Các lối nói nghệ thuật tương đồng trong dân ca trữ tình sinh hoạt của người tày và người Thái

Là di sản văn hóa tinh thần nổi bật của tộc người, dân

ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái biểu đạt sâu đậm cho những điểm

tương đồng giữa hai tộc người này. Xét về mặt thi pháp lời thơ

nghệ thuật, một trong những điểm dễ nhận thấy là sự tương đồng

về các lối nói nghệ thuật. Qua khảo sát, nhóm tác giả nhận thấy

dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái đều phổ

biến bốn lối nói nghệ thuật là: Hàm ẩn, cầu khiến, khiêm nhường,

cường điệu. Các lối nói nghệ thuật này được sử dụng nhiều nhất

trong các loại dân ca mang tính đối đáp giao duyên như lượn cọi,

lượn slương, lượn rọi, khắp báo xao, khắp hạn khuống Sự gần

gũi về việc sử dụng các lối nói nghệ thuật đó có nguyên nhân từ

trình tự diễn xướng hát đối đáp và từ nhu cầu thể hiện tâm tư, tình

cảm của nhân vật trữ tình. Vì thế, nghiên cứu này có ý nghĩa mở

rộng ra cả các vấn đề liên quan tới văn hóa tộc người.

pdf 5 trang kimcuc 5240
Bạn đang xem tài liệu "Các lối nói nghệ thuật tương đồng trong dân ca trữ tình sinh hoạt của người tày và người Thái", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các lối nói nghệ thuật tương đồng trong dân ca trữ tình sinh hoạt của người tày và người Thái

