Các lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của giảng viên trong hệ thống giáo dục Đại học tại một số quốc gia trên thế giới
Cùng với xu hướng tự chủ đại học, tự chủ nghề nghiệp của giảng viên được coi
là một yêu cầu tất yếu giúp đảm bảo chất lượng giảng dạy, nghiên cứu , giúp các
trường đại học vươn tới mô hình quản trị tiên tiến và góp phần thúc đẩy và hỗ trợ tự chủ
của người học - một trong những mục tiêu trọng yếu của giáo dục. Bài viết khái quát vai
trò, các lĩnh vực và các mức độ tự chủ nghề nghiệp của giảng viên; phân tích một số lĩnh
vực tự chủ nghề nghiệp của GV tại một số quốc gia trên thế giới và rút ra bài học khi áp
dụng mô hình này tại Việt Nam.
Bạn đang xem tài liệu "Các lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của giảng viên trong hệ thống giáo dục Đại học tại một số quốc gia trên thế giới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của giảng viên trong hệ thống giáo dục Đại học tại một số quốc gia trên thế giới
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 29/2019 175 CÁC LĨNH VỰC TỰ CHỦ NGHỀ NGHIỆP CỦA GIẢNG VIÊN TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI Bùi Lê Thùy Trang Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Tóm tắt: Cùng với xu hướng tự chủ đại học, tự chủ nghề nghiệp của giảng viên được coi là một yêu cầu tất yếu giúp đảm bảo chất lượng giảng dạy, nghiên cứu, giúp các trường đại học vươn tới mô hình quản trị tiên tiến và góp phần thúc đẩy và hỗ trợ tự chủ của người học - một trong những mục tiêu trọng yếu của giáo dục. Bài viết khái quát vai trò, các lĩnh vực và các mức độ tự chủ nghề nghiệp của giảng viên; phân tích một số lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của GV tại một số quốc gia trên thế giới và rút ra bài học khi áp dụng mô hình này tại Việt Nam. Từ khóa: Tự chủ đại học, tự chủ nghề nghiệp của giảng viên. Nhận bài ngày 24.1.2019; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 20.2.2019 Liên hệ tác giả: Bùi Lê Thùy Trang; Email: blttrang@hnmu.edu.vn 1. MỞ ĐẦU Tự chủ nghề nghiệp của giảng viên (GV) là sự tự do, độc lập, tự quyết định ở mức độ cho phép trong việc lập kế hoạch, lựa chọn và thực hiện hoạt động giảng dạy, nghiên cứu, tham gia hoạt động quản trị, tương tác xã hội trong cả phạm vi lớp học và phạm vi nhà trường. Tự chủ nghề nghiệp của GV đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của giáo dục đại học. Thứ nhất, tự chủ góp phần tạo động lực làm việc do thỏa mãn nhu cầu được tôn trọng của GV đại học. Chính việc thỏa mãn nhu cầu được tôn trọng đã khiến cho tự chủ nghề nghiệp trở thành yếu tố tạo nên sự hài lòng trong công việc. Tự chủ nhằm thỏa mãn nhu cầu tôn trọng của GV được thể hiện ở hai khía cạnh: (i) khía cạnh cá nhân: giúp GV cảm thấy mình tự tin, tự trọng, tự tôn và (ii) khía cạnh mối quan hệ cá nhân - tổ chức: giúp GV cảm thấy mình được công nhận, được tôn trọng và đánh giá cao từ đó giúp GV đạt được sự hài lòng trong công việc. Thứ hai, tự chủ là điều kiện để phát triển nghề nghiệp của GV đại học. GV có nhu cầu tự chủ trong quá trình giảng dạy SV vì họ là những chuyên gia thực thụ trong một lĩnh vực riêng; GV cảm thấy họ có quyền