Các mô hình trách nhiệm hình sự đối với thực thể trí tuệ nhân tạo: Từ khoa học viễn tưởng đến viễn cảnh đặt ra trong chính sách, pháp luật hình sự Việt Nam
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) là cuộc cách mạng thể hiện sự kết hợp của
công nghệ trong các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học, tạo ra thời đại công nghệ thông tin kết hợp giữa
các hệ thống ảo và thực thể, vạn vật đều kết nối Internet và các hệ thống kết nối Internet diễn ra trên
phạm vi toàn cầu. Trong số các lĩnh vực có sự chuyển dịch sâu sắc có trí tuệ nhân tạo (AI) và quá trình
ra quyết định. Vấn đề đặt ra là liệu trong tương lai có thể đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự (TNHS)
đối với thực thể AI hay không khi Bộ luật Hình sự (BLHS) nhiều nước, trong đó có Việt Nam cũng
đã quy định TNHS đối với “thực thể trừu tượng” là pháp nhân. Trên cơ sở này, với cách tiếp cận
khoa học luật hình sự và khoa học viễn tưởng, bài viết “giả định” thực thể AI là chủ thể của tội phạm
thì liệu sẽ có các mô hình TNHS nào dự kiến có thể áp dụng đối với thực thể AI này và viễn cảnh đặt
ra trong chính sách, pháp luật hình sự (PLHS) Việt Nam tương lai thay đổi thế nào, từ đó kiến nghị
tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, cũng như góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm
và bảo vệ hữu hiệu các quyền con người trong cuộc CMCN 4.0 nói riêng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các mô hình trách nhiệm hình sự đối với thực thể trí tuệ nhân tạo: Từ khoa học viễn tưởng đến viễn cảnh đặt ra trong chính sách, pháp luật hình sự Việt Nam
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19 1 Review Article Models of Criminal Liability of Artificial Intelligence: From Science Fiction to Prospect for Criminal Law and Policy in Vietnam Trinh Tien Viet* VNU School of Law, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Received 15 November 2019 Revised 01 December 2019; Accepted 20 December 2019 Abstract: The Industrial Revolution 4.0 (4IR) reflects combination of technologies in physics, digitalisation and biology, shaping a modern world of information technology where virtual and real systems are integrated through worldwide internet connection networks. Artifical Intelligence (AI) and decision making process have seen profound changes. The relevant question is whether criminal liability is applicable to AI entities in the near future given criminal law in many jurisdictions including Vietnam has provided for criminal liability of legal persons as “abstract entities”. On this basis, from the criminal law and science fiction approach, the paper initially assumes AI entities as subjects of crimes to explore possible models of criminal liability applicable to AI entities and prospect for changes of criminal law and policy in Vietnam in the future, making recommendations on improvement of legal framework, contributing to crime prevention and protection of human rights in the industrial revolution 4.0. Keywords: Criminal liability; AI entity; model of criminal liability; Criminal Law. ________ Corresponding author. E-mail address: ttviet@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4257 VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19 2 Các mô hình trách nhiệm hình sự đối với thực thể trí tuệ nhân tạo: Từ khoa học viễn tưởng đến viễn cảnh đặt ra trong chính sách, pháp luật hình sự Việt Nam1 Trịnh Tiến Việt* Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 15 tháng 11 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 01 tháng 12 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 12 năm 2019 Tóm tắt: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) là cuộc cách mạng thể hiện sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học, tạo ra thời đại công nghệ thông tin kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, vạn vật đều kết nối Internet và các