Các lối nói nghệ thuật tương đồng trong dân ca trữ tình sinh hoạt của người tày và người Thái
26 Hà Xuân Hương 
CÁC LỐI NÓI NGHỆ THUẬT TƯƠNG ĐỒNG TRONG 
DÂN CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT CỦA NGƯỜI TÀY VÀ NGƯỜI THÁI 
SIMILARITY OF ARTISTIC EXPRESSIONS IN TAY AND THAI PEOPLE’S DAILY 
LYRICAL FOLK SONGS 
Hà Xuân Hương 
Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên; haxuanhuong_dhkh@yahoo.com.vn 
Tóm tắt - Là di sản văn hóa tinh thần nổi bật của tộc người, dân 
ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái biểu đạt sâu đậm cho những điểm 
tương đồng giữa hai tộc người này. Xét về mặt thi pháp lời thơ 
nghệ thuật, một trong những điểm dễ nhận thấy là sự tương đồng 
về các lối nói nghệ thuật. Qua khảo sát, nhóm tác giả nhận thấy 
dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái đều phổ 
biến bốn lối nói nghệ thuật là: Hàm ẩn, cầu khiến, khiêm nhường, 
cường điệu. Các lối nói nghệ thuật này được sử dụng nhiều nhất 
trong các loại dân ca mang tính đối đáp giao duyên như lượn cọi, 
lượn slương, lượn rọi, khắp báo xao, khắp hạn khuống Sự gần 
gũi về việc sử dụng các lối nói nghệ thuật đó có nguyên nhân từ 
trình tự diễn xướng hát đối đáp và từ nhu cầu thể hiện tâm tư, tình 
cảm của nhân vật trữ tình. Vì thế, nghiên cứu này có ý nghĩa mở 
rộng ra cả các vấn đề liên quan tới văn hóa tộc người. 
Abstract - As a prominent cultural heritage of the ethnic group, 
daily lyrical folk songs of Tay and Thai activities attain depth of the 
similarities between these two ethnic groups. In terms of poetic art 
poetry, one of the most recognizable points is the similarity of 
artistic expressions. Through the survey, we have found that in 
daily lyrical folk songs of the Tay and Thai people four art ways 
such as hidden expression, imperatives, humility and exaggeration 
are popular. These artistic expressions are used most in the folk 
songs that respond to love, such as luon coi, luon sluong, luon roi, 
khap bao xa, khap han khuong Closeness in the use of spoken 
ways of that art is caused by the order of singing and repartee 
singing and the need for expressing the feelings of lyrical 
characters. Therefore, this study has significant implications for 
both cultural and psychological ethnic sissues. 
Từ khóa - Sự tương đồng; các lối nói nghệ thuật; dân ca trữ tình 
sinh hoạt; người Tày; người Thái. 
Key words - similarity; artistic expression; romantic folk songs; Tay 
people; Thai people. 
1. Đặt vấn đề 
Tiếp cận dân ca trữ tình sinh hoạt (DCTTSH) Tày, Thái 
ở góc độ là một nghệ thuật ngôn từ, nhóm tác giả nhận thấy, 
để xây dựng hình tượng nhân vật trữ tình, DCTTSH của 
hai dân tộc đều cần đến vai trò của các cách thức thể hiện 
tình cảm, đóng vai trò như những công thức diễn đạt góp 
phần tạo nên lời vàng ý ngọc cho các chàng, các nàng trong 
dân ca. Các cách thức này không chỉ có hiệu quả lớn đối 
với nhu cầu thể hiện nội dung của nhân vật trữ tình mà còn 
đáp ứng tính đưa đẩy của trình tự diễn xướng hát đối đáp. 
Qua khảo sát 500 bài DCTTSH Tày với 4216 câu, được 
công bố trong các công trình [1], [3], [5], [6], [7], [10] và 
286 bài DCTTSH Thái với 6068 câu, được công bố trong 
[4], [11], [8], nhóm tác giả nhận thấy có sự tương đồng 
trong cách thức thể hiện tình cảm của nhân vật trữ tình, 
thông qua bốn lối nói nghệ thuật là: hàm ẩn, cầu khiến, 
khiêm nhường và cường điệu. 
2. Kết quả nghiên cứu và khảo sát 
2.1. Lối nói hàm ẩn 
DCTTSH Tày, Thái đều phổ biến lối nói hàm ẩn. Theo 
dõi sự xuất hiện của lối nói này trong DCTTSH Tày, Thái, 
nhóm tác giả nhận thấy 100% các bài DCTTSH Tày, Thái 
đều có sự xuất hiện của lối nói này. Đặc biệt lối nói này 
thường có mặt trong hai trường hợp: Trong lời mời hát đối 
đáp hoặc trong những bức thư tình, những lời hát nhắn gửi 
tình yêu đến đối phương. 
Trước hết, lối nói hàm ẩn này thường xuất hiện nhất 
trong những bài hát mời – mở đầu của mỗi cuộc hát. Người 