tổ chức quá trình học tập theo cách lựa chọn riêng của họ; hệ thống những quy định của nhà trường không thể chen vào không gian lớp học. GV tự 176 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI quy định những luật lệ riêng, đặc thù và linh hoạt và thực hiện trong chính lớp học của họ một khi họ thấy đó là phù hợp [2]. Thứ ba, đảm bảo tự chủ nghề nghiệp của GV đại học làm tăng tính hiệu quả của tổ chức và góp phần thúc đẩy tự chủ trong học tập của SV. Sự tự chủ của người học là một mục tiêu quan trọng của giáo dục. Điều này đã được nhắc đến trong nghiên cứu của Kenny (được dẫn bởi Richard C. Smith, nhóm tác giả nhận định: để hình thành năng lực tự chủ của người học cuối cùng cũng chính là thông qua tạo lập một môi trường thúc đẩy sự tự chủ của người dạy, đảm bảo quyền tự chủ như là việc giải phóng và nâng cao vị thế của người thầy [3]. Nếu một GV mong muốn và sẵn sàng cho tự chủ nghề nghiệp, GV đó sẽ dùng chính những lợi ích có được từ quyền tự chủ được trao để tạo lập môi trường giúp SV nhận thức được về tự chủ học tập thông qua việc lôi cuốn SV và các hoạt động mang tính tự chủ. Hay nói cách khác, tự do và tự chủ học thuật của GV có thể thúc đẩy sự phát triển tự chủ của người học. Do đó nếu SV được học tập trong môi trường mà GV được tự chủ nghề nghiệp, họ cũng có điều kiện để trở thành những người tự chủ sau này, như TortMoloney, Little, McGrath and Smith đã nhận định: GV không tự chủ sẽ có tác động tiêu cực đến sự phát triển năng lực tự chủ ở người học [4]. 2. NỘI DUNG 2.1. Các lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của GV Các lĩnh vực tự chủ của GV được mô hình hóa trong Sơ đồ 1: Sơ đồ 1: Các lĩnh vực và nội dung tự chủ của giảng viên TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 29/2019 177 Từ sơ đồ trên có thể thấy, các lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của GV biểu hiện ở các lĩnh vực sau: Lĩnh vực 1: Tự chủ trong hoạt động dạy học và đánh giá người học được chỉ dẫn bởi các chỉ báo: lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học, đánh giá quá trình, đánh giá kết quả học tập của SV, xây dựng nội quy dành cho SV, xây dựng môi trường vật chất lớp học. Lĩnh vực 2: Tự chủ trong lĩnh vực phát triển chương trình, bao gồm các chỉ báo: xây dựng, điều chỉnh chương trình khung, chương trình bắt buộc và lựa chọn, những chương trình được chuyển giao từ nước ngoài Lĩnh vực 3: Tự chủ trong hoạt động nghiên cứu, bao gồm các chỉ báo: xây dựng và thực hiện mục đích nghiên cứu, lựa chọn đối tượng và nội dung nghiên cứu, lựa chọn hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu, công bố kết quả nghiên cứu, phân bổ tài chính cho hoạt động nghiên cứu. Lĩnh vực 4: Tự chủ trong lĩnh vực quản trị nhà trường, nhấn mạnh những chỉ báo bao gồm: xây dựng triết lý, quan điểm giáo dục của nhà trường, xây dựng tầm nhìn, chiến lược và mục tiêu của nhà trường, phân bổ tài chính, xây dựng quy chế chuyên môn, quy chế và kế hoạch đào tạo của nhà trường. Lĩnh vực 5: Tự chủ trong hoạt động bồi dưỡng và phát triển chuyên môn cho đội ngũ bao gồm các chỉ báo về tham gia xây dựng tiêu chí đánh giá GV, tiêu chí tuyển dụng GV mới, quyền quyết định nội dung, phương pháp và chủ thể tiến hành hoạt động bồi dưỡng chuyên môn. Các mô tả trong từng item của bộ thang đo tự chù nghề nghiệp của GV được xây dựng dựa trên những mô tả trong thang đo của Friedman. 