hệ thống kết nối Internet diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Trong số các lĩnh vực có sự chuyển dịch sâu sắc có trí tuệ nhân tạo (AI) và quá trình ra quyết định. Vấn đề đặt ra là liệu trong tương lai có thể đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với thực thể AI hay không khi Bộ luật Hình sự (BLHS) nhiều nước, trong đó có Việt Nam cũng đã quy định TNHS đối với “thực thể trừu tượng” là pháp nhân. Trên cơ sở này, với cách tiếp cận khoa học luật hình sự và khoa học viễn tưởng, bài viết “giả định” thực thể AI là chủ thể của tội phạm thì liệu sẽ có các mô hình TNHS nào dự kiến có thể áp dụng đối với thực thể AI này và viễn cảnh đặt ra trong chính sách, pháp luật hình sự (PLHS) Việt Nam tương lai thay đổi thế nào, từ đó kiến nghị tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, cũng như góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ hữu hiệu các quyền con người trong cuộc CMCN 4.0 nói riêng. Từ khóa: TNHS; thực thể AI; mô hình TNHS; PLHS. I. Dẫn nhập * 1. Đặt vấn đề1 Thế giới khoa học và công nghệ đang phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, đem lại nhiều ________ * Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: ttviet@vnu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4257 1 Bài viết có tham khảo ý tưởng và một số nội dung trong bài viết của tác giả Gabriel Hallevy, The Criminal Liability of Artificial Intelligence Entities - from Science Fiction to Legal Social Control, Akron Intellectual Property Journal, Vol.4: Iss.2, Article, 2010, p.171-219. thành tựu, hiệu quả thiết thực cho con người trong cuộc CMCN 4.0. Theo đó, rô-bốt và máy tính đang thay thế dần tất cả các hoạt động của con người [1; p.172]2. Tuy nhiên, cách mạng khoa học và công nghệ cũng mang đến cho ________ 2 Một thực tế là, phải mất hàng trăm năm chúng ta mới có thể chấp nhận được rằng máy móc làm tốt hơn chúng ta ở các lĩnh vực. Nếu như ở quá khứ, máy móc chỉ đánh bại con người ở lĩnh vực lao động chân tay thì trong khoảng 50 năm trở lại đây, dường như chúng ta đang bị thất thế ở cả những công việc mang tính trí tuệ. Dường như cuộc chạy đua sẽ kết thúc vào khoảng năm 2062 với phần thắng nghiêng về Người số. Xem: Toby Walsh, Năm 2062 - Thời đại của trí thông minh nhân tạo, Đỗ Tôn Minh Khoa dịch, Nxb. tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2019, tr.29. T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19 3 nhân loại những thách thức, cảnh báo và đặt ra các mối nguy hiểm mới [2; tr.462]. Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã từng bước chủ động đề ra các giải pháp, cách thức ứng phó từ phương diện chính sách, chủ trương đến ban hành hệ thống văn bản pháp luật và đề ra những giải pháp thực thi, nhưng xét riêng ở phương diện pháp lý, nhìn tổng thể vẫn có sự phản ứng chậm của pháp luật, trong đó có cả PLHS để điều chỉnh hàng loạt những vấn đề phát sinh mới từ sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ, của AI [2; tr.463-464]. CMCN 4.0 là cuộc cách mạng thể hiện sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học, tạo ra thời đại công nghệ thông tin kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, vạn vật đều kết nối Internet và các hệ thống kết nối Internet diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Theo ông Klaus Schwab3, thì có 23 lĩnh vực chính có sự dịch chuyển sâu sắc bao gồm: (1) Các công nghệ cấy ghép; (2) Hiện diện số; (3) Mắt trở thành giao diện mới; (4) Internet đeo trên người; (5) Điện toán phổ cập khắp nơi; (6) Siêu máy tính bỏ túi; (7) Dịch vụ lưu trữ cho tất cả; (8) Internet kết nối vạn vật; (9) Nhà kết nối mạng; (10) Thành phố thông minh; (11) Dữ liệu lớn hỗ trợ ra quyết định; (12) Ô tô không người lái; (13) AI và quá trình ra quyết định; (14) AI và công việc văn phòng; (15) Khoa học rô-bốt và dịch vụ; (16) Bitcoin và chuỗi khối; (17) Nền kinh tế chia sẻ; (18) Chính phủ và chuỗi khối; (19) Công nghệ in và