ta mời nhau hát. Trong lời mời ấy hàm chứa cả sự ướm hỏi 
về tình trạng yêu đương, hôn nhân của đối phương. Có khi, 
lời mời còn nhằm mục đích trêu ghẹo nhau về chồng em, 
vợ anh mặc dù người mời biết thừa đối phương còn cô đơn, 
lẻ bóng. Tất cả đều nhằm mục đích để cho đối phương chấp 
nhận tham gia cuộc hát và chứng minh sự chân thành khi 
đến với cuộc vui này, chuyện tình duyên này. Chẳng hạn, 
trong lượn cọi (hát gọi bạn tình) của người Tày, mở đầu 
cuộc hát là những lời khuyên mời theo tập quán mến khách 
của tộc người để được đối phương trả lời. Những lời 
khuyên mời ấy là cả một cung lượn nải (hát mời) dài tới 
vài trăm câu. Cách mời hát nêu những lí lẽ để đối phương 
bất khả kháng, buộc phải lên tiếng trả lời: hay em chê anh 
người xấu kém nên không đáng nói cùng, hay em sợ lời nói 
mất tiền của, hát để cầu mùa màng, hát kẻo một mai về già, 
kẻo bướm ong hội thời vận có mùa, kẻo một mai về nhà 
chồng Trong khắp hạn khuống (hát ở sàn chơi), khắp báo 
xao (hát giao duyên nam nữ) của người Thái, trước khi 
chính thức đi vào cuộc hát, các cô gái Thái cũng dò hỏi 
chàng trai bằng lối nói hàm ẩn, buộc chàng phải lên tiếng 
hát để chứng minh thành ý và tình trạng của mình. Cách 
nêu lí lẽ nghe ra đầy vẻ khích bác nhưng lại không đến mức 
quá trớn khiến người được mời phải mếch lòng, phật ý: 
- Tày: Bạn hợi dượng rừ ná nhặn dăng/ Nam Tào chẩm 
sổ rừ tẻ nhằng/ Thai đá hạy nhằng phân đan đuổi/ Tua cáy 
nuồm eng mà hết vằn (Bạn hỡi làm sao chẳng đáp lời/ Nam 
Tào xóa sổ đời hết thôi/ Chết rồi làm sao còn trăng trối/ Gà 
tơ đặt ván thế là rồi) [76, tr. 301]. 
- Thái: Pên xa păng xương mạy inh hưak chin lê/ Pên 
xa pưak xương mạy inh phắng/ Mia lả xắng ma dưn á? 
(Sừng sững đứng như cây dựa hơi thế anh ơi/ Sừng sững 
như cây gỗ dựa vách đất/ Vợ chàng nhắn đến đứng sao?) 
[4, tr. 321]. 
Cùng kiểu bóng gió, ám chỉ ấy, chàng trai Thái lại rủ 
cô gái cùng hát, cùng vui chơi nơi sân tình cho thỏa kiếp 
hoa ban, trọn đời hoa sung, kẻo hoa tàn rồi chẳng bướm 
ong nào buồn đậu nữa, kẻo người sẽ theo chồng, người sẽ 
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, VOL. 17, NO. 2, 2019 27 
già và đời sẽ dài: Ói pánh á é lỉn lé lỉn mờ khẻo đăm 
phắn nhắng thí nớ noọng lả ái á/ Ói pánh căn ơi khóp 
mừ nừng khẻo xáư chì mớ phô lé noọng hặc ái ới/  Pánh 
căn ơi khóp mờ nừng chí mí lụk nọi chắp nả xở lé pít 
niêu lé noọng pánh lé/ Ún hướn á khóp mờ nừng lúng 
làng phô noọng cọ chí đá lé noọng hặc ái á (Muốn vui 
chơi, hãy vui chơi thời răng trắng, hương phấn còn thơm/ 
Bởi rồi sẽ đến ngày em nhuộm răng đen về nhà chồng em 
yêu ạ/  Rồi ngày nào đó em sẽ có con mọn bấu ngực áo 
khó dứt ra/ Em chỉ bước xuống sàn chồng em cũng sẽ 
mắng) [11, tr. 255]. 
Có những khi, trong một cuộc hát đối, để mời chàng 
trai hát, cô gái khích bác rằng chàng trai đã có vợ đẹp 
nhưng chưa chắc quyền quý nên cũng chỉ như em thôi. 
Chàng trai thì tự nhận vợ mình mặt xám như lông con rái 
cá, chân cao ngẳng như chân cuốc, mặt dài vênh vao như 
lưỡi cày. Ở cuộc hát ấy, vợ là người có thật và đứng bên 
cạnh chàng trai, nhưng vì tính chất cuộc hát đối, vì thấu 
hiểu truyền thống hát bóng gió, ám chỉ của đối phương và 
vì tính khiêm nhường của bên mình, người vợ sẽ không hề 
giận dỗi chàng trai. Tất cả cùng vui và hiểu đó chỉ là một 
thủ tục mời nhau hát. 
Bên cạnh đó, nhóm tác giả nhận thấy lối nói hàm ẩn, 
bóng gió này còn hay gặp trong những bài hát trao gửi tâm 
tình trong tình yêu đôi lứa. Ở người Tày, điều đó thể hiện 
rõ trong nội dung của lượn rọi (hát những câu có vần điệu) 
và phong slư (thư tình). Nội dung của lượn rọi có thể là sự 
thăm hỏi nhau về công việc và tình trạng hiện tại, thăm dò, 
thử thách nhau hoặc khơi gợi lại những kỉ niệm một thời. 
Đáng chú ý là những nội dung đó thường được nhân vật trữ 
tình nêu ra bằng cách nói bóng gió, khích bác một cách tế 
nhị. Nội dung của phong slư lại thường là nỗi nhớ, nỗi 
buồn. Lứa đôi yêu nhau nhưng do hoàn cảnh: nhà xa, công 
