Các giai đoạn phát triển của pháp luật quốc tế về nhân quyền đối với người dân tộc thiểu số
Trong bất cứ giai đoạn nào, nhóm người dân tộc thiểu số (minority ethnic group) cũng đều là nhân tố
quan trọng, tác động đến sự phát triển bền vững của quốc gia đa dân tộc. Bên cạnh đó, người dân tộc thiểu
số là nhóm người dễ bị tổn thương (vulnerable groups) hơn so với nhóm người dân tộc chiếm đa số trong
một quốc gia, họ gặp phải nhiều rào cản trong việc tiếp cận các quyền con người bởi hạn chế về địa bàn, điều
kiện sinh sống, nhận thức, ngôn ngữ thiểu số. Những thách thức mới hiện nay như hoàn thiện chính sách,
pháp luật và giải quyết các vấn đề khách quan trong thực tiễn cuộc sống đã gây ra bất công hoặc thậm chí vi
phạm quyền con người, quyền của người dân tộc thiểu số. Cũng do đó trách nhiệm bảo vệ quyền con người,
quyền của người dân tộc thiểu số được đặt ra ở hầu hết các quốc gia đa dân tộc và đặc biệt là trên diễn đàn
pháp luật quốc tế về nhân quyền.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các giai đoạn phát triển của pháp luật quốc tế về nhân quyền đối với người dân tộc thiểu số
KHOA HỌC XÃ HỘI Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 201542 CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ NHÂN QUYỀN ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Đỗ Mạc Ngân Doanh1 TÓM TẮT Trong bất cứ giai đoạn nào, nhóm người dân tộc thiểu số (minority ethnic group) cũng đều là nhân tố quan trọng, tác động đến sự phát triển bền vững của quốc gia đa dân tộc. Bên cạnh đó, người dân tộc thiểu số là nhóm người dễ bị tổn thương (vulnerable groups) hơn so với nhóm người dân tộc chiếm đa số trong một quốc gia, họ gặp phải nhiều rào cản trong việc tiếp cận các quyền con người bởi hạn chế về địa bàn, điều kiện sinh sống, nhận thức, ngôn ngữ thiểu số... Những thách thức mới hiện nay như hoàn thiện chính sách, pháp luật và giải quyết các vấn đề khách quan trong thực tiễn cuộc sống đã gây ra bất công hoặc thậm chí vi phạm quyền con người, quyền của người dân tộc thiểu số. Cũng do đó trách nhiệm bảo vệ quyền con người, quyền của người dân tộc thiểu số được đặt ra ở hầu hết các quốc gia đa dân tộc và đặc biệt là trên diễn đàn pháp luật quốc tế về nhân quyền. Từ khóa: Quyền con người; quyền của người dân tộc thiểu số; quyền của nhóm dễ bị tổn thương 1. Lời mở đầu Trong tiến trình lịch sử, nếu tư tưởng về quyền con người, được hình thành từ buổi bình minh của lịch sử nhân loại, khi nhận thức được sự khác biệt giữa con người với phần còn lại của thế giới, nghĩa là từ khi người ta có được những nhận thức đầu tiên về “phẩm giá” của mình [5; 202]; thì hệ tư tưởng về quyền của người dân tộc thiểu số được hình thành và phát triển kể từ khi xuất hiện ý thức về “thiểu số” (minority) và “dân tộc” (ethnics). Người dân tộc thiểu số (ethnic minorities) hay những người thuộc nhóm thiểu số về dân tộc (persons belonging to ethnic minorities) là cách gọi tên trong tương quan đối với những người mang dân tộc chiếm đa số (ethnic majority) của một quốc gia đa dân tộc. Khó có thể xác định chính xác được tư tưởng pháp lý về quyền con người nói chung, quyền của người dân tộc thiểu số hình thành trước tiên ở khu vực nào và từ khi nào trên thế giới, bởi tại mỗi quốc gia và khu vực lại có những tranh luận riêng về lịch sử hình thành và điểm xuất phát về nhân quyền của riêng mình. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, thời điểm những nội dung đầu tiên về quyền con người được thông qua bởi Liên hợp quốc2 (mà tiền thân là Hội quốc liên3) là lúc mà pháp luật nhân quyền được công nhận bởi nhiều quốc gia trên thế giới nhất. Với lý do này, nghiên cứu các giai đoạn phát triển của pháp luật quốc tế về quyền của người dân tộc thiểu số được trình bày sau đây sẽ bám sát vào thực tiễn hoạt động của Hội quốc liên và sau này là Liên hợp quốc, qua đó phần nào thấy được sự phát triển của những nghiên cứu hệ thống và toàn diện nhất về quyền của người dân tộc thiểu số (QCNDTTS). 2. Giai đoạn 1919 - 1945: Những nỗ lực đầu tiên nhằm xây dựng tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế đối với nhóm thiểu số về dân tộc của Hội quốc liên Vào giai đoạn bùng nổ của chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1914, mối quan tâm đối với dân tộc hoặc chủng tộc thiểu số (cùng với vấn đề trẻ em, người bản địa và tù binh chiến tranh) đã đi đầu trong lĩnh vực chính trị quốc tế, ít nhất là ở châu Âu. Sau thế chiến thứ 1, Hội quốc liên (League of Nations)_ tổ chức liên chính phủ có phạm vi quốc tế được thành lập nhằm mục đích duy trì hòa bình thế giới cùng với Thỏa ước của Hội quốc liên (The Covenant of the League of Nations) được thông qua tại Hội nghị hòa bình Paris tháng 1/1919 không có bất 1NCS Luật, chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật, GASS - Chuyên viên pháp chế, Thanh tra Sở, Sở KH&CN tỉnh Tuyên Quang 2Thành lập vào ngày 26/06/1945, hiện nay có 193 thành viên 3Thành lập vào ngày 10/01/1920, thời điểm mở rộng nhất đã có 58 thành viên Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 2015 KHOA HỌC XÃ HỘI 43 cứ một điều khoản nào đề cập đến việc bảo vệ người thiểu số. Mặc dù vậy, trong giai đoạn này, dưới hoạt động của Hội quốc liên (League of Nations), một loạt các hiệp ước song phương và khu vực đã được thông qua để bảo vệ một số quy định nhóm, giải quyết nhiều mối quan tâm chính của người thiểu số. Trong đó, bao gồm: - Các hiệp ước đặc biệt về người thiểu số được ký kết tại Hội nghị hòa bình Paris (Hiệp ước giữa các đồng minh và Ba Lan, ký tại Versailles ngày 28/6/1919; Hiệp ước giữa các cường quốc đồng minh và Vương quốc Serbs, Croats, Slovenes và Saint-Germain, ký tại Versailles ngày 10/9/1919; Hiệp ước giữa các cường quốc đồng minh và Czechoslovakia, Saint-Germain ký tại Versailles ngày 10/9/1919; Hiệp ước giữa các cường quốc đồng minh và Romania, ký tại Paris ngày 9/12/1919; Hiệp ước giữa các cường quốc đồng minh và Hy Lạp, ký tại Sefvres ngày 10/8/1920) - Các hiệp ước hòa bình được bổ sung những điều khoản liên quan đến những vấn đề đặc biệt về người thiểu số (Hiệp ước hòa bình giữa các cường quốc đồng minh và Austria, Saint-Germain, ký ngày 10/9/1919; Hiệp ước hòa bình giữa các cường quốc đồng minh và Bulgaria, Neuilly-sur- Seine, ký ngày 27/10/1919; Hiệp ước hòa bình giữa các cường quốc đồng minh và Hungary, Trianon, ký ngày 4/6/1920; Hiệp ước hòa bình giữa các cường quốc đồng minh và Thổ Nhĩ Kỳ, Lausanne, ký ngày 24/7/1923. - Các tuyên bố đơn phương của một số quốc gia về vấn đề người thiểu số đưa ra trước khi gia nhập và được Hội quốc liên bảo đảm thực hiện (Tuyên bố Albania, đưa ra ngày 2/10/1921; Tuyên bố của Lithuania, đưa ra ngày 12/5/1922; Tuyên bố của Lavia, đưa ra ngày 7/7/1923; Tuyên bố của Estonia, đưa ra ngày 17/9/1923; Tuyên bố của Iraq, đưa ra ngày 30/5/1932). - Các hiệp ước song phương hoặc đa phương về vấn đề người thiểu số (VD: Hiệp ước giữa Danzig và Ba Lan, ký ngày 9/11/1920; Hiệp ước giữa Đức và Ba Lan về vùng Thượng Silesia, ký ngày 15/5/1922; Công ước về lãnh thổ của người Memel, thông qua ngày 8/5/1924...) Thời