2.2. Các mức độ tự chủ nghề nghiệp của GV Tự chủ của GV nói chung cũng có thể được đánh giá và phân mức bởi có nhiều nhà nghiên cứu đã mô tả tự chủ của GV ở các mức độ “nhiều” hay “ít”. Mức độ tự chủ được GV thể nghiệm khác nhau không phải tùy thuộc vào cá nhân, địa điểm và thời gian mà còn phụ thuộc vào tầm ảnh hưởng từ bên ngoài [3]. Theo đó, Glass đã kết luận GV có thể trải nghiệm mức độ cao của tự chủ nhưng chỉ ở những phạm vi giới hạn cho phép. Dựa trên nghiên cứu “Các mức độ tự chủ của GV ở châu Âu” do tổ chức Eurydice nghiên cứu, có thể xác định các mức độ tự chủ của GV với các mô tả trong sơ đồ 2 [5]: Sơ đồ 2: Các mức độ tự chủ nghề nghiệp của GVĐH Nguồn: Eurydice (2008) 178 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI Sơ đồ trên cho thấy: ở mức độ thấp, GV hầu như không được tự chủ trong hoạt động của mình, sự áp đặt từ cấp trên là rất lớn. Ở mức độ trung bình, quyền tự chủ nghề nghiệp đã trao nhưng ở một giới hạn nhất định trong các phạm vi và mức độ tự chủ. Ở mức độ cao, GV được quyền quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động nghề nghiệp nhưng vẫn trong phạm vi rộng được cho phép. Trong nghiên cứu về quyền quyết định của GV đối với việc thực thi chương trình dạy học của nhóm tác giả Leithwood và cộng sự (được dẫn bởi Glass), nhóm tác giả đã đưa ra các mức độ tự chủ bao gồm: mức độ tự chủ cao, mức độ tự chủ trung bình (chia sẻ quyền tự chủ với người khác) và mức độ tự chủ thấp (quyền ra quyết định bị hạn chế bởi hiệu trưởng và các tổ chức đoàn thể) [6]. 2.3. Một số lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của GV nước ngoài 2.3.1. Các lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của GV đại học ở Mỹ Trường đại học ở Mỹ có quyền tự chủ nội bộ tương đối mạnh và quyền tự do học thuật khá cao, quyền tự chủ truyền thống và sự kiểm soát của đội ngũ GV đối với nhiều khía cạnh của quản lý trường học cũng ở mức độ cao. Các GV đại học được sử dụng quyền tự chủ đáng kể đối với các điều kiện làm việc cơ bản của họ. Các giáo sư vẫn giữ được quyền tự chủ đối với việc sử dụng thời gian của họ ngoài phạm vi lớp học như: tự chọn các đề tài nghiên cứu của riêng mình và đa số tự quyết định họ sẽ xuất bản cái gì và bao nhiêu, mặc dù việc nghiên cứu ở một số lĩnh vực và về một số đề tài đòi hỏi phải có kinh phí dồi dào và vì thế phải phụ thuộc vào nguồn hỗ trợ ngoài trường. Có những mặt khác biệt tùy theo loại trường, đội ngũ GV ở các trường cao đẳng cộng đồng và các trường định hướng giảng dạy không chọn lọc chịu nhiều hạn chế về quyền tự chủ hơn các GV ở trường đại học nghiên cứu có uy tín. Đội ngũ GV không phải cơ hữu hay GV giảng dạy bán thời gian cũng có ít quyền tự chủ hơn nhiều so với các đồng nghiệp cơ hữu, không thời hạn. Trong lĩnh vực quản lý nhà trường, sự hình thành các tổ chức khoa học đã tác động đến lương bổng, uy tín, điều kiện làm việc và mang lại cho đội ngũ GV đại học nhiều quyền lực hơn trong việc quản lý nhà trường. Mặc