việc, những ràng buộc của giáo lí phong kiến khiến cho lứa 
đôi phải sầu buồn vì đợi chờ, nhớ nhung. Họ gửi gắm nỗi 
tương tư ấy vào những bức thư tình. Bức thư phải thật dài, 
dài như thời gian họ muốn bên nhau thông qua sự đọc, sự 
nâng niu bức thư mãi không thôi. Cho nên, để kéo dài bức 
thư ấy, kéo dài thời gian ấy, câu chuyện họ tâm sự với nhau 
cứ dấm dẳng, không đầu không cuối như những câu 
chuyện muôn thuở của những lứa đôi yêu nhau. Lúc này, 
sự bóng gió phát huy tác dụng. Người ta tưởng tượng ra 
những câu nói gây sự hiểu lầm, nghi ngờ một người bạn 
là người yêu của đối phương, hoặc nghe tin đối phương 
đã hứa hôn, đã có người ở rể. Để rồi, người ta rơi vào 
trạng thái buồn, đau khổ (giả) vì những sự tưởng tượng, 
hiểu lầm ấy, kích thích cho đối phương phải thanh minh, 
giải thích cho dài mãi câu chuyện yêu đương, tâm tình. 
Cách nói hàm ẩn trong trường hợp này đóng vai trò là một 
phương tiện biểu đạt tình yêu. Chẳng hạn, một chàng trai 
Tày bóng gió tưởng tượng về việc cô gái đã có chồng để 
bày tỏ nỗi cô đơn, đau đớn của mình nếu quả việc đó xảy 
ra thật: Slưởng mà móc slảy khát như tơ/ Noọng mừa tẩư 
pây nưa đuổi mả/ Pỉ nhác cằm mừa cạ chắc tan/ Tại noọng 
định rườn kin tốc cón/ Pỉ chắc kin nguộn ón bấu khôm 
(Nghĩ tới lòng quặn đau tơ rối/ Em cùng chồng đi dưới về 
trên/ Anh gửi thư đưa tin em biết/ Vì em vội đã lập gia đình/ 
Lá ngón non ăn thành không đắng) [6, tr. 102]. 
Hay có khi, chàng trai Thái nói ám chỉ về việc cô gái đã 
có người ở rể, cô gái thì thanh minh: Để em chỉ đường cho 
anh đi mà rình, bắt cho được thằng bảo anh là nó được ở rể 
nhà em. Nếu không tìm được, thì chính anh phải đến làm 
rể quản đan chài. Như thế, từ sự bóng gió của chàng trai, 
cô gái đã lái nó thành câu chuyện hài hước mà thông qua 
đó, bật đèn xanh rằng mình vẫn cô đơn và xem phản ứng 
của anh chàng. Lại có khi, cô gái Thái bóng gió về việc 
chàng trai có nhiều gái theo hoặc đã có vợ ở nhà đóng cửa 
đợi mong, đừng nên tâm tình nơi hạn khuống. Từ đó, buộc 
chàng trai phải lên tiếng chứng minh cái sự trai tân của 
mình, đến với sân tình này như nón lá đi tìm quai chằng. 
Sự ám chỉ trong câu hát lúc này giống như một bộ trắc 
nghiệm khéo léo về tình yêu để thử lòng xem đối phương 
có chân thành, tha thiết hay không. 
Lối nói hàm ẩn trong cả DCTTSH của người Tày và 
người Thái được xây dựng chủ yếu dựa trên biện pháp tu 
từ ẩn dụ, nhằm mục đích giải quyết việc thực thì ít mà 
mục đích đưa đẩy, khích tướng để đối phương tham gia 
cuộc hát, hay nhằm kéo dài bức thư tình, hoặc bày tỏ nỗi 
lòng và kích thích đối phương chứng minh tình yêu thì 
nhiều. Nhờ lối nói này mà một bài phong slư có thể kéo 
dài hàng trăm câu như hát mãi không hết, kể mãi không 
ngừng. Câu chuyện tình yêu, vì thế, cứ nhấm nhẳng đầy 
thi vị, dài mãi không thôi như câu chuyện muôn đời nói 
mãi không hết, kể mãi không ngừng. Lối nói này xuất phát 
từ nhu cầu thể hiện nội dung của nhân vật trữ tình trong 
DCTTSH Tày, Thái và dựa theo đặc điểm của diễn xướng 
hát đối đáp. 
2.2. Lối nói cầu khiến 
Trong DCTTSH của người Tày và người Thái, lời hát 
của nhân vật trữ tình mang sắc thái cầu khiến rất rõ ràng, 
đặc biệt là lời hát thuộc các chặng hát khuyên mời, hát thề 
nguyền, hát dặn của cuộc hát đối đáp. Sắc thái cầu khiến, 
mệnh lệnh được coi như đặc trưng của các bài hát đó. 
Chẳng hạn, người Tày lượn mời: 
 Tiểng ngoàng rọng riệm sửa càng mon/ Tiểng 
ngoàng rọng riệm mon càng sửa/ Tiểng lượn khoan pây ná 
đảy nòn ( Ve sầu gọi tha thiết đừng sửa gối đầu/ Ve sầu 
vọng thiết tha đừng sửa gối/ Dậy lượn, khan thôi đừng ngủ 
ngay) [6, tr. 45]. 
Lối nói cầu khiến được tạo nên bởi sự xuất hiện của 
các câu hỏi tu từ và các dấu hiệu ngôn từ của kiểu câu cầu 
khiến như các từ: hãy, đừng, chớ, khuyên, sẽ, nhé 
Chẳng hạn: 
- Tày: Dá hẩư pỉ nằm nỉ rang lai/ Hại khan pjá tang 
nơi slắc tiểng (Đừng để anh nằn nì thêm nữa/ Hãy lượn cho 
một tiếng thỏa lòng) [7, tr. 24]. 