gian này, việc bảo đảm hiệu lực thực tế được thực hiện thông qua Tòa án Công lý quốc tế4 - một trong 4 cơ quan chính của Hội quốc liên đồng thời là cơ quan tài phán của tổ chức này, đây là lần đầu tiên trên thế giới có một cơ quan tài phán quốc tế đứng ra bảo vệ các nhóm người thiểu số. Khi đưa ra ý kiến tư vấn về tranh cãi giữa hai nước Hy Lạp và Bungari liên quan đến vị thế của các cộng đồng nhập cư thiểu số ở hai nước này vào năm 1930, PCIJ đã xác định: “Một cộng đồng thiểu số là một nhóm người sống trên một quốc gia hoặc địa phương nhất định, có những đặc điểm đồng nhất về chủng tộc, tín ngưỡng, ngôn ngữ và truyền thống, có sự giúp đỡ lẫn nhau và có quan điểm thống nhất trong việc bảo lưu những yếu tố truyền thống, duy trì tôn giáo, tín ngưỡng và hướng dẫn giáo dục trẻ em trong cộng đồng theo tinh thần và truyền thống của chủng tộc họ”[8]. Đây được coi là định nghĩa tiêu biểu đáng kể thứ nhất được sử dụng như là một định nghĩa chính thức về người thiểu số [9; tr.23]. Có thể nhận định, giai đoạn này, bảo vệ các nhóm người thiểu số về dân tộc (ethnic) xuất hiện như một ý thức hệ và như là một sự thỏa hiệp nhằm xoa dịu hệ quả cực đoan sự thống trị của chủ nghĩa dân tộc (nations). Theo hướng đó, ngoài một số nguyên tắc chung xuất hiện trên cơ sở các cam kết cụ thể, thì luật án lệ đã hình thành từ việc giải quyết đơn kiện về những vi phạm các QCNDTTS, điều này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của pháp luật quốc tế sau này. 3. Giai đoạn 1945 - 1966: Sự hình thành, công bố điều 27 Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị năm 1966 của Liên Hợp Quốc Sự giải thể của Hội quốc liên và sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai - cuộc chém giết tàn khốc nhất trong lịch sử nhân loại từ trước tới nay đã phá vỡ hoàn toàn cơ chế bảo vệ người thiểu số mà Hội quốc liên đã tạo lập được. Gần như tất cả các quốc gia bị ràng buộc bởi các hiệp ước hòa bình của Hội quốc liên đều bị lôi cuốn vào vòng chiến. Không thấy một nghiên cứu nào về việc, trong thời gian chiến tranh, các quốc gia có tuân thủ những nghĩa vụ của họ trong việc bảo vệ người thiểu số hay không và tuân thủ đến mức độ nào. Kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai, ngay sau khi ra đời, Liên hợp quốc (The United Nations - UN) đã nhanh chóng thiết lập Tiểu ban về ngăn ngừa sự phân biệt đối xử và bảo vệ người thiểu số (SCPDPM)5 vào năm 1947. Từ những báo cáo đầu tiên, Tiểu ban này đã đưa ra những giải thích cần thiết về bản chất; định nghĩa; giới hạn quyền; phạm vi của QCNDTTS Trong khi không ít quan điểm cho rằng “ngăn ngừa sự phân biệt đối xử” và “bảo vệ người thiểu số” là những khái niệm đồng nhất, thì Tiểu ban đã chỉ rõ “ngăn ngừa sự phân biệt đối xử” là việc ngăn chặn bất kỳ một hành động nào từ chối quyền của các cá nhân hoặc các nhóm được đối xử bình đẳng như họ mong đợi. 4 The Permanent Court of International Justice - PCIJ 5 Sub-Commission on Prevention Discrimination and Protection of Minorities KHOA HỌC XÃ HỘI Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 201544 Còn “bảo vệ người thiểu số” là bảo vệ những nhóm không chiếm ưu thế (vulnerable groups) trong xã hội, mong muốn được đối xử bình đẳng, trong khi thừa nhận hoặc cho phép một giải pháp đối xử khác hơn đối với người thiểu số để duy trì các đặc trưng truyền thống của họ, nếu họ mong muốn điều đó [1]. Tuy nhiên, không có điều khoản nào trong Hiến chương Liên hợp quốc đề cập cụ thể đến việc bảo vệ người thiểu số. Vấn đề bảo vệ người thiểu số về dân tộc