sản xuất 3D; (20) Công nghệ in 3D và sức khỏe con người; (21) In 3D và các sản phẩm tiêu dùng; (22) Con người theo thiết kế và; (23) Công nghệ thần kinh [3; tr.201-204]. Trong số này, AI có sự thay đổi mạnh mẽ và khi gắn AI với một thực thể, sự kiểm soát xã ________ 3 Chủ tịch Điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới (TG). hội và xây dựng một “khung pháp lý” để điều chỉnh hoạt động (hành vi) của thực thể AI không chỉ là khoa học viễn tưởng, mà còn là vấn đề thực tiễn đang từng ngày diễn ra trên toàn thế giới, với sự phát triển vượt bậc, siêu việt thì rõ ràng chúng ta chưa thể lường trước, chưa thể dự đoán trước được những nguy hiểm tiềm ẩn, khó lường nhưng vẫn có thể từng bước nhận diện, mô phỏng, dự báo được có thể xảy ra đối với con người mà trước hết là con người sử dụng AI để thực hiện các mục đích xấu4, tiếp đến là khi thực thể AI tự quyết định, tự thực hiện thì mức độ nguy hiểm cho xã hội báo động đến thế nào (mà nhiều bộ phim khoa học viễn tưởng đã đặt ra). Do đó, thực tiễn pháp lý xã hội này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, hoạch định chính sách, PLHS để điều chỉnh kịp thời và ứng phó với vấn đề đã nêu, là trách nhiệm không chỉ của các nhà dự báo học, công nghệ học, khoa học thần kinh, chính sách học, tâm lý học, ngôn ngữ học mà còn là nhiệm vụ của các nhà luật học5. ________ 4 Hiện nay và tương lai, các hoạt động mà các đối tượng phạm tội có thể lợi dụng AI để thao túng, điều khiển các thiết bị bay không người lái, phát tán các đoạn phim giả mạo, tấn công hệ thống an ninh trên diện rộng cũng như thực hiện nhiều hình thức khủng bố khác tới nhiều quốc gia... Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng của AI dần vượt ra khỏi tầm kiểm soát, khiến công nghệ này có thể trở thành tay sai đắc lực cho những đối tượng, tổ chức có dã tâm bạo loạn, khủng bố... Nhiều chuyên gia nhận định, AI sẽ thay đổi hình thức gây nguy hiểm cho công dân, tổ chức và nhà nước - ở đó tội phạm “huấn luyện”/đào tạo máy móc có kỹ năng giống người để tấn công mạng hoặc do thám, thu thập thông tin và nhận dạng mục tiêu nhằm phục vụ mục đích cá nhân hay thao túng chính trị. Các nhà khoa học dự báo có rất nhiều nguy cơ đang hiển hiện liên quan đến AI, đặc biệt là âm mưu sử dụng các kỹ thuật mới, bao gồm thiết bị không người lái, các công cụ tấn công mạng tự động để can thiệp bầu cử, giả mạo giọng nói mục tiêu, sử dụng phần mềm nhận diện khuôn mặt, hay tạo ra các nội dung đánh lừa người xem với tốc độ lan truyền chóng mặt trên các mạng xã hội. Trong các năm tới, viễn cảnh những chiếc xe không người lái lao vào đám đông người đi bộ, hay các tòa nhà của Chính phủ bị tấn công bằng máy bay không người lái có thể sẽ sớm trở thành hiện thực... là những mối nguy hiểm rất cao, đáng lo ngại cho đời sống xã hội, cho an ninh, an toàn xã hội và con người (TG). 5 Ví dụ: Google đã và đang ứng dụng AI vào lĩnh vực xe tự hành, nhận diện giọng nói; Facebook sử dụng AI vào việc nhận diện hình ảnh; Microsoft đang theo đuổi dự án điều trị ung thư bằng AI; SoftBank sử dụng AI, chế tạo rô-bốt Pepper làm lễ tân; v.v... T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19 4 Câu hỏi pháp lý đầu tiên đặt ra là liệu “cỗ máy biết suy nghĩ” có phải là chủ thể của tội phạm trong PLHS hay không và các mô hình TNHS dự kiến sẽ như thế nào nếu nó (thực thể AI6) trở thành chủ thể của tội phạm. Sự kiện năm 1981, một nhân viên 37 tuổi người Nhật của nhà máy sản xuất xe máy đã bị giết bởi một rô-bốt có AI làm việc gần đó. Rô-bốt đã lầm tưởng người nhân viên là một mối nguy hại đối với việc thực hiện nhiệm vụ của mình và tính toán rằng phương thức hiệu quả nhất loại trừ mối nguy này bằng cách đẩy người nhân viên vào một cái máy đang vận hành gần đó bằng sử dụng cánh tay thủy lực rất mạnh của mình để nghiền nát và sau đó tiếp tục làm việc dẫn đến người nhân viên bị nghiền nát chết [1; p.171]; [4; p.267, p.273]. Như vậy, đây không phải là