- Thái: É cưn chắng bắu cưn té ta vên nhăng chặu lê 
ha?/ É thâng nẳu ming chụ chí khửn ma thóm ău quam 
xăng lê? (Muốn trở về sao không về từ còn mặt trời?/ 
Thương nhớ người yêu sao lại lên đây dò lời?) [4, tr. 321]. 
Nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát sự xuất hiện của các 
dấu hiệu cầu khiến trong DCTTSH Tày, Thái. Nhóm tác 
giả căn cứ trên bản tiếng Tày, Thái, bản tiếng Việt chỉ dùng 
để tham khảo, đối chiếu về nghĩa và lựa chọn đơn vị thống 
kê là số lần xuất hiện của từ, khi quy sang tần suất sẽ được 
tính theo công thức: số lần xuất hiện/ tổng số câu được khảo 
sát * 100%. Từ đó, nhóm tác giả có kết quả như ở Bảng 1. 
28 Hà Xuân Hương 
Bảng 1. Kết quả khảo sát sự xuất hiện của 
các dấu hiệu cầu khiến 
Dấu hiệu cầu khiến 
Số câu 
được 
khảo sát 
Số lần 
xuất hiện 
Tần 
suất 
Tày 
Câu hỏi tu từ 4216 187 4,4% 
Dấu hiệu 
ngôn từ của 
kiểu câu 
cầu khiến 
Hãy (hại, cỏi) 4216 480 11,4% 
Đừng (dá) 4216 159 3,4% 
Khuyên 
(khuyên, khuyên 
mừa, cạ mừa) 
4216 445 10,6% 
Thái 
Câu hỏi tu từ 6068 138 2,27% 
Dấu hiệu 
ngôn từ của 
kiểu câu 
cầu khiến 
Hãy (không có 
từ tương đương 
trong tiếng Thái, 
diễn tả bằng cách 
lặp lại động từ) 
6068 358 16,9% 
Đừng (na) 6068 307 5,1% 
Sẽ (chi) 6068 128 3,9% 
Nhé (nờ, lò, lộ) 6068 356 5,9% 
Nhìn vào Bảng 1, ta thấy ở DCTTSH của cả người Tày 
và người Thái, câu hỏi tu từ và các dấu hiệu ngôn từ của 
kiểu câu cầu khiến có sự xuất hiện khá dày đặc. Sự kết hợp 
của sắc thái cầu khiến cùng tình cảm yêu thương ẩn giấu 
trong đó khiến cho lời hát vừa mạnh mẽ vừa có sức lan tỏa, 
lay động tâm hồn đối tượng trữ tình. Kết thúc cuộc vui chơi 
ở hạn khuống, trai gái Thái tha thiết dặn nhau đừng quên: 
Hặc xơng căn/ Cảu chí lựm/ Xíp chí lựm (Đã yêu nhau/ 
Chín đừng quên/ Mười đừng quên). Lời dặn chân thành 
mà tha thiết, cứ vang lên như một điệp khúc khắc sâu vào 
tâm khảm biết bao đôi trai gái đã từng rong chơi một thời 
hoa nở trăng tròn bên sân tình năm ấy. Để rồi, khi yêu nhau 
chẳng lấy được nhau, họ dặn dò đợi nhau ngay cả sau khi 
đã chết. Sự lặp lại của những cụm từ: anh hãy anh hãy 
trong lời dặn dò khiến cho câu hát trở nên ám ảnh đến đau 
lòng: Xoong hạu tai mợ mợng bun chại cói ha lả nờ/ Xoong 
hạu tai mợ mợng phà chại cói ha nhịnh nờ/ Chại ha nhịnh 
đởi khôống phải/ Chại thả nhịnh đởi khôống may nờ (Đôi 
ta chết lên Mường Bun anh hãy tìm em nhé/ Đôi ta chết lên 
trời thì anh hãy tìm em/ Anh hãy tìm em nơi sân sợi/ Anh 
hãy đợi em chỗ sân thêu) [8, tr. 496]. 
Lối nói cầu khiến trong được sử dụng trong lời hát của 
nhân vật trữ tình trong DCTTSH Tày, Thái có thể được lí 
giải từ các nguyên nhân: Thứ nhất, lối nói này bắt nguồn từ 
trình tự cuộc hát của hai dân tộc. Lệ hát của người Tày, 
Thái, bao giờ cũng có các chặng hát khuyên mời, hát thề 
nguyền, hát dặn. Vào cuộc hát, họ hát mời gọi, hát tán tỉnh, 
hát thề nguyền, đến khi phải chia li, giã biệt hoặc không 
được yêu nhau nữa, họ hát nán chân, hát dặn, hát khuyên, 
hát chờ đợi Yêu cầu nội dung của các lời hát này đã quy 
định lối nói cầu khiến trong DCTTSH Tày, Thái. Thứ hai, 
tình yêu luôn đi kèm với các trạng thái tương tư, nhớ 
nhung, thề thốt Vì thế, khi gặp nhau, họ luôn căn dặn 
người yêu giữ lòng chung thủy và suy nghĩ đến tương lai 
tình yêu của đôi lứa. Thứ ba, do đặc điểm chế độ gia đình 
phụ quyền, lứa đôi Tày, Thái không tự quyết định được 
hạnh phúc của cuộc đời mình. Việc hôn nhân của họ phụ 
thuộc nhiều vào cha mẹ, họ hàng, vào quan điểm môn đăng 
hộ đối. Cho nên, họ phải dặn dò nhau hãy yêu, hãy nhớ cho 
hết kiếp, thậm chí cả sau khi chết đi rồi. Vì những nguyên 
nhân trên, lối nói cầu khiến là lối nói phù hợp và hiệu quả 
đối với việc thể hiện các nội dung đưa đẩy cuộc hát, khẳng 
định tình yêu hoặc dặn dò bạn tình của nhân vật trữ tình 
trong DCTTSH Tày, Thái. 
2.3. Lối nói khiêm nhường 
DCTTSH Tày, Thái đều sử dụng lối nói khiêm nhường, 
đặc biệt rõ ở các bài hát chào mời. Trong DCTTSH Tày, 
lối nói này xuất hiện 226 lần thì có mặt ở các bài hát chào 
