., and Meckling W. H. (1976). Theory of the Firm: Managerial Behavior, Agency Costs and Ownership Structure. Journal of Financial Economics, vol. 3, no. 4, pp. 305-360. 11. Jia W. and Chen B. (2008). Financial Risk, Business Risk and Firm Value for Logistics Industry. IEEE. 12. Lins K. V. (2003). Equity Ownership and Firm Value in Emerging Markets. Journal of Financial and Quantitative Analysis. Vol.38, no.1. 13. Macdonald N. T. (1999). Macroeconomics and Business: An Interactive Approach. Thomson Learning. 14. Malik M. và Shah S. (2013). Value Relevance of Firm Specific Corporate Governance and Macroeconomic Variables: Evidence from Karachi Stock Exchange. Pakistan Journal of Commerce and Social Sciences, vol.7,pp.276-297 15. Oscar T. (2007). Panel Data Analysis Fixed and Random Effects using Stata. Princenton University. 16. Putu N., Moeljadi, Djumahir and Djazuli A. (2014). Factors Affecting Firms Value of Indonesia Public Manufacturing Firms. International Journal of Business and Management Invention, vol.3, issue 2, pp.35-44. 17. Schmidheiny K. (2014). Short Guides to Microeconometrics - Panel Data: Fixed and Random Effects. Unversit-at Basel. 18. Tran N. M., Nonneman W. and Jorissen A. (2014). Government Ownership and Firm Performance: The Case of Vietnam. International Journal of Economics and Financial Issues, vol. 4, no. 3, pp.628-650. 19. Vergos K., Christopoulos A., Kalogirou V. (2011). Macroeconomic factors as determinants of company value in the context of the Ohlson residual income valuation model: Greek findings. SSRN Working Paper. 20. Wang G. Y. (2014). The Impacts of Free Cash Flows and Agency Costs on Firm Performance. Journal o f Service Science & Management, 2010, 3, 408-418. 21. Wang K. and Xiao X. (2009). Ultimate Government Control Structures and Firm Value: Evidence from Chinese Listed Companies. China Journal of Accounting Research, vol.2, issue 1. 22. Zeitun R., Tian G. và Keen S. (2007) Macroeconomic determinants of corporate performance and failure: evidence from an emerging market the case of Jordan. Corporate Ownership and Control, vol.5, pp.179-194.
File đính kèm:
- cac_nhan_to_anh_huong_toi_gia_tri_doanh_nghiep_san_xuat_cong.pdf