Các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp tỉnh Quảng Nam trước những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập cộng đồng kinh tế Asean
Ngày 31 tháng 12 năm 2015, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC - ASEAN
Economic Community) chính thức được thành lập, đây là một bước ngoặt đánh dấu sự hội
nhập khu vực một cách toàn diện của các nền kinh tế Đông Nam Á. Báo cáo khoa học này
sẽ giới thiệu vài nét về AEC; phân tích những cơ hội lớn như mở rộng thị trường, nâng
cao năng lực cạnh tranh, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, cho các doanh nghiệp (DN)
nước ta nói chung, tỉnh Quảng Nam nói riêng khi tham gia vào AEC. Đồng thời, các DN
phải đối mặt với những thách thức không nhỏ khi gia nhập vào AEC như: Sự cạnh tranh
về hàng hóa, dịch vụ; sự di chuyển lao động chất lượng cao; về cải cách thể chế, tái cơ
cấu kinh tế và thách thức đối với đầu tư phát triển sản xuất. Qua đó, tác giả sẽ gợi ý
những giải pháp để cơ quan nhà nước và các DN Việt Nam, các DN tỉnh Quảng Nam
tham khảo cho quá trình hội nhập AEC đạt hiệu quả tốt hơn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp tỉnh Quảng Nam trước những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập cộng đồng kinh tế Asean
9 CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀ DOANH NGHIỆP TỈNH QUẢNG NAM TRƯỚC NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC KHI VIỆT NAM GIA NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN Võ Thiện Chín1 Tóm tắt: Ngày 31 tháng 12 năm 2015, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC - ASEAN Economic Community) chính thức được thành lập, đây là một bước ngoặt đánh dấu sự hội nhập khu vực một cách toàn diện của các nền kinh tế Đông Nam Á. Báo cáo khoa học này sẽ giới thiệu vài nét về AEC; phân tích những cơ hội lớn như mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu,cho các doanh nghiệp (DN) nước ta nói chung, tỉnh Quảng Nam nói riêng khi tham gia vào AEC. Đồng thời, các DN phải đối mặt với những thách thức không nhỏ khi gia nhập vào AEC như: Sự cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ; sự di chuyển lao động chất lượng cao; về cải cách thể chế, tái cơ cấu kinh tế và thách thức đối với đầu tư phát triển sản xuất. Qua đó, tác giả sẽ gợi ý những giải pháp để cơ quan nhà nước và các DN Việt Nam, các DN tỉnh Quảng Nam tham khảo cho quá trình hội nhập AEC đạt hiệu quả tốt hơn. Từ khoá: Cộng đồng kinh tế ASEAN, AEC, doanh nghiệp, Quảng Nam, Việt Nam 1. Mở đầu Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang trên đà hội nhập mạnh mẽ, và đã thành lập Cộng đồng ASEAN, trong đó việc thành lập AEC vào ngày 31 tháng 12 năm 2015 là một nội dung hội nhập quan trọng nhất. AEC ra đời sẽ là một bước ngoặt đánh dấu sự hội nhập khu vực một cách toàn diện của các nền kinh tế Đông Nam Á với 10 quốc gia, dân số hơn 620 triệu người, trong đó 300 triệu người tham gia lực lượng lao động, thu nhập bình quân đầu người hơn 4500 USD/người/năm sẽ đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đối với các DN Việt Nam nói chung, các DN của tỉnh Quảng Nam nói riêng. Xét về cơ hội, các DN Việt Nam và các DN của tỉnh Quảng Nam sẽ được một thị trường hàng hoá và dịch vụ rộng lớn hơn; đât nước Việt Nam cũng sẽ có cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiêu hơn, từ các nước có nền kinh tế phát triển cao hơn như Singapore, Indonesia và nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam; các DN Việt Nam sẽ có điều kiện giảm chi phí, hạ giá thành hàng xuất khẩu, góp phần gia tăng năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, song song với những cơ hội là những thách thức không nhỏ do hầu hết các DN Việt Nam không chỉ nhỏ bé về quy mô mà còn yếu về công nghệ. AEC bắt đầu có hiệu lực, các DN Việt Nam và các DN của tỉnh Quảng Nam sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh từ hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu từ ASEAN, đầu tư của các nước ASEAN. Một số ngành sẽ phải thu hẹp sản xuất, thậm chí đóng cửa nếu không có sự chuẩn bị ngay bây giờ. Trong bối cảnh đó việc đề xuất các giải pháp nhằm giúp các DN Việt Nam và các DN của tỉnh Quảng Nam đón lấy những cơ hội và tránh được những thách thức một cách vững chắc trong nền kinh tế Đông Nam Á là một yêu cầu cấp thiết. 