mời 179 lần (chiếm 79%). Trong DCTTSH Thái, lối nói 
này xuất hiện 187 lần thì có mặt ở các bài hát chào mời 154 
lần (chiếm 82%). Đây là lối nói được hình thành dựa trên 
biện pháp tu từ ngữ nghĩa nói giảm. Việc ưa dùng biện pháp 
này trong DCTTSH bắt nguồn từ truyền thống chuộng lịch 
sự, lịch lãm trong việc cư xử của người Tày, Thái và từ yêu 
cầu nội dung của chặng hát này trong diễn xướng. 
Ở chặng hát này, người hát sẽ tự nhận mình là xấu, 
nghèo hèn, kém cỏi, không xứng với đối phương, đồng thời 
đề cao đối phương bằng cách gán cho đối phương thân 
phận cao quý, gia cảnh giàu có. Điển hình, trong khắp hạn 
khuống của người Thái, khi các chàng trai hát xin thang lên 
sàn chơi, các cô gái sẽ hát về chiếc thang hỏng, mối mọt, 
không chắc chắn. Các chàng trai xin ghế ngồi, các cô gái 
sẽ hát về việc không có ghế đan, ghế mây để ngồi, đành 
mời các chàng ngồi ghế nệm hoặc ngồi đòn kê. Hãy nghe 
các cô gái Thái trong cuộc vui chơi ở sân tình tự hạ thấp 
bản thân mình: 
Khôống mở noọng khôống đin đăm/ Khôống mở noọng 
tặm mạy ở/ Khôống khỏ bớ mí báo xao tom/ Bớ đăng đảy, 
bớ xun pin/ Mạy đăm họt nó ngựn bớ đáng/ Nặm pắn họt nó 
khặm bớ xum/ Bók đôông hại dản bớ xơng/ Va đôông lôông 
dản bớ đết/ Mở noọng phặn cáy cả/  Mở ái nả cáy cón/ 
Cọn mạy ngá/ Vả lụk tạo khắm đáp kin mợng (Sân của chúng 
em đất đen/ Lửa được đốt bằng cây sậy/ Sân nghèo chẳng có 
trai gái tới/ Củi không thành, đốt không nên/ Gỗ đen đâu 
sánh được măng vàng/ Nước lã sao so được măng bạc/ Bông 
hoa xấu e chẳng thể quyến rũ/ Đóa hoa thô ai thèm ngắt cầm 
tay/ Chúng em nòi gà dân/  Các anh nòi gà chọi/ Đậu cây 
ngà/ Dòng giống tạo cầm gươm quản đất) [8, tr. 333]. 
Cũng cách nói ấy, trong các cung lượn nải, khi mời nhau 
hát, người Tày tự nhận mình hèn kém, chẳng dám cất tiếng 
lượn cùng khách. Ấy không hẳn vì tự ti mà là sự khiêm 
nhường cần thiết theo truyền thống của tộc người khi đối 
diện với khách: Mạy khoang pjúc khửn tẩư cằn nà/ Bản nọi 
rườn đeo cần xẩu xa/ Bản nọi rườn đeo cần xẩu sắc/ Xẩu 
sắc là thôi ná khảu mà (Cây trúc trồng mọc dưới đầu bờ/ 
Xóm nhỏ, nhà ít, người xấu xa/ Nhà ít, xóm nhỏ toàn người 
xấu/ Người xấu thời thôi chẳng dám thưa) [6, tr. 300]. 
Vì sự khiêm nhường ấy của bên chủ mà khách phải 
dùng đến sự viện trợ của lối nói hàm ẩn, bóng gió, khích 
đối phương cùng tham gia vào cuộc lượn. Cũng vì truyền 
thống khiêm nhường, lịch sự mà khách sẽ ca ngợi gia cảnh, 
bản làng của đối phương bằng lối nói khoa trương, phóng 
đại: bản làng giàu nhất châu huyện, cọc bên mỏ nước là cọc 
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, VOL. 17, NO. 2, 2019 29 
rồng, hòn đá cũng phải là đá tròn đuôi bạc, sư tử vác côn 
đứng hai bên đường vào làng Đồng thời, người Tày dùng 
cách nói khiêm nhường để tôn vinh người mình yêu lên 
hàng quý tộc. Họ gọi người yêu là quân tử, quan anh, là 
nàng đẹp, cười chua với biết bao thương yêu, trìu mến. 
Ở trường hợp này, lối nói khiêm nhường không còn giữ 
chức năng đưa đẩy câu chuyện nữa mà có tác dụng thể hiện 
sự tôn trọng, yêu quý nhất mực với đối phương. Sự hạ thấp 
bản thân, nâng cao đối tượng như thế có tác dụng đưa đẩy 
câu chuyện, nhiều khi trở thành lí do để khơi mào cuộc hát. 
2.4. Lối nói cường điệu 
Đây là lối nói nghệ thuật được xây dựng trên cơ sở biện 
pháp tu từ nói quá, là sự nâng lên một mức thái quá quy 
mô, tính chất, mức độ của những sự vật, hiện tượng được 
mô tả. Trong các bài DCTTSH Thái, biện pháp này được 
sử dụng nhằm nhấn mạnh sự ngợi ca hoặc biểu đạt tình yêu 
nồng nhiệt của chủ thể trữ tình đối với đối tượng trữ tình. 
Sự cường điệu ở đây thường theo hướng liên tưởng tới các 
đặc điểm của tự nhiên. Chẳng hạn, giọng hát của cô gái 
Thái được chàng trai ca ngợi là có sức mạnh to lớn có thể 
biến cải tự nhiên: Ói pánh căn ơi noọng còi khắp hảư 
mạy nẳng pá púng nhọt baư lương dớ noọng lả ái ới/ Ún 
hướn căn ơi noọng lả còi khắp hảư noong cắp ná háu 
làn dớ noọng hặc ái á/ Ói pánh căn ơi noọng lả còi khắp 
hảư pú đán coỏng lùm phạ đắn lúng pin đon dớ noọng hặc 
ái ới/ Ói pánh căn á pin phiêng luông hảư luống cón má 
hạu dớ noọng hặc ái á (Em hãy ca hát cho cây ở rừng đâm 
chồi mọc lá/  Em thương hãy hát cho ao với ruộng mình 
lớn phẳng em yêu nhé/ Em thương hãy hát cho núi đá đổ 
sập xuống thành bãi/ Thành bãi rộng cho rồng vàng đến 
chơi nhé em yêu) [11, tr. 286]. Dưới con mắt của chàng trai 
đang yêu, nhan sắc của cô gái được ví như rồng lượn với 
khả năng mê hoặc vạn vật và con người: Ún hướn căn á 
noọng pánh ái quoắc khen lé pan luống vin ná noọng hặc 
ái ới/ Ún hướn căn ới noọng lả ái nhàng khoắc tin pan 
luống xẻo dá noọng hặc ái á / Ói pánh căn ới noọng lả 
ái té cứn đaư hin cọ lướt lé tai tẳng dá noọng pánh ái á/ 
Ói pánh căn á noọng pánh ái lé nôộc hin nôộc cọ nhắng 
lứm pík dá lo noọng hặc ái ới/ Ún hướn căn ới noọng 
pánh ái lé én hin én cọ nhắng lứm vin dá noọng lả ái á/ 
Ún hướn căn á noọng lả ái lé cứn mướng cay lé hin lẹo 
lứm nhại dá lo noọng hặc á noọng pánh ái á (Cánh tay em 
đưa đẹp tựa như rồng bay/ Em thương cất bước chân tựa 
như rồng đang bay lượn đó/ Em thương của anh liếc ai thì 
người đó ngất ngây/ Em thương của anh nhìn chim rừng, 
chim rừng quên vỗ cánh/ Em thương của anh nhìn chim én, 
chim én quên cả bay/ Người mường xa nhìn thấy em liền 
quên bước chân đi em yêu của anh à!) [11, tr.233]. 
Theo kết quả thống kê của nhóm tác giả, trong DCTTSH 
của hai dân tộc Tày, Thái, lối nói cường điệu được sử dụng 
với tần suất khá lớn (469 lần/500 bài DCTTSH Tày, 317 lần/ 
286 bài DCTTSH Thái). Lối nói cường điệu được sử dụng 
nhiều nhất ở những lời hát ước ao, thề thốt trong tình yêu 
(298 lần, chiếm 63,5% trong DCTTSH Tày và 265 lần, 
chiếm 84% trong DCTTSH Thái). 
Trai gái Thái khi chia tay hạn khuống rồi còn dặn nhau 
nhớ về những kỉ niệm, những tình cảm đã gửi trao ở sân 
tình. Lời dặn dò thiết tha được đảm bảo bằng việc không 
thể đảo ngược được sự vĩnh hằng của tự nhiên. Cho nên, 
lời chàng trai nói về những sự việc nghịch lí là một cách 
nói hết sức thông minh và hài hước:  Thả Nặm Ma hẻng 
to le chắng lưm/ Nặm Te hẻng to thú chắng lưm/ Pa bú dỏn 
kin đao chắng lưm/ Xai khao dỏn kin mook chắng lưm/ 
Nôộc chok phạ kin ỏi thong xuôn chắng lưm nơ, peng ơi! 
( Chờ sông Mã cạn bằng chiếc đĩa hẵng quên/ Sông Đà 
cạn bằng chiếc đũa hẵng quên/ Cá bống bò lượn ăn sao 
hẵng quên/ Cát trắng lượn ăn sương mù hẵng quên/ Chim 
sẻ trời ăn mía nửa vườn hẵng quên nhé tình thương ơi!) [4, 
tr. 353 – 354]. Một loạt những hình ảnh, sự việc ngược đời 
như: sông Mã cạn, sông Đà cạn, cá bống bò lên trời ăn sao, 
cát trắng lượn ăn sương mù, chim sẻ ăn nửa vườn mía 
được đưa ra nhằm khoa trương, nói quá cho sự khẳng định 
mạnh mẽ không bao giờ quên nhau của chàng trai với bạn 
tình. Tình cảm yêu thương mãi quấn quýt, vấn vương nơi 
sân tình. Lời thề thốt, dặn dò vì thế có ý nghĩa như một lời 
thề quyết tâm nhớ nhau trọn đời. Hơn thế, cách nói quá, 
thậm xưng này giúp cho cảm xúc thực của chủ thể trữ tình 
được bộc lộ rõ ràng hơn, gây được ấn tượng, sự hấp dẫn 
đối với người nghe. 
Khoa trương, phóng đại cũng là biện pháp phổ biến trong 
những bức phong slư của nam nữ thanh niên Tày xưa. Đây 
là cách nói để họ chứng minh tình yêu chân thành và to lớn 
của mình dành cho đối phương. Chẳng hạn, họ luôn dùng 
các việc làm trái logic để cam đoan rằng vì người yêu mà 
mình sẽ làm được những việc không thể tồn tại trong đời 
thường như đắp ao trên ngọn cây để thả cá, lấy nước nấu 
thành dầu thắp, cho nước chảy lên đỉnh núi, bắt thuyền đang 
xuống thác quay đầu trở lại, ngồi ăn cơm trên ngọn cây sấu 
Chàng trai trong bài ca sau đây dặn dò người yêu nếu nhất 
tâm yêu nhau thì việc ngược đời như đan sọt đựng nước mưa 
cũng có thể làm được: Sị lo bấu nhất tâm rừ dưởng/ Nhất 
tâm dá pây cảng tàng đai/ Thương căn cỏi hết cuôi to nặm/ 
Hắp bó hẩư mền chẳng như thôm (Một lòng chớ nói đi nói 
lại/ Hãy đan sọt để đựng nước mưa/ Đắp nước mạch để thành 