hoặc chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ đã không được nhắc đến trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1948 với lý do “Xét thấy rằng rất khó để có thể đưa ra một giải pháp thống nhất cho vấn đề nhạy cảm và phức tạp này, mà tại mỗi quốc gia nơi nó phát sinh lại có những khía cạnh đặc biệt khác nhau” [7]. Với những nỗ lực không ngừng nghỉ sau đó, bên cạnh việc đưa ra những giải thích cần thiết về bản bản chất; định nghĩa; giới hạn quyền; phạm vi QCNDTTS, SCPDPM cũng đã đề xuất một quy định đặc biệt và sau đó đóng góp vào nội dung của Điều 27 ICCPR6 được Đại hội đồng thông qua tại Nghị quyết7 số 2200 (XXI) ngày 16/12/1966, thể hiện như sau: “Ở những quốc gia có nhiều nhóm thiểu số về sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ, những cá nhân thuộc các nhóm thiểu số đó, cùng với thành viên khác của cộng đồng mình, không bị khước từ quyền có đời sống văn hóa riêng, quyền được theo và thực hành tôn giáo riêng, hoặc được sử dụng ngôn ngữ riêng của họ”[2] (In those States in which ethnic, religious or linguistic minorities exist, persons belonging to such minorities shall not be denied the right, in community with the other members of their group, to enjoy their own culture, to profess and practise their own religion, or to use their own language). Cần chú ý rằng ICCPR 1966 là một trong các công ước quan trọng nhất của hệ thống pháp luật nhân quyền quốc tế, là một trong ba văn kiện cấu thành bộ luật nhân quyền cùng với Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế năm 1948 và công ước ICESCR8 1966. Như vậy, điều khoản này đã lần đầu tiên chính thức thừa nhận QCNDTTS trong một điều ước quốc tế có hiệu lực toàn cầu, đồng thời thể hiện một bước tiến rất lớn trong hoạt động bảo đảm QCNDTTS của Liên hợp quốc. 4. Giai đoạn sau 1966 đến nay: Những biện pháp và nỗ lực của Liên Hợp Quốc trong bảo đảm quyền của người dân tộc thiểu số Kể từ năm 1966, vấn đề bảo đảm QCNDTTS càng được quan tâm hơn bao giờ hết, các nghiên cứu nghiêm túc, quy mô và hệ thống bắt đầu được đặt ra. Trong phiên họp lần thứ 24 (1971) của mình SCPDPM đã chỉ định Francesco Capotorti, một báo cáo viên đặc biệt, tiến hành công trình nghiên mang tính chuyên đề về nội hàm Điều 27 ICCPR 1966. Chuyên đề “Nghiên cứu về quyền của người thuộc dân tộc thiểu số, tôn giáo và ngôn ngữ”[3] đã được ông hoàn thành năm 1977. Định nghĩa thứ hai về người thiểu số được ông xác định như sau: “Người thiểu số là một nhóm người, xét về mặt số lượng, ít hơn so với phần dân cư còn lại của quốc gia, có vị thế yếu trong xã hội, những thành viên của nhóm - mà đang là công dân của một nước - có những đặc trưng về chủng tộc, tín ngưỡng hoặc ngôn ngữ khác so với phần dân cư còn lại và chứng tỏ rất rõ ràng là có một ý thức thống nhất trong việc bảo tồn nền văn hóa, truyền thống, tôn giáo và ngôn ngữ của họ”[4]. Sự mở rộng các thuộc tính cấu thành nội hàm của một sự vật hoặc hiện tượng đồng nghĩa với việc thu hẹp ngoại diên của nó. Ở một góc độ nhất định, định nghĩa này khiến cho mối lo ngại của các quốc gia giảm đi, do phạm vi chủ thể được coi là thu hẹp lại. Ngay sau đó, Francesco Capotorti đã đề nghị về việc soạn thảo một Tuyên ngôn về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số, trong khuôn khổ các nguyên tắc đã được ghi nhận trong Điều 27 ICCPR, việc này đã nhận được sự ủng hộ của cả SCPDPM và Ủy ban quyền con người (nay là Hội đồng quyền con người của Liên hợp quốc). Sau Francesco Capotorti, trong nỗ lực tìm kiếm một sự đồng thuận về khái