dù có những nhân tố làm giảm sút quyền tự chủ nghề nghiệp của GV do các yếu tố tài chính chi phối khiến một số trường đại học phải phụ thuộc vào nguồn tài trợ từ bên ngoài, nhưng các điều kiện làm việc cơ bản của GV đại học Mỹ vẫn tương đối ổn định. Quyền tự do học thuật và hệ thống bổ nhiệm không thời hạn (với tư cách là một biện pháp nhằm bảo vệ quyền tự do học thuật của GV) phần lớn vẫn được giữ nguyên, nhưng các yêu cầu về trách nhiệm xã hội ngày càng nhiều hơn. GV đại học vẫn duy trì được sự kiểm soát cơ bản đối với chương trình đào tạo và hầu hết các trường đại học vẫn dựa vào các khoa là nơi vẫn chịu ảnh hưởng rất mạnh của đội ngũ GV. Sự quản lý cấp trường của GV đại học, mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của các nhà quản lý, vẫn giữ nguyên không thay đổi. [7]. TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 29/2019 179 2.3.2. Các lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của GV đại học ở Nga Hệ thống giáo dục tại Nga đang chịu ảnh hưởng của cơ chế tập trung bao cấp còn để lại của thời kỳ lịch sử trước. Hệ quả là, các trường đại học truyền thống tại Nga có rất ít quyền tự chủ trong việc lựa chọn nội dung chương trình, các môn học tự chọn chỉ chiếm tỷ lệ hạn chế và hạn chế tầm ảnh hưởng của các nhóm nghiên cứu (Kuz’minov, 2007). Ngày nay, tự chủ đại học và tự do học thuật - những vấn đề có mối liên hệ rất gần với tự chủ nghề nghiệp của GV được nhấn mạnh trong rất nhiều các văn bản quy định của nhà nước về giáo dục và chiếm vị trí ưu tiên, như Cương lĩnh về giáo dục quốc gia 2000 - 2025, Luật Liên bang về các thể chế tự trị năm 2006, Luật Liên bang về giáo dục năm 2012 và thậm chí là cả trong Tiêu chuẩn giáo dục của tiểu bang (vùng, khu vực). Tự chủ nghề nghiệp trở thành vấn đề ưu tiên và vượt qua những quan điểm kỳ thị cho rằng đây là vấn đề liên quan đến chủ nghĩa cá nhân [8]. Cần phải thấy rằng, cả tự chủ và kiểm soát trong giáo dục Nga hiện đại chịu ảnh hưởng bởi sự chuyển biến về kinh tế xã hội cũng như ảnh hưởng của xu hướng toàn cầu về dân chủ và nhân văn trong giáo dục. Nhưng phân quyền trách nhiệm cho trường đại học - điều dẫn tới phân quyền cho GV - không có nghĩa là thiếu sự kiểm soát. Trong khi GV được trao quyền thông qua Luật Liên bang thì Chính phủ trung ương tiếp tục kiểm soát giáo dục đại học, cụ thể là thông qua Tiêu chuẩn giáo dục liên bang. Việc ban hành Tiêu chuẩn giáo dục liên bang dẫn tới một số vấn đề còn tồn tại trong nhận thức và thi hành nội dung của bộ tiêu chuẩn này trong hệ thống giáo dục đại học Nga. Vì cách quản lý truyền thống với quan hệ quyền hành từ trên xuống trong giáo dục đại học Nga nên đã làm nảy sinh một số rủi ro đối với các cơ sở giáo dục đại học tại Nga trong việc thực hiện các cải cách nhằm đáp ứng được bộ chuẩn đặt ra. Việc tăng cường tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học tại Nga đã kéo theo đó là những yêu cầu mới đặt ra cho giáo dục đại học. Họ phải đối mặt với nhiều khó khăn nên họ mong muốn được tăng cường tự chủ trong việc đưa ra nhiều quyết định trong lĩnh vực chuyên môn. Do sự phát triển của xu hướng tự do học thuật và hợp tác quốc tế trong các cơ sở giáo dục