1 ThS, NCS Khoa Kinh tế, trường Đại học Quảng Nam. VÕ THIỆN CHÍN 10 2. Nội dung 2.1. Vài nét về Cộng đồng kinh tế ASEAN Cuối năm 2015, AEC chính thức ra đời với mong muốn phát triển ASEAN trở thành một khu vực cạnh tranh, ổn định, thịnh vượng với sự phát triển kinh tế công bằng, giảm đói nghèo và phân hóa kinh tế - xã hội. AEC sẽ cùng với Cộng đồng an ninh - chính trị ASEAN (APSC) và Cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN (ASCC) làm nên ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN. Trong đó, AEC là một trụ cột quan trọng trong Cộng đồng ASEAN. Mục đích của việc hình thành AEC là: Tăng cường khả năng cạnh tranh của ASEAN; Cải thiện môi trường đầu tư ở ASEAN; Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên và đạt được sự hội nhập kinh tế sâu hơn trong khu vực. Mục tiêu của việc thành lập AEC là thực hiện bốn trụ cột sau đây: Thứ nhất: Thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất Ở trụ cột này, các nước ASEAN chú trọng tự do hóa ba lĩnh vực lớn là: (1) Tự do hoá thương mại hàng hoá; (2) tự do hoá thương mại dịch vụ; (3) tự do hoá đầu tư, tài chính và lao động. Theo đó, trong thời gian tới, để tự do hóa thương mại hàng hóa, các thành viên ASEAN sẽ tham gia lộ trình cắt giảm thuế; cải cách hải quan và các biện pháp tạo thuận lợi thương mại khác. Hướng tới tự do hóa thương mại dịch vụ, các nước ASEAN sẽ tiến hành đàm phán 11 gói cam kết cho đến cuối năm 2015. Các lĩnh vực dịch vụ được ASEAN ưu tiên tự do hoá gồm: ASEAN điện tử (e-ASEAN), y tế, logistics, hàng không và du lịch. Cho đến nay, các nước ASEAN đã đạt được 8 gói cam kết về dịch vụ, 5 gói cam kết dịch vụ tài chính và 7 gói dịch vụ vận tải đường hàng không. Trong lĩnh vực tự do hóa đầu tư, tài chính và lao động, ASEAN chú trọng thúc đẩy đầu tư nội khối thông qua Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) với mục tiêu là tạo ra một cơ chế đầu tư tự do, mở cửa trong ASEAN được thực hiện thông qua từng bước tự do hóa đầu tư; tăng cường bảo vệ nhà đầu tư của các nước thành viên và các khoản đầu tư của họ; cải thiện tính minh bạch và khả năng dự đoán của các quy tắc, quy định và thủ tục đầu tư; xúc tiến, hợp tác tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi và thống nhất. Đối với hội nhập tài chính tiền tệ, các nước ASEAN chú trọng bốn lĩnh vực: (1)- Phát triển thị trường vốn, (2)- Tự do hóa dịch vụ tài chính, (3)- Tự do hóa tài khoản vốn và (4)- Hợp tác tiền tệ ASEAN. Để tạo điều kiện cho lao động lành nghề di chuyển trong khu vực, từ đó thúc đẩy hoạt động đầu tư và thương mại, các nước ASEAN đã ký kết các Thoả thuận công nhận lẫn nhau (MRAs - Mutual Recognition Agreement). Theo đó, cho phép chứng chỉ của lao động lành nghề được cấp bởi các cơ quan chức năng tương ứng tại một quốc gia sẽ được thừa nhận bởi các nước thành viên khác trong khu vực. Đến nay, ASEAN đã ký kết 7 MRAs đối với lao động trong các lĩnh vực sau: Dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ điều dưỡng, dịch vụ kiến trúc, chứng chỉ giám sát, người hành nghề y, người hành nghề nha khoa và hành nghề kế toán. Thứ hai: Một khu vực kinh tế cạnh tranh Để đạt mục tiêu xây dựng một khu vực kinh tế cạnh tranh, AEC đang hướng vào 4 hoạt động chính gồm: Chính sách cạnh tranh; bảo vệ người tiêu dùng; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và phát triển cơ sở hạ tầng, thuế quan, thương mại địa phương. CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀ DOANH NGHIỆP 11 Thứ ba: Một khu vực phát triển đồng đều Để tạo lập một ASEAN phát triển đồng đều, ASEAN đã xem xét để xây dựng một chiến lược để phát triển DN nhỏ và vừa, thiết lập một khung chương trình chung cho các doanh nhân ASEAN và đưa ra Sáng kiến Hội nhập ASEAN (AIA). IAI giúp các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam nâng cao năng lực thông qua