niệm người thiểu số, Jules Deschêness9, (thành viên SCPDPM của Liên hợp quốc), đã tiến hành một nghiên cứu toàn diện hơn vào năm 1985, trong đó ông đã đề xuất rằng định nghĩa nên loại trừ các đối tượng: dân cư bản địa (Indigenous peoples); người không phải công dân sở tại; người thuộc thành phần đa số nhưng bị áp bức. Theo đó, người thiểu số được coi là “... một nhóm công dân của một quốc gia, ít về mặt số lượng và yếu về vị thế trong quốc gia đó, mang những đặc trưng về chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ mà tạo ra sự khác biệt so với nhóm dân cư đa số, có một ý thức thống nhất, một động cơ rõ rệt trong việc 6 Công ước quốc tế về các quyền dân sự - chính trị của Liên hợp quốc năm 1966 7 Adopted and opened for signature, ratification and accession by General Assembly esolution 2200A (XXI) of 16 December 1966 entry into force 23 March 1976, in accordance with Article 49 8 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của Liên hợp quốc năm 1966 9 Nguyên Chánh án Tòa Thượng thẩm Quebec (Canada) Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 2015 KHOA HỌC XÃ HỘI 45 sử dụng ý chí tập thể để tồn tại và đạt được mục đích bình đẳng với nhóm dân cư đa số, cả trên phương diện pháp luật và thực tiễn”[6]. Tuy nhiên, những thuộc tính bổ sung này đã bị Ủy ban quyền con người nói trên bác bỏ. Sau khi các nghiên cứu và định nghĩa đưa ra đều bị bác bỏ, nhóm Công tác lâm thời của Ủy ban nhân quyền (được chỉ định trong phiên họp lần thứ 34 của Ủy ban), dựa trên nghiên cứu một bản dự thảo tuyên ngôn về vấn đề này của Nam Tư (cũ) đưa ra năm 1979, đã thu thập ý kiến đóng góp về dự thảo từ các quốc gia, tổ chức quốc tế và hoàn chỉnh lần cuối cùng rồi gửi lên Đại hội đồng Liên hợp quốc một văn kiện pháp lý về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc hoặc chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ [10; tr.29]. Cuối cùng thì ngày 18/12/1991, Tuyên ngôn về quyền của những người thuộc các nhóm thiểu số về dân tộc hoặc chủng tộc, tôn giáo và ngôn ngữ đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua. Mặc dù vậy, đây là văn kiện không có tính ràng buộc về nghĩa vụ pháp lý, Tuyên ngôn cũng không đưa ra một định nghĩa nào về “người thiểu số” và đồng thời bị phê phán là một “văn kiện bảo thủ” (convervative document). Thậm chí một số chuyên gia còn cho rằng, nó hầu như không tạo ra sự phát triển mới nào so với những nhận thức trước đó trong Điều 27 ICCPR 1966 về phạm trù người thiểu số [6; tr.30]. Và cơ chế, quy định pháp luật quốc gia, khu vực cùng với Điều 27 ICCPR 1966 và bình luận chung số 2310 nhằm giải thích cho điều khoản này là những căn cứ pháp lý ít ỏi đối với nội dung lớn như QCNDTTS. Hiện nay, các tiêu chuẩn quốc tế về QCNDTTS được các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc dẫn chiếu và bảo đảm thực hiện dựa trên một số công ước quốc tế về quyền con người trong đó quan trọng nhất là Điều 27 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (International Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR 1966 - có 166 nước thành viên). Bên cạnh đó còn có Điều 30 của Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 (Convention on the Rights of the Child - CRC 1989 - có 193 nước thành viên, chỉ có Hoa kỳ và Somalia không tham gia); một số nội dung của Công ước về loại trừ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965 (The Convention on the Elimination of all forms of Racial Discrimination - CERD 1965) và một số văn kiện khác (VD: Tuyên bố và Chương trình