đại học Nga, vai trò mới của GV trở nên đa dạng hơn, không chỉ bao gồm việc giảng dạy mà còn là nhiệm vụ điều phối, tác động tới môi trường giáo dục, tham gia vào các dự án quốc tế; hướng dẫn việc học, nghiên cứu khoa học, tài trợ và rất nhiều các hoạt động khác. Một mặt, việc tăng cường quyền tự chủ nghề nghiệp cho GV bao gồm việc tăng quyền, hệ quả là phát triển năng lực tự chủ nghề nghiệp cho họ; mặt khác, nhiệm vụ quản trị và những thủ tục cần thiết để chuẩn bị soạn giảng, đánh giá SV dường như làm gia tăng khối lượng công việc của GV, đặt họ dưới áp lực và căng thẳng tạo nên những ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng dạy học và thiếu tạo động lực cho người học. Tình huống trở nên phức tạp bởi sự thay đổi trong nhận thức của cộng đồng 180 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI về giáo dục đại học. Các trường đại học ngày nay được quản trị theo phương thức quản trị kinh doanh, ở đó mọi hoạt động của GV được đánh giá dựa trên chuẩn. Theo cách hiểu này, SV là khách hàng mà giáo dục phải đáp ứng. Điều này không chỉ chống lại quan điểm truyền thống được chấp nhận lâu nay là trường đại học là tháp ngà khoa học mà còn đi ngược lại những điều luật về tự chủ và dân chủ trong Tiêu chuẩn giáo dục liên bang, Luật Liên bang Nga cũng như luật quốc tế và các phát kiến về giáo dục. Tự chủ được tất cả các thành viên của trường đại học nhận thức có thể ngăn ngừa những rủi ro này, đặc biệt là thông qua việc tạo ra biến chuyển trong vai trò của SV và GV từ những khía cạnh hành động đến khía cạnh nhận thức. Điều này nghĩa là tự chủ nghề nghiệp của GV là yếu tố tiềm năng trong giáo dục và cần trở thành yếu tố căn bản của phương thức văn hóa giáo dục mới. 2.3.3. Các lĩnh vực tự chủ nghề nghiệp của GV đại học ở Trung Quốc Từ năm 2007, khi các trường đại học Trung Quốc bắt đầu tiến hành phân tích những thách thức cấp quốc gia và toàn cầu trong tương lai, GV được tham gia thảo luận mở giữa các GV và lãnh đạo để xác định một số ưu tiên nổi bật cần chú ý trong giáo dục đại học, bao gồm: lôi kéo những đầu óc sáng tạo, ươm tạo những ý tưởng đổi mới, và liên kết các ngành khoa học với xã hội để phục vụ đất nước và thế giới một cách tốt nhất. Để duy trì sự hỗ trợ cho đội ngũ GV, trong vài năm qua, các đại học Trung Quốc đã tiến hành một số cải tổ nền tảng theo từng bước, trong đó có những bước thể hiện những giải pháp phát triển tự chủ nghề nghiệp cho GV. - Tuyển dụng và bồi dưỡng đội ngũ GV mới vào nghề bằng cách xây dựng những nhóm nghiên cứu tập trung vào những vấn đề khoa học và kỹ thuật tiên tiến và đặt ra mức tiêu chuẩn hàn lâm cao hơn và những nhà khoa học đẳng cấp thế giới được thuê để xây dựng nhóm. Năm 2007 bắt đầu một hệ thống bổ nhiệm GV chính thức cho những thành viên mới với chế độ bổ nhiệm thời hạn sáu năm cho những GV trẻ, dựa vào các đánh giá giữa và cuối kỳ của một hội đồng quốc tế. Theo kinh nghiệm của Hoa Kỳ, việc này nhằm đảm bảo quyền tự chủ nghề nghiệp cho GV. - GV đương nhiệm được tự do lựa chọn một trong ba hướng phát triển sự nghiệp được đặt ra từ năm 2010 là: giảng dạy, nghiên cứu, và GV chính thức. Những người đi theo con đường giảng dạy sẽ không cần phải tham gia nghiên cứu; còn những nhà khoa học không có nghĩa vụ giảng dạy sẽ phải tìm nguồn thu nhập từ những trợ cấp nghiên cứu cạnh tranh. Các giáo sư đi theo con đường GV chính thức sẽ vừa dạy vừa nghiên cứu và sẽ được đánh giá theo những tiêu chuẩn kết hợp. Cả ba hướng này đều có những tỉ lệ mức lương khởi điểm tương đương nhau. Các GV sẽ tự chọn con đường phát triển cho mình và có quyền thay đổi sau này nếu các đánh giá của đồng nghiệp cho phép. Tất cả các GV đều có thể TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 29/2019 181 đăng ký xin chuyển sang chế độ GV chính thức khi họ đã đạt những tiêu chuẩn cao hơn, và những người giỏi nhất sẽ được khuyến khích làm như vậy. Các trường đã phân quyền quản trị về các khoa và ban để các khoa, ban có được quyền tự chủ nhiều hơn trong việc tuyển dụng, phát triển và đánh giá đội ngũ nhân viên. Đồng thời, những cải cách về ngân sách đã cho mỗi khoa và ban cơ hội tiếp cận và sử dụng trực tiếp các nguồn vốn. - Một hệ thống bổ nhiệm GV chính thức hợp nhất. Việc xây dựng đội ngũ GV chất lượng quốc tế mới đã tạo ra sự phân hóa trong trường: nhóm các học giả đi theo những tiêu chuẩn và chế độ đãi ngộ phương Tây và nhóm các GV đương nhiệm đi theo ba con đường nêu trên. Năm 2013, sáu khoa/ban thí điểm đã bắt đầu hợp nhất hai hệ thống này thành một chế độ bổ nhiệm GV chính thức duy nhất giống như các trường đại học ở Bắc Mỹ. Một số kết quả đáng khích lệ đã có thể nhìn thấy được ở các môn vật lý, toán học, kỹ thuật cơ khí, kỹ thuật sinh y, luật và quản lý. 2.4. Một vài đề xuất áp dụng mô hình tự chủ nghề nghiệp cho GV đại học ở Việt Nam Để đạt được những mục tiêu trên, tác giả đưa ra một số khuyến nghị trong phát triển tự chủ nghề nghiệp cho GV trong bối cảnh nền giáo dục đại học Việt Nam như sau: Thứ nhất, bối cảnh giáo dục đại học cần chung cấp những thách thức và cơ hội nghề nghiệp để GV thực hiện ra quyết định (ví dụ: tự do lựa chọn phương thức phát triển hồ sơ GV một cách linh hoạt, phát triển phương pháp giảng dạy và chương trình giảng dạy mà GV cho là phù hợp) cũng như cung cấp cho GV cơ hội để trao quyền và tự phát triển cá nhân, phát triển nghề nghiệp. Hiện nay, vẫn còn tồn tại những rào cản về quy định tổ chức lớp học phần đại học cũng như quy định về kiểm tra, thi học phần và đánh giá kết quả học tập của SV, ví dụ đối với các học phần chỉ có lý thuyết hoặc có cả lý thuyết và thực hành: Tùy theo tính chất của học phần, điểm tổng hợp đánh giá học phần được tính căn cứ vào một phần hoặc tất cả các điểm đánh giá bộ phận, bao gồm: - Một điểm đánh giá của giảng viên đối với SV, để đánh giá nhận thức, thái độ tham gia thảo luận và tính chuyên cần. Điểm này có trọng số 10%. - Từ một đến hai điểm kiểm tra học phần, điểm đánh giá phần thực hành hoặc điểm tiểu luận. Điểm này có trọng số 20%, hoặc 30% hoặc 40%. Mỗi điểm kiểm tra giữa học phần, điểm đánh giá phần thực hành không chiếm quá 30% điểm học phần. - Điểm thi kết thúc học phần, trong đó điểm thi kết thúc học phần là bắt buộc cho mọi học phần và có trọng số 50% hoặc 60% hoặc 70%. 