một câu chuyện khoa học viễn tưởng - viển vông nữa mà là vấn đề pháp lý (hình sự) đặt ra: Chủ thể nào chịu TNHS về hành vi giết người này và liệu thực thể AI có cần thiết nên và được coi là chủ thể của tội phạm hay không. Sau đó, theo thời gian, khoa học và công nghệ đã, đang thay đổi mạnh mẽ và nhanh chóng trên toàn thế giới, rô-bốt, máy tính ngày một phát triển và dần thay thế toàn bộ hoạt động con người. Tuy nhiên, vấn đề mỗi ngày một phức tạp, khó lường hơn khi máy tính tiến hóa từ cỗ máy “tư duy” (cỗ máy được lập trình để thực hiện các quy trình hay phép tính xác định) trở thành cỗ máy “biết suy nghĩ” (hay còn gọi là trí tuệ nhân tạo-AI) [1; p.172]. Cùng với đó, cỗ máy mang AI đã và ngày càng có khả năng tư duy, nhận thức, trí tuệ, cảm xúc và hành động độc lập, toàn diện, thông minh hơn con người, thậm chí đòi bình đẳng như con người [5; p.31-98]. Như vậy, trước tiên, AI có thể được mô tả ngắn gọn là khoa học làm cho máy móc trở nên thông minh, để có thể thực hiện các nhiệm vụ thường đòi hỏi trí thông minh của con người. Lái xe, giao dịch cổ phiếu tại sàn giao dịch chứng khoán và xác định mục tiêu quân sự ________ 6 Lưu ý, thực thể AI có thể có bề ngoài thực thể (ví dụ như rô- bốt), song đôi khi nó chỉ là sự tồn tại một cách trừu tượng (ví dụ như phần mềm được cài đặt trên một hệ thống máy tính hay trên một máy chủ mạng lưới)... Vì vậy, trong bài viết này, thực thể AI có bề ngoài thực thể và có trí tuệ nhân tạo (TG). trong chiến tranh là những ví dụ về các nhiệm vụ cần thiết trí tuệ con người [6; tr.81-83]7 . Ngày nay, có AI có thể thực hiện các nhiệm vụ chính xác tuyệt đối mà không cần có con người tham gia [7; p.12]. Song, đồng thời chúng cũng có thể được lập trình, được học tập, được biến đổi và kèm theo đó là có hành động lệch chuẩn, xâm phạm đến an ninh, trật tự xã hội và quyền con người mà PLHS thiết lập, bảo vệ. Ở đây, một mối liên hệ đặt ra là đã một “thực thể trừu tượng” được tạo ra bởi pháp luật như “pháp nhân” đã được PLHS nhiều nước, trong đó có PLHS Việt Nam8 ghi nhận (ở nước ta là pháp nhân thương mại phạm tội), thì lôgíc - xu hướng là sự ghi nhận tương tự có lẽ cũng sớm diễn ra (thời gian có thể sau vài chục năm nữa, cũng có thể phỏng đoán dự báo là năm 2062 theo một số nhà khoa học) được đặt ra đối với “cỗ máy mang AI” - thực thể cũng được chính con người tạo ra nhưng càng ngày giống con người, thay thế nhiều và dần toàn bộ hoạt động của con người, “siêu việt” hơn con người ở nhiều phương diện [8; tr.1]9, ________ 7 Theo tác giả John McCarthy, Đại học Stanford, trí tuệ nhân tạo (AI) là lĩnh vực nghiên cứu (khoa học và công nghệ) nhằm mang lại sự thông minh cho các máy tính (intelligent machines), đặc biệt là các chương trình máy tính thông minh (intelligent computer programs), Xem thêm: truy cập ngày 10/10/2019. Ngoài ra, hiện nay, nghiên cứu đã chỉ ra tương lai có thể có 26 loại AI mới: (1) Một trí tuệ như của con người, nhưng trả lời và giải đáp nhanh hơn; (2) Một trí tuệ rất chậm, chủ yếu gồm các bộ nhớ và lưu trữ; (3) Một siêu trí tuệ toàn cầu gồm hàng triệu trí tuệ; (4) Một trí óc tập thể gồm nhiều trí tuệ thông minh, nhưng không nhận thức được mình là một tập thể; (5) Một siêu trí tuệ người máy gồm nhiều tiểu trí tuệ có nhận thức và tạo thành thể thống nhất; (6) Một trí tuệ được rèn luyện để hỗ trợ trí tuệ riêng bạn; (7) Một trí tuệ có khả năng hình dung ra một trí tuệ vĩ đại hơn, nhưng không thể tạo ra nó; (8) Một trí tuệ có khả năng hình dung ra một trí tuệ vĩ đại hơn, nhưng không thể hình dung ra nó; (9) Một trí tuệ có khả năng tạo ra trí tuệ vĩ đại hơn đúng một lần; (10) Một trí tuệ có khả năng ra một trí tuệ vĩ đại hơn và trí tuệ vĩ đại hơn lại tạo ra được trí tuệ vượt trội... 8 BLHS Việt Nam năm 2015, sửa đổi năm 2017 đã bổ sung chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại phạm tội (TG). 