Hành động Viên về nhân quyền_ The Vienna Declaration and Programme of Action provides in section II, paragraph 19; Cam kết 4 của Tuyên bố và chương trình hành động Copenhagen_ The Commitment 4 of the Copenhagen Declaration and Programme of Action; Tuyên bố về quyền của người thuộc các nhóm thiểu số về quốc gia hoặc dân tộc, tôn giáo và ngôn ngữ năm 1992_Declaration on the Rights of Persons Belonging to National or Ethnic, Religious and Linguistic Minorities on 1992...). Việc vận dụng các cơ chế sẵn có của hệ thống pháp luật quốc tế về nhân quyền nhằm bảo vệ quyền của người dân tộc thiểu số hiện đang được thực hiện bởi các cơ quan tham gia chính, đảm nhận chức năng bảo đảm chung trong hoạt động bảo đảm quyền của người thiểu số của Liên hợp quốc bao gồm: Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (The Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights); Hội đồng nhân quyền (The United Nations Human Rights Council) và các cơ quan trực thuộc; các Thủ tục đặc biệt của Liên hợp quốc (The United Nations special procedures) về vấn đề người thiểu số; các Ủy ban giám sát điều ước của Liên hợp quốc (Human rights treaty bodies) về các vấn đề liên quan đến người dân tộc thiểu số tại các quốc gia, cụ thể: Ủy ban về quyền con người (giám sát thực hiện công ước ICCPR 1966); Ủy ban về quyền trẻ em (giám sát thực hiện CRC 1989) và Uỷ ban chống phân biệt đối xử (giám sát thực hiện CERD 1965). Bên cạnh những cơ quan chuyên trách kể trên còn có các cơ quan liên quan khác trong hệ thống của Liên hợp quốc, có chức năng thúc đẩy thực hiện quyền của người dân tộc thiểu số thông qua chức năng của mình như: Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc (The United Nations Development Programme); Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn (The United Nations High Commissioner for Refugees); Quỹ cho trẻ em Liên Hợp Quốc (The United Nations Children’s Fund); Tổ chức lao động quốc tế (ILO - The International Labour Organization); Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc (The United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization). Bên cạnh các IGOs kể trên, còn có một hệ thống các NGOs (tổ chức phi chính phủ) hoạt động trong lĩnh vực quyền con người. Theo thống kế sơ bộ, IGOs chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong số các tổ chức quốc tế tồn tại trên thế giới [11; tr. 26], đa phần các tổ chức quốc tế là NGOs. Các hoạt động vì mục đích hòa bình, nhân đạo, từ thiện nổi bật có thể kể đến: Tổ chức Ân xá thế giới; Tổ chức Chữ thập đỏ... 10 General Comments/Recommendations about Article 27 ICCPR 1966 of HRC, thông qua tại phiên họp thứ 50 (1994) KHOA HỌC XÃ HỘI Tạp chí Khoa học Công nghệ • Số 1 (1) - 201546 5. Kết luận Sự hưởng ứng của các quốc gia trên thế giới và nỗ lực không mệt mỏi nhằm bảo vệ người dân tộc thiểu số đã biểu thị tinh thần nhân đạo, đồng cảm với những số phận bất hạnh trong xã hội của cộng đồng các quốc gia đa dân tộc trên thế giới. Sự cần thiết ghi nhận QCNDTTS đã được giới nghiên cứu khẳng định, dựa trên cơ sở về đặc điểm đối tượng hưởng quyền là các “nhóm yếu thế trong xã hội”, bằng sự phân định giữa nguyên tắc bình đẳng; ngăn chặn mọi sự phân biệt đối xử với việc bảo vệ quyền của người thiểu số trên nguyên tắc duy trì và bảo tồn. Tuy nhiên, vấn đề này tiếp tục gặp vướng mắc ở chỗ, xuất hiện các xung đột về nguyện vọng giữa chính những cá nhân trong nhóm NDTTS vì họ có thể mong muốn cả sự chống phân biệt đối xử và sự đối xử bình đẳng; sự mâu thuẫn giữa các quyền phát