182 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI Việc lựa chọn các hình thức đánh giá bộ phận và trọng số của các điểm đánh giá bộ phận, cũng như cách tính điểm tổng hợp đánh giá học phần do Bộ môn đề xuất qua Phòng QLĐT để trình Hiệu trưởng phê duyệt và phải được ghi trong Đề cương chi tiết của học phần.” Việc có những khung quy định như thế này là một điều tốt, tuy nhiên, nếu xét trên phương diện hiệu quả sau khi kết thúc học phần, lượng kiến thức SV tiếp thu được, những giá trị mà SV có thể sử dụng được sau khi tốt nghiệp và tham gia vào thị trường lao động thì những quy định trên đôi khi sẽ khiến cho người dạy bị hạn chế trong việc thiết kế quá trình đánh giá kết quả học tập để mang lại hiệu quả cao nhất cho môn học. Thứ hai, đánh giá hoạt động đào tạo cần huy động khả năng nhận thức mang tính phản biện của GV đối với từng tình huống thực tế. Nghĩa là GV cần được cung cấp thông tin nhiều nhất có thể (thuộc về lĩnh vực giáo dục chung và giáo dục đại học, các tiêu chí đánh giá hoạt động đào tạo, cơ hội cho phát triển nghề nghiệp chuyên môn). Đánh giá cũng cần có quan điểm mở - điều rất cần thiết cho GV có thể tự điều khiển hoạt động đào tạo nhằm theo dõi và phản ánh những chiến lược dạy học mà họ sử dụng và tính chất tương tác hai chiều với SV mà họ thiết lập và tham gia. Bên cạnh đó, GV còn có thể tự bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn của bản thân, đặc biệt là năng lực ứng dụng công nghệ thông tin và năng lực phát triển chương trình đào tạo. Thứ ba, mỗi cách đánh giá GV phải dựa trên mức độ tự chủ nghề nghiệp được trao và tuân theo những tiêu chuẩn về công nhận thành tích (bao gồm cả quyền lợi vật chất và phi vật chất cho hoạt động nghiên cứu khoa học). Yếu tố này sẽ thu hút giáo viên vào các hoạt động mang tính thi đua, tự điều khiển hoạt động giảng dạy và phản ánh. Đối với các phương pháp đào tạo mới, GV mất khá nhiều thời gian để chuẩn bị các học liệu như slide, video, tài liệu, bài kiểm tra online và bài về nhà thống nhất với bộ môn trước khi bắt đầu học phần sao cho học liệu phải hấp dẫn, thực tiễn và thu hút được sự chú ý của SV. Đặc biệt với các hoạt động trao đổi, tự học tự nghiên cứu. Bên cạnh đó, việc xây dựng kịch bản dạy học, tiến trình, phương pháp dạy, xác định phương pháp đánh giá để nắm được tiến trình tiến bộ của SV cũng là một sự trăn trở không nhỏ đối với GV và bộ môn phụ trách. Bởi vậy, để tự chủ có hiệu quả, người dạy cần phải đầu tư công sức và thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của SV. Do đó, GV xứng đáng được công nhận thành tích khi hoàn thành tốt việc tự chủ trong các học phần mình phụ trách. Thứ tư, hệ thống điều hành quản trị của nhà trường cần khuyến khích GV tham gia các dự án giáo dục. Điều này khiến GV thoát khỏi sự cô lập, cá nhân chủ nghĩa, tự mãn và tạo cơ hội để hợp tác, cùng học hỏi, cùng đàm phán và chia sẻ. TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 29/2019 183 Những điều kiện bên trong và bên ngoài này được phối hợp với nhau sẽ khuyến khích sự phát triển của phương thức quản trị giáo dục theo hướng tự chủ (autonomy - oriented type of educational control). 