9 Đặc biệt, các nhà nghiên cứu AI thế giới cho rằng, đến một lúc nào đó chúng sẽ phát triển vượt ra khỏi tầm kiểm soát của con người, đồng thời đưa ra các cảnh báo về cuộc thảm họa có thể xảy ra trong tương lai và có thể dẫn đến nguy hiểm cho cho người: (1) AI có khả năng giả dạng con người dẫn đến tiếp tay cho việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản; (2) AI T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19 5 thậm chí các nhà công nghệ học còn dự báo và lo sợ đến một lúc AI phát triển vượt bậc, biến con người trở thành vô dụng, thừa và có thể đưa loài người đến chỗ diệt vong với nhiều kịch bản đặt ra [9; tr.72]. Do đó, với sự thay đổi không còn là viễn tưởng khoa học thì điều này cần được dự liệu, mô phỏng, lý giải nghiên cứu, từng bước dự báo và dự kiến điều chỉnh trong chính sách, PLHS Việt Nam tương lai nếu coi “thực thể AI” là chủ thể của tội phạm [10; tr.271]. 2. Cách tiếp cận Như vậy, từ cách dẫn nhập trên, bài viết được tiếp cận dưới góc độ khoa học luật hình sự (căn cứ lý luận về tội phạm ... nh thủ tục, trình tự bắt giữ, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành ________ 34 Từ đây, dẫn đến các thay đổi lớn trong pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự và nhiều đạo luật khác có liên quan (TG). Tiếp theo “giả định” trên, giả định tiếp rằng thực thể AI phải chịu TNHS, đồng thời bị truy tố, xét xử và buộc tội thì việc bắt giữ, điều tra, truy tố và xét xử thế nào35. Sau khi buộc tội, Tòa án phải đưa ra bản án đối với thực thể AI thì hệ thống biện pháp cưỡng chế về hình sự sẽ áp dụng là gì (có nhiều loại biện pháp cưỡng chế về hình sự khác nhau, trong đó quan trọng nhất là hình phạt gì, thi hành thế nào). Tất cả những vấn đề này cần được dự liệu trong chính sách hình sự và trong xây dựng, áp dụng PLHS. Ở đây, chúng tôi ví dụ một loại hình phạt - biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất hiện đang áp dụng đối với người phạm tội là tử hình (còn đối với pháp nhân là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn). Theo đó, tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong các nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do BLHS quy định. Vì vậy, câu hỏi đặt ra ở đây, trường hợp thực thể AI phạm tội cũng tương tự, thì hình phạt áp dụng đối với thực thể AI này tương tự như hình phạt tử hình là gì. Rõ ràng, “mạng sống” của một thực thể AI chính là sự tồn tại độc lập như là một thực thể. Đôi khi thực thể AI có bề ngoài thực thể (ví dụ, như là một con rô-bốt), đôi khi nó chỉ là sự tồn tại một cách trừu tượng (ví dụ, như là một phần mềm được cài đặt trên một hệ thống máy tính hay trên một máy chủ mạng lưới)... [1; p.200]. Do đó, hình phạt tử hình đối với thực thể AI có thể ví dụ là: xóa bỏ (hủy bỏ) phần mềm AI kiểm soát thực thể AI (các nhà công nghệ học cần kết hợp với các nhà luật học). Tuy nhiên, việc quy định trình tự, thủ tục thi hành hình phạt này sẽ như thế nào (chưa nói đến các hình phạt khác và việc quy định thủ tục, trình tự bắt giữ, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành ra sao...). Những vấn đề này cũng rất quan trọng khi quy định TNHS đối với thực thể AI thì việc đặt ra hệ thống chế tài hình phạt dự ________ 35 Về nội dung này, chúng tôi sẽ tiếp tục đề cập trong một số nghiên cứu khác sắp tới (TG). T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19 17 kiến áp dụng cũng là nhiệm vụ không kém phần quan trọng. 5. Phát sinh vấn đề đổi mới tư duy về chính sách, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự, hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan Đây là vấn đề phái sinh từ các vấn đề trên. Đổi mới chính sách, PLHS cũng có nghĩa đồng thời phải đổi mới tư duy về xây dựng chính sách, pháp luật của các luật hình thức... (luật tố tụng hình sự và luật thi hành án hình sự) trên cơ sở những định hướng cơ bản trong chính sách, PLHS, qua đó, tạo hệ thống tổng thể đáp ứng yêu cầu mới của đất nước và dự báo tương lai. Ngoài ra, chính sách hình sự đặt ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ thông tin và có liên quan đến AI như: (1) Luật Công nghệ cao năm 2008, sửa đổi năm 2013, 2014; (2) Luật Công nghệ thông tin năm 2006; (3) Luật An ninh thông tin mạng năm 2015; (4) Luật An ninh mạng năm 2018; (5) Và các văn bản tạo hàng lang pháp lý điều chỉnh các lĩnh vực cụ thể như: AI, tiền ảo, công nghệ in 3D... tạo hệ thống toàn diện, tổng thể trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm do thực thể AI thực hiện trước thách thức CMCN 4.0. 