triển và bảo tồn; nhu cầu bảo vệ đặc thù đối với NDTTS có thể được sử dụng để bào chữa cho sự phân biệt đối xử... Mặc dù, các cơ quan của Liên hợp quốc cũng đã thừa nhận rằng việc công nhận quốc tế QCNDTTS có thể cổ súy các tham vọng ly khai, đe dọa đến sự toàn vẹn lãnh thổ và gây ra các cuộc xung đột giữa các nhóm dân tộc khác nhau về việc sử dụng đất đai và các nguồn tài nguyên chung. Nhưng sẽ là thiếu sót bởi đến nay vẫn chưa có định nghĩa nào về “người thiểu số” hay “quyền của người thiểu số” được chấp nhận và ghi nhận vào bất cứ một văn kiện pháp lý quốc tế nào. Tuy vậy, dù chưa thể tìm ra một giải pháp thống nhất về tiêu chuẩn thích hợp được xác lập để áp dụng trong mọi hoàn cảnh, nhưng hướng tiếp cận kết hợp các nguyên tắc chung, nền tảng với sự mềm dẻo và thận trọng nói chung vẫn là thích hợp, thậm chí trong tương lai sẽ còn triển vọng và được thực hiện nhiều hơn cả quá khứ. Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo của Tiểu ban SCPDPM năm 1947, E/CN.4/52 (1947), Sect. V, 13; 2. Báo cáo của Tiểu ban SCPDPM năm 1950, E/CN.4/358 (1950), đoạn 42-7, (Bản dịch Điều 27 ICCPR sang tiếng Việt theo cuốn “Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người”, Trung tâm nghiên cứu quyền con người-quyền công dân, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB. Lao động Xã hội, 2011); 3. Francesco Capotorti, Nghiên cứu về quyền của người thuộc dân tộc thiểu số, tôn giáo và ngôn ngữ, xuất bản năm 1979; 4. Human Right Study Series No.5 (United Nations Publication Sales No.E.91.XVI.2); 5. Hurst Hannum, ed. Documents on Autonomy and Minority Rights, Dordrecht, The Netherlands: Martinus Nijhoff, 1993; 6. Jules Deschênes, Đề xuất liên quan đến việc định nghĩa thuật ngữ “thiểu số”, E/CN.4/Sub.2/1985/31, đoạn 181; 7. Nghị quyết 217C (III) của Đại hội đồng Liên hợp quốc 8. Patrick Thornberry, International Law and the Rights of Minorities, Clarendon Press, Oxford, 1991; 9. Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân - Khoa luật Đại học Quốc gia, Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương, NXB. Lao động Xã hội, 2011; 10. Ủy ban dân tộc miền núi (hỗ trợ bởi Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc), Một số vấn đề về người thiểu số trong luật quốc tế, Hà Nội, 10/2001. 11. Võ Khánh Vinh - Lê Mai Thanh (chủ biên) (2014), Cơ chế quốc tế và khu vực về quyền con người, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội. SUMMARY DEVELOPMENT STAGES OF INTERNATIONAL LAW ON HUMAN RIGHTS FOR ETHNIC MINORITIES Do Mac Ngan Doanh At any stage of the development, ethnic minority groups are always an important factor, affecting the sustainable development of a multi-ethnic nation. Besides, the ethnic minorities are a vulnerable group, they are weaker than the majority ethnic group in a country, they face many barriers in accessing human rights by limitations on geographical, difficult living conditions, cognition, linguistic minorities... Nowadays, new challenges such as improving policies and laws, solving objective problems in reality of life caused injustice or even violation of human rights, rights of ethnic minorities. Therefore, the responsibility for protecting human rights, the rights of minorities is in place in most multi-ethnic nations and especially in international law forums on human rights. Keywords: Research on Human rights; Rights of Minority groups; Ethnic Minorities; Rights of Ethnic Minorities
File đính kèm:
- cac_giai_doan_phat_trien_cua_phap_luat_quoc_te_ve_nhan_quyen.pdf