3. KẾT LUẬN Từ kinh nghiệm quốc tế về phát triển tự chủ nghề nghiệp cho GV ở các quốc gia vừa là những đại diện dẫn đầu trong tự chủ đại học (Mỹ), vừa cùng chung điều kiện về chuyển đổi mô hình xã hội từ tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường (Nga), vừa cùng chung bối cảnh văn hóa khu vực châu Á (Trung Quốc), có thể thấy tự chủ nghề nghiệp là yếu tố tiềm năng trong giáo dục. Các cơ sở giáo dục đại học cần đảm bảo tự chủ nghề nghiệp cho GV không chỉ đối với hoạt động giảng dạy, tính kiểm soát cơ bản đối với chương trình đào tạo, nghiên cứu mà còn ở hoạt động điều phối tác động đến môi trường giáo dục; thiết lập môi trường để GV được thể nghiệm ở mức độ cao về tự chủ nghề nghiệp. Bên cạnh đó, cần gắn tự chủ nghề nghiệp với tạo động cơ thành tích đối với GV và chú ý tới tự chủ trong định hướng phát triển chuyên môn của mỗi GV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Kevin Dale Gwaltney (2012), Teacher autonomy in the United States: stabling a standard definition, validation of a nationally representative construct and an investigation of policy affected teacher group, - A Dissertation presented to the Faculty of the Graduate School at the University of Missouri-Columbia. 2. William Edward Moonmaw (2005), Teacher-percaived autonomy: a construct validation of the teacher autonomy scale, - In partial fulfillment of the requirements for the degree of Doctor of Education. 3. Richard C. Smith (2001), Teacher education for teacher-learner autonomy, - Centre for English Language Teacher Education (CELTE) University of Warwick, UK. 4. Oksana A.Gavriliuk and Anastasiya V.Lakhnoa (2013), “Professional Autonomy of a University Teacher in the USA and Russia: Freedom from control or Freedom for Development?”, - Journal of Siberian Federal University. Humanitie & Social Sciences 3. 5. The information network on education in Europe, (2008), Levels of Autonomy and Responsibilities of Teachers in Europe, - Belgium: Eurydice. 6. Glass, S.R. (1997), “Markets & Myths: Autonomy in Public and Private Schools”, - Education Policy Analysis Archives. Vol.5, No.1. 7. Lâm Quang Thiệp, Phillip G.Altbach, D.Bruch Jonhstone (2006), Giáo dục đại học Hoa Kỳ, - Nxb Giáo dục. 8. André du Toit (2007), Autonomy as a social compact, The Council of Higher Education South Africa, ISBN 1-919856-58. 184 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI THE ASPECTS OF PROFESSIONAL AUTONOMY OF LECTURERS IN THE HIGHER EDUCATION SYSTEM IN SOME COUNTRIES AROUND THE WORLD Abstract: Along with the trend of university autonomy, professional autonomy of lecturers is considered an indispensable requirement to ensure the quality of teaching and research of teachers, help universities reach the first management model and contribute to promote and support learners' autonomy - one of the key goals of education. The paper presents the overview of the roles, areas and levels of professional autonomy of lecturers; analyzes some aspects of professional autonomy of lecturers in a number of countries around the world and draw lessons when applying this model in Vietnam. Keywords: University autonomy, professional autonomy of lecturers.
File đính kèm:
- cac_linh_vuc_tu_chu_nghe_nghiep_cua_giang_vien_trong_he_thon.pdf