việc cung cấp nguồn lực kỹ thuật và tài chính cho một loạt các dự án phát triển để hỗ trợ khu vực hội nhập như phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực và công nghệ thông tin. Thứ tư: Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu Để thực hiện mục tiêu này, ASEAN nhất trí việc giữ vững vai trò "trung tâm" của toàn khối trong quan hệ đối ngoại; thúc đẩy đàm phán các FTA và Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện; tham gia mạnh mẽ hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Cho tới cuối năm 2013, ước tính AEC đã đạt tỷ lệ thực hiện là 79,7% các mục tiêu đặt ra với các trụ cột nêu trên. Điều đó cho thấy ASEAN còn nhiều việc phải làm để thực hiện AEC theo đúng lịch trình đã đề ra. Ngoài 4 trụ cột trên, có 7 điều nên biết về AEC theo kết quả nghiên cứu của McKinsey: (1). 10 thành viên ASEAN cộng lại sẽ là một nền kinh tế lớn (đứng thứ 7 thế giới), là thị trường gần như không thể bỏ qua. Việt Nam không biết tận dụng cơ hội thì rất đáng tiếc. (2). AEC là thị trường đơn rất đa dạng về trình độ phát triển kinh tế, tôn giáo, nên nếu khai thác được những khía cạnh khác nhau thì cơ hội cũng không ít. (3). Các nước ASEAN có nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc cho tăng trưởng, trong đó, ngay cả các nước kém phát triển hơn như Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar cũng có tốc độ tăng trưởng cao. (4). AEC là một khu vực tiêu dùng có nhu cầu tăng cao. Đối với một quốc gia sản xuất hàng tiêu dùng lớn như Việt Nam thì đây sẽ là một lợi thế lớn khi gia nhập AEC. (5). AEC xác lập vị thế tốt trong thương mại toàn cầu, tỷ trọng của các nước ASEAN cộng lại có mức tăng trưởng khá đều đặn. (6). Giao dịch nội vùng của ASEAN phát triển sâu rộng, nhưng có thể sẽ không đồng đều giữa thương mại, dịch vụ và đầu tư. (7). AEC là cứ điểm của nhiều công ty có sức cạnh tranh quốc tế. Các công ty có mặt rộng rãi và ngay bản thân các nước ASEAN đã hình thành được những công ty có sức mạnh toàn cầu. 2.2. Đặc điểm của các DN Điểm nổi bật của các DN Việt Nam nói chung, DN của tỉnh Quảng Nam nói riêng là những DN nhỏ và vừa (chiếm 97% trong tổng số DN hiện nay). Do đó, chúng có những đặc điểm sau: (1) Quy mô vốn và số lượng lao động ít: Đặc điểm này đã làm cho các DN gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động, mở rộng sản xuất kinh doanh, cũng như đào tạo phát triển nguồn nhân lực; (2) Khả năng quản lý của chủ DN, trình độ của người lao động còn hạn chế: Họ vừa là người quản lý DN, vừa tham gia trực tiếp vào sản xuất nên mức độ chuyên môn trong quản lý không cao. Phần lớn những người chủ DN đều không được đào tạo qua một khóa quản lý chính quy nào. Người lao động ít được đào tạo hoặc đào tạo lại do kinh phí hạn hẹp hoặc người chủ không muốn đào tạo người lao động, vì vậy trình độ và kỹ năng làm việc thấp; (3) Khả năng tiếp cận thị trường kém, làm ăn theo kiểu nhỏ lẻ: Các hoạt động marketing của họ rất hạn chế và chưa có nhiều khách hàng truyền thống, quy mô thị trường của các DN này thường bó hẹp trong phạm vi địa phương, việc mở rộng thị thường, nhất là thị trường nước ngoài VÕ THIỆN CHÍN 12 là rất khó khăn nên phần lớn họ chỉ làm ăn theo kiểu nhỏ lẻ, hiệu quả thấp; (4) Khả năng tiếp cận vốn ngân hàng hạn chế: Đây là đặc điểm phổ biến nữa của các DN nước ta. Nguyên nhân là do các DN thiếu tài sản đảm bảo, sổ sách chứng từ kế toán không rõ ràng, minh bạch, chưa có uy tín trên thị trường. Đây chính là lí do làm cho các DN khó phát triển được, dù cơ hội kinh doanh có đến với họ; (5) Sử dụng công nghệ trong sản xuất kinh doanh thấp, môi trường lao động trong các DN Việt Nam bị ô nhiễm: Theo thống kê thì phần lớn DN hiện nay đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình trên thế giới từ 3 đến 4 thế hệ. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm môi trường lao động, làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người lao động và tỷ lệ tai nạn lao động gia tăng. Ngoài ra, các DN lớn là những DN nhà nước với nhiều ưu ái nên thiếu tính năng động trong kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn nhà nước không cao. 2.3. Những cơ hội khi gia nhập AEC Các DN Việt Nam, trong đó có các DN của tỉnh Quảng Nam khi gia nhập vào AEC sẽ có được những cơ hội lớn sau: 2.3.1. Có được một thị trường rộng lớn Việc hội nhập ASEAN sâu rộng hơn sẽ giúp cho các DN Việt Nam, cũng như của tỉnh Quảng Nam có nhiều cơ hội về mở rộng thị trường, tiếp cận thị trường rộng lớn. ASEAN có tổng GDP trên 2,7 nghìn tỷ USD, tăng trưởng trung bình 5%-6% hàng năm. Dân số trên 600 triệu người, với cơ cấu dân số tương đối trẻ. Thu nhập bình quân đầu người trên 4.500 USD/người/năm. Tổng giá trị giao dịch thương mại 2,5 nghìn tỷ USD. Sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề, ở dạng nguyên liệu, chi phí trung gian cho tới thành phẩm đều có những thuận lợi nhất định. Trong thị trường chung AEC có 12 ngành công nghiệp được ưu tiên hội nhập gồm: Sản phẩm từ nông nghiệp, vận tải hàng không, ô tô, điện tử ASEAN, thủy sản, y tế, các sản phẩm cao su, dệt may và may mặc, du lịch, các sản phẩm gỗ và dịch vụ logistics, thực phẩm, nông lâm sản. Trong những ngành ưu tiên này, các DN của tỉnh Quảng Nam có lợi thế là Ô tô (Trường Hải), thủy sản, dệt may và may mặc, du lịch (phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Tượng đài Mẹ Thứ,), các sản phẩm gỗ (các làng Mộc ở Hội An), thực phẩm, nông lâm sản. Những DN này cần phát huy thị trường rộng lớn để quảng bá sản phẩm khi hội nhập sâu hơn. 2.3.2. Đẩy mạnh hoạt động và nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu AEC sẽ là cơ hội quý báu để các DN Việt Nam và của tỉnh Quảng Nam đẩy mạnh xuất khẩu, nhanh chóng bắt nhịp với xu thế và trình độ phát triển kinh tế của khu vực và thế giới. Từ năm 2004 đến nay, ASEAN đã ký kết FTA với nhiều đối tác: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand, Ấn Độ. Xu thế này phù hợp với xu thế đẩy mạnh cải cách, mở cửa của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang đàm phán các FTA với EU, Liên minh Hải quan (Nga, Belarus, Kazakhstan), ASEAN+6, Hàn Quốc, Khối Thương mại tự do châu Âu (Thụy Sỹ, Na Uy, Liechtenstein, Iceland) và đàm phán thành công và kí kết Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). AEC ra đời cùng với việc CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀ DOANH NGHIỆP 13 Việt Nam mở rộng các Hiệp định tự do thương mại sẽ tạo động lực giúp các DN nước ta mở rộng giao thương, đẩy mạnh xuất khẩu, cắt giảm chi phí nhập khẩu, hạ giá thành sản phẩm, tiếp cận các thị trường rộng lớn hơn. Khi AEC được thành lập, thuế suất trong ASEAN giảm xuống 0%, các DN Việt Nam và tỉnh Quảng Nam sẽ có điều kiện giảm chi phí, hạ giá thành hàng xuất khẩu, góp phần gia tăng năng lực cạnh tranh. Theo quy định của ASEAN, các sản phẩm sản xuất có tỷ lệ “nội khối” 40% được xem là sản phẩm vùng ASEAN, sẽ được hưởng các ưu đãi khi xuất khẩu sang các thị trường khu vực ASEAN đã có FTA. Đây là cơ hội để các DN Việt Nam và tỉnh Quảng Nam tận dụng các ưu đãi nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu trong nước sang thị trường khu vực. 2.3.3. Cơ hội thu hút các nguồn đầu tư Cơ hội được trông đợi nhất từ tất cả các nước ASEAN chứ không riêng gì Việt Nam đó là sự đầu tư và hợp tác đến từ các nền kinh tế lớn, phát triển. Bởi vì việc kết nối và xây dựng một ASEAN thống nhất, sẽ khiến các nhà đầu tư lớn nhìn ASEAN như một sân chơi chung, một công xưởng chung, ở đó có một khối nguồn lực thống nhất, đặc biệt là nguồn nhân lực có kỹ năng với giá còn tương đối rẻ. Tỉnh Quảng Nam có lợi thế về sân bay Chu Lai, cảng biển Kỳ Hà nằm sát khu kinh tế Chu Lai đã có đầy đủ cơ sở hạ tầng, có đường sắt, đường bộ, đường cao tốc chất lượng. Chính quyền tỉnh cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính sẽ thu hút được đầu tư. AEC cũng sẽ giúp Việt Nam cải thiện tốt hơn môi trường kinh doanh từ thủ tục hải quan, thủ tục hành chính cho tới việc tạo ra ưu đãi đầu tư cân bằng hơn. Thu hút đầu tư nhiều hơn đồng nghĩa với quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra nhanh và tích cực