6. Nhu cầu lớn trong việc tăng cường hợp tác quốc tế, cũng như công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đội ngũ chuyên môn tạo tổng thể hệ thống đáp ứng yêu cầu trước thách thức của thực thể AI có hoạt động gây ra các hậu quả nguy hiểm cho xã hội Như vậy, cùng với việc đổi mới tư duy, hoàn thiện chính sách, PLHS thì cơ chế bảo đảm đòi hỏi thường xuyên tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm với khu vực và toàn cầu như: hợp tác song phương, đa phương, tham gia các tổ chức phòng, chống tội phạm quốc tế nhằm từng bước tiếp cận, chuyển giao các công nghệ, kỹ năng phòng, chống tội phạm, nắm bắt kiến thức, công nghệ về sử dụng các phương tiện công nghệ, kinh nghiệm phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh chống tội phạm do thực thể AI thực hiện... Đặc biệt, việc có chính sách liên quan đến xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác lập pháp, hành pháp và tư pháp tinh thông về AI trong giải quyết, ứng phó cũng là xu hướng cần triển khai sớm. Kết hợp nghiên cứu giữa các nhà luật học với các nhà tâm lý học, khoa học thần kinh, công nghệ học, ngôn ngữ học, giáo dục học và kinh tế học trong nghiên cứu về AI, chính sách để xử lý, kiểm soát thực thể AI và phòng ngừa thực thể AI vi phạm. Cùng với với việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển và sử dụng thành thạo các ứng dụng khoa học và công nghệ trong công tác phòng, chống tội phạm, kết hợp với đầu tư kinh phí mua sắm, trang bị các phương tiện hiện đại để phát hiện, thu thập các loại tài liệu, chứng cứ điện tử phục vụ công tác phát hiện, xử lý thì yêu cầu nâng cao trình độ, chuyên môn cho cán bộ là nhiệm vụ quan trọng để chủ động ứng phó, xử lý... Tóm lại, nghiên cứu bước đầu về các mô hình TNHS đặt ra dự kiến có thể áp dụng đối với thực thể AI là một vấn đề vô cùng khó khăn và mới tại Việt Nam và cũng trở lên khoa học viễn tưởng khi “thực thể AI” vẫn do con người tạo ra và điều kiện chịu TNHS đối với một chủ thể vẫn đòi hỏi các yếu tố khách quan và chủ quan. Xã hội luôn biến đổi không ngừng, thay đổi trong lĩnh vực khoa học và công nghệ thì ngày càng trở lên như vũ báo và cũng khó dự đoán khó lường, không thể thấy trước được. Tuy nhiên, nghiên cứu này bước đầu dự liệu tương lai viễn cảnh ở nước ta, cũng như có thêm kiến nghị giúp cho việc nghiên cứu, hoạch định chính sách hình sự và xây dựng, hoàn thiện hệ thống PLHS trong bối cảnh CMCN 4.036 [40]; [41; tr.17-18]; [42; tr.204-216]; [43; tr.9-21], qua đó, không chỉ bảo vệ con người trước những hành vi nguy hiểm cho thực thể AI ________ 36 Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ tư, trong đó tại mục III có đề ra một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ tư (TG). T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19 18 thực hiện, mà còn có cơ chế kiểm soát đối với chủ thể này, nếu tương lai nó là chủ thể của tội phạm và phải chịu TNHS [39; tr.3-7]37. Mặc dù vậy, là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam nên chúng tôi không tránh khỏi có nhận xét, đánh giá mang tính phỏng đoán, còn mơ hồ và chưa toàn diện về cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc, nhưng chúng tôi tin rằng, sẽ có nhiều nghiên cứu sâu, rộng và liên ngành [2]; [44]; [45; tr.1200-1236] về chủ đề này kết hợp trong tương lai bởi các nhà luật học, dự báo học, khoa học thần kinh, ngôn ngữ học, công nghệ học và tâm lý học. Tài liệu tham khảo [1] Gabriel Hallevy, The Criminal Liability of Artificial Intelligence Entities - from Science Fiction to Legal Social Control, Akron Intellectual Property Journal, Vol.4: Iss.2, Article, 2010, https://ideaexchange.uakron.edu/akronintellectual property/vol4/iss2/1. [2] I.N. Mosechkin, Artificial Intelligence and Criminal Responsibility: Problems of the Formation of a New Type of Crime Subject, Vestnik SPbGU. Right. 