ao lớn/ Cho lý ngư hội rộn xuống lên) [6, tr. 196]. 
Rõ ràng, cường điệu, phóng đại là một lối nói ấn tượng, 
giúp diễn đạt một cách mạnh mẽ cảm xúc, đồng thời thể 
hiện tư duy vừa thông minh vừa hài hước của chủ thể trữ 
tình trong DCTTSH Tày, Thái. Người Tày, Thái đều là cư 
dân văn hóa thung lũng. Môi trường sống của họ gần gũi 
với tự nhiên. Đó là điều kiện để cho lối tư duy cường điệu, 
phóng đại theo hướng liên tưởng đến các hình ảnh tự nhiên 
của họ được nảy nở, phát triển và phát huy hiệu quả trong 
việc thể hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình trong DCTTSH. 
3. Kết luận 
Như vậy, DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái có sự 
tương đồng về bốn lối nói nghệ thuật: hàm ẩn, cầu khiến, 
khiêm nhường, cường điệu. Việc gọi tên các lối nói nghệ 
thuật như trên là dựa vào quan hệ giữa ngôn ngữ và ngữ 
cảnh [2], cụ thể là ngữ cảnh của cuộc hát đối đáp. Từ những 
đặc điểm của phần lời trong dân ca như biện pháp tu từ ẩn 
dụ, nói quá, nói giảm, câu hỏi tu từ và các dấu hiệu ngôn từ 
của kiểu câu cầu khiến, tác giả dân gian Tày, Thái đã nâng 
lên thành những lối nói nghệ thuật trong các bài hát của 
mình, tạo thành các công thức mang tính truyền thống cho 
việc phô diễn, bộc lộ tâm tư, tình cảm của nhân vật. Điều 
này xuất phát từ nhu cầu thể hiện nội dung của nhân vật trữ 
30 Hà Xuân Hương 
tình và từ tính chất của các chặng trong hát đối đáp. Trong 
đó, “các chặng tương ứng với quá trình diễn biến của một 
cuộc giao duyên là chỗ giống nhau cơ bản của dân ca đối 
đáp trữ tình” [9, tr. 16]. Việc sử dụng lối nói nghệ thuật nào 
hay kết hợp linh hoạt các lối nói nghệ thuật trong một bài hát 
đều do hai nguyên nhân trên chi phối. Điều đáng nói là, ở 
DCTTSH Tày, Thái, tính diễn xướng của dân ca với tư cách 
là một nghệ thuật biểu diễn khá nổi bật, đặc biệt là ở hình 
thức hát cuộc. Sự phổ biến của các cuộc hát ở dạng thức phát 
triển với lề lối, thể thức ngày càng ổn định, dần tiến tới 
chuyên nghiệp hóa và sự nhạt dần của các hình thức hát lẻ 
cùng các hình thức hát cuộc ở dạng chưa phát triển có tác 
động không nhỏ tới sự phổ biến của các lối nói nghệ thuật 
trên trong DCTTSH, hé lộ sự gần gũi nhau về văn hóa giữa 
hai tộc người ở khu vực miền núi phía Bắc. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Phương Bằng (sưu tầm, phiên âm chữ Nôm và dịch), Phong Slư, 
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2012. 
[2] Đỗ Hữu Châu, Đại cương ngôn ngữ học, tập 2: Ngữ dụng học, Nxb 
Giáo dục, Hà Nội, 2001. 
[3] Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tước, Hoàng Nừng (sưu tầm, biên 
dịch), Iếu – Dân ca dân tộc Tày, Nxb Văn hóa dân tộc, H, 2012. 
[4] Nguyễn Văn Hòa (sưu tầm, biên dịch), Truyện cổ và dân ca Thái 
vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, H, 2001. 
[5] Nhiều tác giả, Rọi (Vốn cổ văn học dân tộc Tày – Nùng), Nxb Dân 
tộc Việt Bắc, 1970. 
[6] Nhiều tác giả, Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương, Nxb Văn 
hóa dân tộc, Hà Nội, 2012. 
[7] Lục Văn Pảo (sưu tầm, phiên âm, dịch), Lượn cọi, Nxb Văn hóa dân 
tộc, Hà Nội, 1994. 
[8] Hà Mạnh Phong, Đỗ Thị Tấc (sưu tầm, biên dịch), Dân ca Thái Lai 
Châu, Quyển 2 – Thơ và dân ca tình yêu của người Thái Mường So, 
Nxb Văn hóa dân tộc, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lai Châu, Hà 
Nội, 2012. 
[9] Lê Chí Quế, Văn hóa dân gian – Khảo sát và nghiên cứu, Nxb Đại 
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014. 
[10] Dương Văn Sách, Dương Thị Đào (sưu tầm), Lượn rọi – Hát đối đáp 
của của người Tày, Nxb Hội nhà văn, Hà nội, 2016. 
[11] Đỗ Thị Tấc (sưu tầm và dịch), Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 1 – 
Chiêng xoong mố bók (Mùa xuân mùa hoa), Nxb Văn hóa dân tộc, 
Hà Nội, 2012. 
(BBT nhận bài: 25/12/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 25/02/2019) 

File đính kèm:

  • pdfcac_loi_noi_nghe_thuat_tuong_dong_trong_dan_ca_tru_tinh_sinh.pdf