hơn, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm công nghiệp, tạo đà cho nền công nghiệp Việt Nam hướng tới phát triển cân bằng với các quốc gia khác. 2.3.4. Cơ hội về lao động, việc làm Đối với lĩnh vực lao động, việc làm, nước ta cũng đứng trước những cơ hội lớn. Để thực hiện cam kết có tính mới và đột phá về "tự do dịch chuyển của lao động có chứng chỉ đào tạo", 10 nước ASEAN đã thống nhất công nhận giá trị tương đương của chứng chỉ đào tạo của mỗi nước thành viên đối với tám loại nghề nghiệp như: Bác sỹ, Nha sỹ, Hộ lý, Kỹ sư, Kiến trúc sư, Kiểm toán viên, Giám sát viên và Nhân viên du lịch. Khi gia nhập AEC, các DN nước ta trong đó có các DN của Quảng Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu lao động sang các nước trong khu vực. Việt Nam và tỉnh Quảng Nam có lợi thế về nguồn lao động trẻ đông đảo, khéo tay, học nhanh và làm việc chăm chỉ, có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực về lao động phổ thông. Đối với tỉnh Quảng Nam có lợi thế về du lịch (phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Tượng đài Mẹ Thứ,) nên cần phải có chiến lược đào tạo nhân viên du lịch chất lượng cao để đón lấy cơ hội này. 2.4. Những thách thức khi gia nhập AEC Bên cạnh những cơ hội khi gia nhập AEC, các DN Việt Nam trong đó có các DN của tỉnh Quảng Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức sau đây: 2.4.1. Thách thức lớn nhất là sự cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ VÕ THIỆN CHÍN 14 Cạnh tranh không chỉ ở thị trường nước ngoài mà còn thị trường trong nước, không chỉ cạnh tranh với DN đến từ ASEAN mà còn phải cạnh tranh với DN các nước ASEAN+ như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, v.v... Mức độ cạnh tranh khá khốc liệt khi hàng hóa, dịch vụ của nhiều nước ASEAN có chất lượng cao hơn so với hàng hóa và dịch vụ trong nước. Đặc biệt, hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam có tính tương đồng cao với các nước trong khu vực, dẫn đến tính loại trừ rất cao. Chưa kể, các DN của các nước ASEAN, đặc biệt là các nước ASEAN+ có bề dày, kinh nghiệm, kỹ năng quản lý kinh doanh tốt hơn, công nghệ cao hơn và đặc biệt họ có sự chuẩn bị tốt hơn cho hội nhập. Trong khi các DN Việt Nam lại ít kinh nghiệm, sự sẵn sàng cho hội nhập chưa cao, nhất là các DN nhỏ và vừa đang phải cố gắng vượt qua khó khăn thách thức do bất ổn kinh tế Việt Nam. Vì thế, muốn hội nhập thành công thì một trong những vấn đề quan trọng là các DN Việt Nam và các DN tỉnh Quảng Nam cần có chiến lược tiếp cận thị trường ASEAN khi hàng hóa của các nước ASEAN tràn ngập vào Việt Nam sau khi gia nhập AEC. 2.4.2. Thách thức đối với đầu tư phát triển sản xuất Nhờ việc giao lưu hàng hóa trở nên thuận tiện hơn, với chi phí thấp hơn giữa các nước trong AEC, các nhà đầu tư có thể cân nhắc đầu tư phát triển sản xuất một cách tập trung tại những địa điểm thuận lợi nhất về môi trường kinh doanh, tính nhất quán của chính sách, kinh tế vĩ mô ổn định, dồi dào nguồn vốn con người và nguồn nguyên liệu, sau đó vận chuyển sản phẩm đến những vùng khác nhau trong AEC. Trước bối cảnh đó, Việt Nam chưa hẳn là một lựa chọn hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nếu các khía cạnh nêu trên của nước ta không bộc lộ được chất lượng vượt trội, thì sau năm 2015, Việt Nam nói chung, tỉnh Quảng Nam nói riêng có nguy cơ trở thành địa bàn để tiêu thụ hàng hóa thay vì là nơi đầu tư phát triển sản xuất. Việc cạnh tranh về dịch vụ đầu tư của các nước ASEAN sẽ dẫn đến một số ngành, DN phải thu hẹp sản xuất, thậm chí rút khỏi thị trường. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập mạnh mẽ, các nước sẽ mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam nhưng đồng thời Việt Nam cũng phải mở cửa cho hàng hóa cạnh tranh của các nước. Những DN có lợi thế xuất khẩu sẽ ngày càng lớn mạnh hơn, trong khi đó các DN có khả năng cạnh tranh yếu đối với hàng hóa nhập khẩu sẽ gặp thách thức nghiêm trọng. Hiện nay, đa số DN của Việt Nam là DN nhỏ và vừa, năng lực cạnh tranh hạn chế, bước vào "sân chơi" AEC, các DN Việt Nam đối mặt không ít khó khăn. 2.4.3. Thách thức về di chuyển lao động chất lượng cao Lao động có kỹ năng của Việt Nam tự do di chuyển sang các nước trong AEC có thể dẫn đến chảy máu chất xám. Theo thống kê có 20% số lao động của Việt Nam có kỹ năng chuyên môn, như vậy có nghĩa khi lao động được tự do di chuyển, lao động có kỹ năng của Việt Nam có khả năng đi ra bên ngoài vì được trả lương cao, hoặc hướng tới các DN đầu tư nước ngoài ngay tại Việt Nam, hoặc lao động có kỹ năng của nước ngoài sẽ thâm nhập vào các vị trí trong các DN của Việt Nam. Thực tế hiện nay không ít số lao động của Việt Nam có nhược điểm là rất kém về kỷ luật lao động, kỹ năng sống và sẵn sàng ra đi nếu được hứa hẹn tiền lương cao hơn. Mặt khác, do trình độ chuyên môn và kỹ năng của lao động Việt Nam đa số chưa CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀ DOANH NGHIỆP 15 cao, điều này ở tỉnh Quảng Nam là khá rõ. Cho nên, lao động có tay nghề cao từ các nước ASEAN-6 phát triển hơn, họ có thể tràn vào Việt Nam trong đó có Quảng Nam và gây ra nhiều hệ lụy về xã hội là điều khó tránh khỏi. Thực tế này đòi hỏi Chính phủ Việt Nam nói chung, tỉnh Quảng Nam nói riêng, phải có sự chuẩn bị tốt để đối phó với thách thức về di chuyển lao động trong AEC. 2.4.4. Thách thức về cải cách thể chế, tái cơ cấu kinh tế Trong những năm tới, Việt Nam đứng trước sức ép rất lớn về cải cách thể chế, tái cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ khoa học - công nghệ và năng lực cạnh tranh, trong bối cảnh ASEAN nhảy vọt từ Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) lên AEC. Hiện nay, trình độ phát triển của Việt Nam còn kém xa so với nhiều quốc gia trong ASEAN như: Singapore, Malaysia, Thái Lan...do vậy, sức ép cải cách đặt ra với Việt Nam là rất lớn. Xếp hạng năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam do Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công bố cho năm 2014-2015 ở mức rất thấp và ít có cải thiện từ nhiều năm nay. Nền quản lý hành chính lạc hậu, thủ tục rườm rà gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng lực cạnh tranh, chi phí về thời gian và tiền bạc của các DN Việt Nam, đơn cử như việc các DN Việt Nam cần đến 872 giờ/năm để đóng thuế trong khi con số bình quân của dịch vụ này ở các nước ASEAN - 6 chỉ là 172 giờ/năm. Thực tế này cho thấy, cải cách thể chế, tái cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ khoa học - công nghệ và năng lực cạnh tranh đang là đòi hỏi cấp thiết đặt ra cho Việt Nam, cũng như tỉnh Quảng Nam khi gia nhập AEC. 2.5. Gợi ý những giải pháp Để đón lấy những cơ hội cũng như vượt qua những thách thức vừa phân tích trên, tác giả gợi ý các giải pháp sau để các nhà chức trách và các DN tham khảo khi hội nhập AEC: 2.5.1. Hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN Đây là một trong những nội dung quan trọng với các DN đang hoạt động trong 12 lĩnh vực ưu tiên của AEC. Theo đó, các DN cần chủ động thực hiện tập trung cơ cấu lại bộ máy tổ chức, nâng cao trình độ quản trị sản xuất kinh doanh, tăng cường hợp tác với các DN trong nội khối ASEAN để tận dụng những thế mạnh của nhau khi tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và chuỗi giá trị toàn cầu. Ngoài ra, các DN nên quan tâm và tìm hiểu các tiêu chuẩn, quy định về mẫu mã, bao bì hàng hóa và tập quán kinh doanh của các quốc gia ASEAN, cần có những nhân sự chuyên trách xây dựng và phát triển thị trường. Giải pháp chung cho DN và Nhà nước là phải nắm bắt được các cam kết để thực thi, đổi mới cơ chế, nâng cao năng lực quản trị của các cấp chính quyền, đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, giúp DN nâng cao năng lực cạnh tranh. Chiến lược cao nhất và thực chất nhất là nâng cao năng lực cạnh tranh. Nếu tăng GDP bằng cách thu hút đầu tư nước ngoài thì cũng không giúp tăng năng lực cạnh tranh cho Việt Nam. Mặt khác, các cơ quan Nhà nước cần có trách nhiệm phối hợp thường xuyên với cộng đồng DN để kịp thời phản ánh và trao đổi với các đối tác khi những cam kết đã ký phát sinh vấn đề, cần kịp thời sửa đổi. Ngoài ra bản thân các DN cần chủ động tìm hiểu nắm bắt những nội dung mà Chính phủ đã ký kết, để ứng phó kịp thời và nâng cao năng VÕ THIỆN CHÍN 16 lực cạnh tranh, tận dung tối đa những thời gian bảo hộ mà chúng ta đạt được trong việc đàm phán ký kết các Hiệp định. 2.5.2. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính Nhà nước cần phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong các lĩnh vực liên quan thương mại, dịch vụ và đầu tư để tạo thuận lợi cho các DN trong nước và các DN trong khối ASEAN thúc đẩy quá trình hợp tác đầu tư và mở rộng thị trường. Hơn nữa, các chính sách cần từng bước minh bạch hóa giúp cho DN dễ dàng trong việc xây dựng và triển khai chiến lược kinh doanh hiệu quả và lâu dài. Việt Nam cũng đang xây dựng chương trình Một cửa quốc gia (Vietnam's National Single Window - VNSW) và thực hiện Hải quan điện tử nhằm tạo thuận lợi tối đa cho thương mại. 2.5.3. Hỗ trợ các DN vượt qua các rào cản thương mại Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại và xu hướng ngày càng có nhiều các rào cản kỹ thuật, thường là các rào cản liên quan các tiêu chuẩn về kỹ thuật, môi trường, lao động Nhà nước và DN cần đầu tư nguồn lực và thời gian để nghiên cứu và hiểu rõ những rào cản này, xây dựng và hoạch định chính sách phù hợp với các hàng rào mới, có biện pháp đối phó với các rào cản không công bằng và vận dụng những rào cản hợp pháp để phục vụ có hiệu quả cho chiến lược sản xuất, kinh doanh của mình. 2.5.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Để tận dụng được cơ hội, vượt qua thách thức, vấn đề chất lượng nguồn nhân lực là rất quan trọng. Để có nhân lực chất lượng cao, trước hết cần có sự kết hợp giữa nhà trường, DN, Hiệp hội, Việc kết hợp này nhằm nắm bắt được nhu cầu, qua đó đào tạo chuẩn xác lao động có kỹ năng cao với ngành nghề đáp ứng được nhu cầu của xã hội, đặc biệt cần hướng tới đào tạo nhân lực theo chuẩn quốc tế. Các DN Việt Nam, trong đó có DN của tỉnh Quảng Nam cần có chính sách đãi ngộ để thu hút nhân lực chất lượng cao, tạo môi trường tốt giúp họ phát huy năng lực, làm được như vậy sẽ tránh được nạn tránh chảy máu chất xám. Tăng cường đầu tư nâng cao hiệu quả các chương trình đào tạo dạy nghề, nâng cao trình độ tay nghề và ngoại ngữ cho người lao động phù hợp với yêu cầu hội nhập, hướng đến mục tiêu là có đủ lực lượng lao động chất lượng để có thể di chuyển và làm việc trong AEC. 2.5.5. Cần có sự liên kết giữa các DN với nhau Các DN Việt Nam và DN tỉnh Quảng Nam phải làm sao để tồn tại và phát triển ngay trên sân nhà. Muốn vậy, các DN cần trở thành đối tác của nhau thay vì đối thủ. Phục vụ tốt thị trường Việt Nam chính là bước đầu tăng năng lực, trình độ, từng bước đi vào thị trường AEC, từ đó vững bước đi vào các thị trường lớn hơn. Để làm được điều này, các DN cần tìm hiểu, nắm bắt được thông tin của đối thủ, từ đó có những chiến lược kinh doanh phù hợp cũng như khả năng ứng phó trước tình huống rủi ro, chuyên môn hóa sản phẩm có nhiều thế mạnh, nâng cao năng suất lao động, cải thiện chất lượng sản phẩm, và giá cả cạnh tranh. Bên cạnh đó, các DN phải liên kết thành “chuỗi” gồm: DN - nông dân - XNK trong nước và ngoài nước - ngân hàng - viện nghiên cứu. DN cần phải nghiên cứu CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀ DOANH NGHIỆP 17 thị trường, đối tác cạnh tranh và hợp tác. 2.5.6. Tăng cường công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức của các DN về AEC Các DN nước ta nói chung, các DN của tỉnh Quảng Nam nói mới chỉ đang ở mức độ nghe nói đến AEC về lý thuyết chứ chưa hiểu rõ bản chất thực sự, họ chưa cảm thấy nguy cơ thì cũng chưa thể tranh thủ tận dụng cơ hội, nâng cao sức cạnh tranh. Để DN hiểu đầy đủ về các cơ hội và thách thức với mình phải tăng cường công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức của DN về AEC. Do vậy, các cơ quan hữu trách cần xây dựng một cơ chế hiệu quả nhằm nâng cao nhận thức của DN về AEC, về những lợi ích dài hạn mà AEC mang lại, cụ thể là các cơ quan làm công tác hỗ trợ DN, các tổ chức xúc tiến thương mại, các hội ngành nghề cũng như thương vụ của Việt Nam cần phải chủ động nâng cao vai trò của mình hơn nữa, cần có nhiều hình thức khác nhau để cung cấp và hỗ trợ thông tin hiệu quả hơn cho các DN. 2.5.7. Tận dụng “chất xám” của các nước có trình độ phát triển cao Việc thuê chuyên gia của các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản tư vấn về thiết kế, kênh phấn phối; tận dụng nguyên liệu, học hỏi phương pháp sản xuất quy mô lớn của Trung Quốc là việc các DN Việt Nam cũng như tỉnh Quảng Nam nên làm. 2.5.8. DN cần đề cao trách nhiệm xã hội DN nào chứng minh được mình thực hiện tốt trách nhiệm xã hội thì cơ hội chiến thắng càng cao. DN phải biết cách xây dựng văn hóa DN một cách bền vững. 3. Kết luận Sự kiện Việt Nam gia nhập AEC sẽ đem lại cho các DN Việt Nam và các DN tỉnh Quảng Nam nhiều cơ hội lớn, giúp đất nước ta tăng cường vị thế và uy tín trên diễn đàn ASEAN cũng như các diễn đàn quốc tế, nắm bắt được những cơ hội và chủ động đối phó với những thách thức trong tiến trình hợp tác khu vực nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cơ hội luôn đi liền với những thách thức lớn như sự cạnh tranh gay gắt hơn không chỉ cạnh tranh về sản phẩm, thị trường mà còn cạnh tranh cả về nguồn nhân lực chất lượng cao. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt cơ hội, chủ động thay đổi công nghệ sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến để tạo ra các sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành phù hợp mới có thể cạnh tranh trên thị trường. Muốn vậy, Chính phủ cần có các chính sách cụ thể như chính sách tín dụng ưu đãi để các DN nhất là các DN nhỏ và vừa có thể tiếp cận các nguồn vốn vay, từ đó họ đầu tư cải tiến cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Nước ta cần đẩy mạnh cải cách hành chính trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, đầu tư nhằm cải thiện sức cạnh tranh của nền kinh tế cũng như tạo tiền đề cho việc triển khai các cơ chế tự do hoá khi hình thành thị trường chung ASEAN./. VÕ THIỆN CHÍN 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Thế Cường - Nguyễn Quốc Trường (2014), Cộng đồng kinh tế ASEAN –Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam, Viện chiến lược phát triển – Bộ KH và ĐT. [2] Hà Văn Hội(∗), Tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN và những tác động đến thương mại quốc tế của Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội. [3] TS. Vương Đức Hoàng Quân (2014), Nhận thức của các doanh nghiệp TP Hồ Chí Minh về Cộng đồng kinh tế ASEAN. [4] Nguyễn Thị Tâm (2015) – Bộ Lao động thương binh và xã hội, Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN. [5] TS. Nguyễn Đức Thành, Việt Nam và AEC 2015, [6] Tổ chức Lao động Quốc tế (2014), Con đường đến Cộng đồng Kinh tế ASEAN 2015: Những thách thức và cơ hội đối với các DN [7] Văn phòng UBQG - HTKTQT, Cơ hội và thách thức khi Việt Nam hội nhập vào thị trường thế giới, Title: OPPORTUNITIES AND CHALLENGES OF BUSINESSES IN VIETNAM AND IN QUANG NAM WHEN JOINING ASEAN ECONOMIC COMMUNITY VO THIEN CHIN Quang Nam University Abstract: The ASEAN Economic Community (AEC) was formally established on 31 December 2015, this is a turning point which marks comprehensively the regional integration of Southeast Asian economies. This scientific report will introduce some features of the AEC; analyze major opportunities such as expanding market, improve competitiveness and integrate into the global economy for businesses in our country in general and in Quang Nam province in particular when participating in AEC. At the same time, the businesses face great challenges when joining AEC, such as competition for goods and services; moving of high - quality labors; reforming in institution, restructuring economies and challenging to invest in the producing development. Thereby, the author will suggest some solutions for government and businesses to participate in AEC efficiently. Keywords: ASEAN Economic Community, business, Quang Nam, Vietnam (*) Không thấy tác giả ghi năm công bố
File đính kèm:
- cac_doanh_nghiep_viet_nam_va_doanh_nghiep_tinh_quang_nam_tru.pdf