2019.Vol. 10. Vol. 3 (И. Н. Мосечкин, Искусственный интеллект и уголовная ответственность: проблемы становления нового вида субъекта преступления, Вестник СПбГУ. Право. 2019. Т. 10. Вып. 3). [3] Klaus Schwab, Fourth Industrial Revolution, National Political Publishing House - Truth, Hanoi, 2018 (in Vietnamese). [4] Yueh-Hsuan Weng, Chien-Hsun Chen, Chuen- Tsai Sun, Toward the Human-Robot Co-Existence Society: On Safety Intelligence for Next Generation Robots, INT.J.SOC, ROBOT, 2009. ________ 37 Tác giả Toby Walsh không chỉ trình bày các thành tựu của công nghệ máy tính bằng văn phong và ngôn ngữ truyền cảm hứng, tập sách có cách dẫn dắt tuyệt vời để người đọc - dù không chuyên về lĩnh vực máy tính - cảm nhận được rằng cái ngày trí thông minh nhân tạo hiện diện trong nhiều cảnh huống của con người truyền thống, là đang gần đến như đưa tay sờ thấy được. Tác giả đặt một hình dung về nhân loại từ Người tinh khôn đến Người số - một giống loài được tạo ra bằng kỹ thuật số và sống trong môi trường kỹ thuật số. Trí thông minh nhân tạo sẽ phá hủy hay đóng góp cho sự phát triển của xã hội loài người... Xem: Toby Walsh, Năm 2062 - Thời đại của trí thông minh nhân tạo, Đỗ Tôn Minh Khoa dịch, Nxb. tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2019. [5] Klaus Schwab, The fourth industrial revolution: What it means, how to respond, World Economic Forum, Geneva, 2016. [6] Kevin Kelly, 12 technology trends in the 4.0 era, National Economics University Press, Hanoi, 2018 (in Vietnamese). [7] Matilda Claussén-Karlsson, Artificial Intelligence and the External Element of the Crime: An Analysis of the Liability Problem, JU101A, Final Thesis for the Law Program, Second Cycle, 30 Credits, Spring 2017. [8] Tien Phuc, Five frightening warnings about future AI disasters, accessed May 1, 2019 (in Vietnamese). [9] Amir Husain, Cỗ máy tri giác - Kỷ nguyên của trí thông minh nhân tạo, Hoàng Lan dịch, Nxb. Công thương, Hà Nội, 2019. [10] Trinh Tien Viet, Policy and Criminal Law of Vietnam against the challenge of Industrial Revolution 4.0, Proceedings of the National Scientific Conference: “Fourth Industrial Revolution and legal issues posed for the construction and completion of Vietnam legal system”, Ministry of Justice, Hanoi, June 24, 2019 (in Vietnamese). [11] Trinh Tien Viet, From the Beginning to the End of the Criminal Law, Journal of Law, VNU, Episode 34, No.1/2018 (in Vietnamese). [12] Trinh Tien Viet, Crime and criminal responsibility, National Political Publishing House, Hanoi, 2013 (in Vietnamese). [13] Lisa M Storm, Criminal Law, Chapter 4 - “Elements of a crime”, Lulu Publishing Services, United States, 2015. [14] Hoang Phe (chief editor), Vietnamese dictionary, Institute of Linguistics, Danang Publishing House and Dictionary Center, 2006 (in Vietnamese). [15] Nguyen Thi Que Anh, Ngo Huy Cuong (co-editor), The Fourth Industrial Revolution and issues on Vietnam's legal reform, National Political Publishing House - Truth, Hanoi, 2018 (in Vietnamese). [16] Klaus Schwab, Shaping the Fourth Industrial Revolution, translated by Nguyen Van and Thanh Thep, World Publishing House, Hanoi, 2019 (in Vietnamese). [17] Lawrence B. Solum, Legal Personhood for Artifical Intelligences, 70 N.C.L.REV, 1992. [18] Roger C. Schank, What Is AI Anyway?, Al MAG., Winter 1987. [19] George R. Cross, Cary G. Debessonet, An Artificial Intelligence Application in the Law: T.T. Viet / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-19 19 CCLIPS, A Computer Program that Processes Legal Information, 1 HIGH TECH. L.J., 1986. [20] Ajay Agrawal, Joshua Gans, Avi Goldfarb, Artificial Intelligence in the 4.0 technology revolution, translated by Dao Loi, Labor Publishing House, Hanoi, 2018 (in Vietnamese). [21] Robert P. Fine, Gary M. Cohen, Is Criminal Negligence a Defensible Basic for Criminal Liability? 16 BUFF. L. REv., 1966. [22] Donald Stuart, Mens Rea, Negligence and Attempts, CRIM. L. REV., 1968. [23] Steven J. Frank, Tort Adjudication and the Emergence of Artificial Intelligence Software, 21 SUFFOLK U. L. REV., 1987. [24] Maruerite E. Gerstner, Liability Issues with Artificial Intelligence Software, 33 SANTA CLARA L. REV, 1993. [25] Margaret A. Boden, Has AI Helped Psychology?, The Foundations of Artifical Intelligence, Derek Partridge & Yorick Wilks eds., 2006. [26] Daniel C. Dennett, Evolution, Error, and Intentionality, The Foundations of Artifical Intelligence Derek Partridge & Yorick Wilks eds., 2006. [27] Robert Batey, Judicial Exploration of Mens Rea Confusion at Common Law and Under the Model Penal Code, 18 GA. ST. U. L. REV. 341, 2001. [28] David Levy, The Ethical Treatment of Artificially Conscious Robots, I INT'L J. SOC. ROBOTICS, 2009. [29] Dylan Evans, Can robots have emotions?, Oxford University Press, 2001, tion.pdf, truy cập ngày 19/9/2019. [30] Tang Howe Hing, Musa Mailah, Simulator for Control of Control of Autonomous Nonholomich Wheeled Robot, 8 J. OF APPLIED SCI. 2534, 2536, 2008. [31] Le Van Cam, Postgraduate Monograph: Basic issues in Criminal Law science (General Part), Hanoi National University Press, 2005 (in Vietnamese). [32] Dinh Van Que, Commenting on Criminal Code 2015 - Part 1: General provisions, Information and Communications Publishing House, Hanoi, 2017 (in Vietnamese). [33] AI accompanies the threat, accessed September 15, 2019 (in Vietnamese). [34] Andrew Weissmann, David Newman, Rethinking Criminal Corporate Liability, 82 IND. L.J., 2007. [35] Trinh Quoc Toan, Criminal Responsibility of Legal Entities in Criminal Law, National Political Publishing House, Hanoi, 2011 (in Vietnamese). [36] Nguyen Ngoc Hoa, The concept of crime and the determination of criminal liability of commercial legal entities in Vietnam's Criminal Code 2015, Juricprudence Journal, No.2/2016 (in Vietnamese). [37] Nguyen Ngoc Hoa (chief editor), Scientific commentary Criminal Code 2015, amended and supplemented in 2017 (General Part), Justice Publishing House, Hanoi, 2017 (in Vietnamese). [38] Le Cam (chief editor), Vietnam's criminal law from the tenth century to the present: History and reality, Hanoi National University House, 2018 (in Vietnamese). [39] Toby Walsh, 2062 - The era of artificial intelligence, translated by Do Ton Minh Khoa, Ho Chi Minh City General Publishing House, 2019 (in Vietnamese). [40] Politburo, Resolution No.52-NQ/TW on a number of guidelines and policies to actively participate in the Fourth Industrial Revolution, Hanoi, September 27, 2019 (in Vietnamese). [41] Trinh Tien Viet, Continuing to innovate legal thinking in Vietnamese Criminal Law before the challenge of Industrial Revolution 4.0, Journal of Procuratorate Studies, No.4 (31).2019 (in Vietnamese). [42] Trinh Tien Viet (Editor), Vietnam's criminal law before to non-traditional security challenges, National Politice Publishing House, Hanoi, 2019 (in Vietnamese). [43] Trinh Tien Viet, Vietnam's Criminal Policy in the Context of the Fourth Industrial Revolution, Journal of the People's Court, No.7(4).2019 (in Vietnamese). [44] formal.stanford.edu/jmc/whatisai/node1.html, truy cập ngày 10/10/2019. [45] Houbing Song, Ravi Srinivasan, Tamim Sookor, Sabina Jeschke (ed.), Smart Cities: Foundations, principles and applications, translated by Ngo Thanh Nam, National Political Publishing House - Truth, Hanoi, 2019 (in Vietnamese).
File đính kèm:
- cac_mo_hinh_trach_nhiem_hinh_su_doi_voi_thuc_the_tri_tue_nha.pdf